Bộ Bộ Sinh Liên full 8

3.3K 3 0
                                    


Chương 402: Rời Kinh

Dương Hạo rời kinh rồi.

Hắn lấy thân phận phong cương đại lại (đại quan biên giới) trước tiên tới bái kiến hoàng đế, cung kính nghe quan gia giáo huấn một hồi, sau đó liền tới trước linh cữu của tiên đế bái tế lần cuối cùng. Tới linh đường, hành lễ tham bái, hoàng hậu, Vĩnh Khánh công chúa và Triệu Đức Phương vừa được phong tiết độ sứ vẫn đang trông coi lĩnh cữu cũng không tiện nói chuyện với hắn. Dương Hạo mắt không nhìn nghiêng, chân thành hành lễ, cho tới khi bái biệt tiên đế, đứng dậy cáo từ, mới liếc qua ba mẹ con bọn họ một cái.

Những gì nên nói thì cũng đã lén lút nói rồi, Dương Hạo chỉ nhìn bọn họ một cái, từ trong im lặng hướng tới bọn họ mà làm ra một lần hứa hẹn cuối cùng, sau đó thì vẻ mặt tự nhiên, không hề lộ ra một chút sơ hở nào, quay người rời di. Ở một góc linh đường, ánh mắt âm độc của Vương Kế Ân một mực dõi theo bóng hắn, cho tới khi hắn hoàn toàn biến mất ở cửa linh đường mới thôi.

Tuyên chỉ sứ mà Triệu Quang Nghĩa an bài hộ tống Triệu Quang Nghĩa gồm hai người, một văn một võ.

Võ là Đại Tống cấm quân Nhật Bản trực tướng ngu hậu Vương Bảo Tài.

Trực, là một đơn vị võ trang của cấm quân, trong cấm quân Đại Tống có mấy đội ngũ đặc biệt, là do một số binh sĩ của dân tộc tiểu số đầu nhập vào Đại Tống tổ thành, quy mô khá lớn có “Quy Minh Bột Hải trực, Thổ Hồn trực, Khiết Đan trực”…

Bộ Hải trực là do binh sĩ của Bột Hải quốc su khi bị Khiết Đan tiêu diệt chạy tới Trung Nguyên, Thổ Hồn trực thì do người Tiên Ti và người Khương làm chủ, Khiết Đan trực tất nhiên là tộc nhân Khiết Đan. Do tộc nhân Khiết Đan tương đối nhiều, còn chia ra làm Khiết Đan nhất trực, Khiết Đan nhị trực. Những bộ đội lấy dân tộc thiểu số làm chủ này đại đa số là mã quân, kiêu dũng thiện chiến, rất được triều đình coi trọng.

Mà Nhật Bản trực thì không quá nổi danh, bởi vì Nhật Bản trực chủ yếu là do lãng nhân Nhật Bản và võ sĩ Cao Lệ tổ thành, bọn họ sau khi vượt biển tới Trung Nguyên thì nghèo túng vô cùng, sau cùng chỉ đành dựa vào một thân võ nghệ đầu nhập quân đội để làm lính, nhân số của bọn họ tương đối ít, cũng không giỏi phối hợp tác chiến, cho nên thanh danh không được nổi, có điều nhân mã của một trực này giỏi kỹ kích cá nhân, cũng tính có sở trường.

Võ tướng hộ tống Dương Hạo tây hành là thống lĩnh Nhật Bản trực, quan chức là tướng ngu hậu. Vị tướng ngu hậu là người Nhật Bản, vốn tên là Tá Tá Mộc Tắc Phu, là một võ sĩ lụi bại, sau khi lưu lạc Trung Nguyên vốn định bỏ võ đi kinh doanh, cho nên lấy một cái tên rất màu mè là Vương Bảo Tài, không ngờ khi hắn tới Trung Nguyên, Trung Nguyên cũng đang ở vào lúc chiến loạn liên miên, Tá Tá Mộc không kinh doanh được gì, sau cùng đành gia nhập quân đội.

Vị tướng ngu hậu này tuy tên có chút tục khí, nhưng vừa mới tới tứ tuần, đang là lúc thể lực, trí lực đạt tới đỉnh phong, thân hình không cao nhưng săn chắc, mặc giáp vào trông cũng uy phong lẫm lẫm, ở hông đeo một thanh đao to, mặt đầy sát khí.

Văn là lễ bộ viên ngoại lang Công Tôn Khánh, Công Tôn Khánh cũng khoảng tứ tuổi, thân kỳ cao to, mặt trắng râu ít, vừa nhìn đã biết là một thư sinh hào hoang phong nhã, có điều trong ngôn đàm cử chỉ cũng không đến nỗi quá cổ hủ.

Trừ nhân mã mà bọn họ mang theo ra thì chính là người nhà của Dương Hạo. Ngày đó khi Trình Đức Huyền tới phủ của Dương Hạo, trong phủ của Dương Hạo chỉ còn lại mấy gia phộ trông coi hộ vệ. Chủ nhân thì không hề thấy ai. Hôm sau sau khi Dương Hạo bí mất gặp Vính Khánh công chúa, lập tức thay đổi kế hoạch của mình, thế là Kế Tự đường lập tức động tay động chân, thần không biết quỷ không hay gọi người trong phủ của hắn về, chuẩn bị tốt bước thứ hai.

Bước thứ nhất quả nhiên dùng được, Dương Hạo hiện giờ đã dùng thân phận phong cương đại lại quay về Lô châu, tất nhiên không thể án chiếu theo phương thức và lộ trình chạy trốn mà Kế Tự đường đã an bài lúc ban đầu để ly khai, thế là những nha hoàn sử nữ (hầu gái), viện tư môn tử (người sai vặt trong nhà) vừa được nhận vào làm, giống như một đàn ong đều theo hắn lên đường.

Đối với những cử động rất nhỏ này, Triệu Quang Nghĩa hoàn toàn không phát giác, cái mà hắn chú ý chỉ là Dương Hạo và gia quyến của hắn, đâu rảnh mà chú ý Dương gia có bao nhiêu hạ nhân. Môn tử là ai, trù tử (đầu bếp) là ai, nha đầu họ gì tên gì. Hắn chỉ muốn Dương Hạo chết, Dương Hạo phải chết, những thứ khác thì không quan trọng.

Đối với người sắp chết, Triệu Quang Nghĩa trước giờ luôn rất khách khí, hắn tự mình tiễn Dương Hạo tới trước lầu Tuyên Đức, lại để ba vị tể tướng tiễn vị sư tướng này tới cuối ngự nhai, có thể nói là cực kỳ phong quang, vinh diệu, sao đó là do các quan lại cấp dưới thay thế, tiễn Dương Hạo ra khỏi thành.

Sau khi tiễn Dương Hạo tới lầu Tuyên Đức, Triệu Quang Nghĩa liền quay trở về thiên điện, nơi này đang có hơn chục vị tướng quân đang đứng đợi ở đó. Những người này là Triệu Quang Nghĩa điểm danh triệu kiến, Tào Ban, Lý Hán Quyền, Điền Khâm Kê, Đinh Đức Dụ, đều là những công thần ngày đó theo Triệu Quang Nghĩa phạt Đường.

Bởi vì trong thời gi­an để tang tiên đế không thể ca múa, không thể có ẩm yến cỡ lớn, cho nên Triệu Quang Nghĩa chỉ có thể chuẩn bị một chút thức ăn, rượu ngon, mời những tướng lĩnh này. Những người có công phạt Đường, đều là tướng lĩnh đã từng lập được quân công dưới sự thống soái của Triệu Quang Nghĩa, khao thưỏng bọn họ đã là sự nhìn nhận đối với bọn họ và cũng là sự khẳng định của mình, đồng thời cũng có thể khiến những cấm quân tướng lĩnh có quan hệ khá thân cận với mình lại càng thân thiết hơn một chút.

Ngô vương Triệu Đức Chiêu đang xuất chinh ở bên ngoài liệu có chịu ngoan ngoãn về kinh hay không, các binh lính theo Ngụy vương xuất chinh tuy được hắn gia quan tấn tước, lại khống chế người nhà của bọn họ, nhưng bọn họ liệu có lại khoác áo bào nữa không? Triệu Quang Nghĩa hiện tại vẫn chưa nắm chắc mười phần. Cho nên việc cần thiết bây giờ lại phải nắm quân quyền, ổn định cấm quân lưu thủ Đông Kinh, tuy nói là hắn an bài rất nhiều người, khống chế rất nhiều chức vị yếu hại trong cấm quân lưu thủ, nhưng đối với những tướng lĩnh trọng yếu trong quân, vẫn phải rất nể trọng.

Cho nên Triệu Quang Nghĩa không hề ra vẻ hoàng đế, hắn đổi sang tiện phục đi tới dự tiệc, cùng mọi người ngồi uống rượu nói chuyện. Rượu qua ba tuần, thức ăn qua năm món, sau khi ôn lại những ngày tháng chiến tranh khi cùng nhau nam chinh, Triệu Quang Nghĩa đột nhiên ngân ngấn nước mắt, cảm thương nói: “Ngày đó trẫm cùng các vị tướng quân băng qua lạch trời, chiến Gi­ang Nam, có tình đồng đội. Hôm nay tuy phân quân thần, trẫm ngồi cùng với các vị tướng quân, vẫn như tràng diện trước kia, chỉ là, trẫm cùng các vị ái khanh uống rượu nói cười, trên bàn tiệc lại thiếu mất một người, nhớ tới mà khó tránh khỏi khiến người ta thương cảm.”

Chúng tướng quay sang nhìn nhau, không biết người mà hắn nói thiếu là ai, chẳng lẽ có ai dám nhận chiếu chỉ mà không tới ư? Nhưng quay sang nhìn xung quanh, tướng lĩnh chủ yếu đều có mặt cả, tựa hồ như không thiếu một nhân vật quan trọng nào, mọi người không khỏi ngỡ ngàng không hiểu gì.

Triệu Quang Nghĩa nói: “Người thiếu ở đây, chính là Tào Hàn Tào tướng quân. Tào đại tướng quân chiến công hiển hách, vốn có thể tiếp tục ra sức cho triều đình. Đáng tiếc lại bị gi­an nhân hãm hại, còn trẻ mà đã mất sớm. Hôm nay thấy chư vị tướng quân, trẫm không khỏi nhớ tới Tào tướng quân, hỏi sao mà không cảm thương?”

Hắn vỗ đùi than khóc một hồi rồi nhướn mày nói: “Vương Kế Ân, truyền chỉ, từ trong nội khố lấy ra ba mươi vạn tiền thưởng cho Tào gia. Phong vợ góa của Tào Hàn là chiếu mệnh, nhi tử của Tào Hàn năm nay đã mười hai tuổi rồi, gia phong cho hắn làm Vi địch công lang, cấp cho tiền trình xuất thần để an ủi vong linh của Tào tướng quân nơi cửu tuyền.”

Vương Kế Ân vội vàng tiếp chỉ, chư tưởng đang ngồi đây nghe thấy vậy không khỏi động lòng. Tào Hàn sau khi bị ám sát, Triệu Khuông Dận đã thăng quan thêm một cấp cho Tào Hàn, an táng long trọng. Đối với gia quyến của hành cũng tiến hành an bài thích đáng. Mà Triệu Quang Nghĩa lại gia ân nữa, đối với vị tướng quân bị ám sát này ân ngộ như vậy, chúng tướng cũng cảm động lây, có ai mà không thấy cảm kích khác nào như chính mình được chịu ơn?

Hành động này của Triệu Quang Nghĩa, ngay cả xu mật sứ Tào Bân một mực luôn hờ hững, vẻ mặt bình đạm cũng không khỏi thấy cảm kích vô cùng, tân đế đăng cơ, có bao nhiêu đại sự phải làm. Vào lúc này mà còn nhớ tới những tướng lĩnh đã từng theo ông ta phạt Đường, đơn độc thưởng yến tiếp kiến, đã là vinh quang vô thượng rồi. Mà Tào Hàn bị ám sát đã trải qua bao ngày rồi, Triệu Quang Nghĩa không những vẫn nhớ tới hắn, hơn nữa còn gia ơn ban thưởng, không quên tình cũ, điều này đối với những tướng quân cả đời sống trên lưng ngựa như họ mà nói, chính là sự an ủi lớn nhất.

Tào Hàn vốn là bộ hạ trực thuộc của Tào Bân, quan gia quan ái như vậy, Tào Bân thân là thượng ti cũ của Tào Hàn, lúc này tất nhiên là phải ra mặt bái tạ thay cho hắn. Tào Bân mắt ngấn lệ, rót đầy một chén rượu, bước tới trước mặt Triệu Quang Nghĩa nghiêm nghị quỳ xuống, dùng đại lễ để tham bái, thay Tào Hàn tạ ơn với quan gia.

Triệu Quang Nghĩa gia ân cho Tào hàn, tất nhiên là có ý tứ lấy lòng chúng tướng, nhưng lúc này hắn đặc biệt nhắc tới việc quan lớn triều đình bị ám sát mà bỏ mình, thực ra là có dụng ý khác nữa, chỉ là nguyên do bên trong, không nên để người ngoài biết. Hiện giờ thấy Tào Bân một mực có chút như gần như xa cuối cùng cũng bị hắn đả động, quỳ xuống trước mặt hắn mà kính rượu, Triệu Quang Nghĩa không khỏi sướng rơn.

Hắn vội vàng đứng dậy, đỡ Tào Bân lên, nâng chén nói: “Chư vị ái khánh đều là lương đống trong triều, trẫm kế thừa Đại Tống, sau này vẫn phải dựa vào sự phụ tá của các vị tướng quân. Giờ vì quốc tang, tạm dừng chiến sự, ngày sau thảo phạt Hán quốc, xuất binh U Yến, trẫm tất sẽ ngự giá thân chinh, cùng chư vị tướng quân giống như ngày xưa chinh phạt Gi­ang Nam, kề vai sát cánh. Chư vị tướng quân, xin uống cạn chén này!”

Chúng tướng nhao nhao dạ ran, nâng chén uống cùng.

Ở cửa thành đưa tiễn Dương Hạo vốn là đám quan lại xuất thân từ Nam Nha như Tống Kỳ, Cổ Ngọc, Trình Vũ, Mộ Dung Cầu túy và toàn bộ quan viên của Hồng lư tự. Tiền nhiệm Đại hồng lư đã nghỉ hưu là Chương Đài Sâm vì tuổi già sức yếu, không tự mình tới, nhưng cũng bảo trưởng tử của lão thay mặt đưa tiễn.

Không những Hồng lư tự điển khách thừa Tiêu Hải Đào, ti nghi thừa Tào Dật Đình, chủ bộ Ninh Thiên Sắc cùng với một đám cấp dưới đều tới, mà ngay cả vị hồng lư hữu khanh rất ít khi qua lại với Dương Hạo, hôm nay cũng mặt mày tươi rói xuất hiện, hầm đi hầm lại, hắn cuối cùng cũng được hầm xong rồi. Dương Hạo vừa biến, chức Đại hồng lư chính là vật trong túi hắn, những ân oán ngày trước, tất nhiên cũng bị gió thổi đi, nên có chút độ lượng mới phải.

Các thuộc quan của Hồng lư tự thấy vị đại nhân nhà mình rời chức, đều mặt mày hâm mộ. Làm quan, ai có thể làm tới sướng khoái như Dương đại nhân chứ? Cho dù Dương dại nhân sau này cả đời không có thêm bất kỳ chiến tích nào nữa, nhưng chỉ bằng những năm hắn làm quan đã làm tới sứ tướng, cũng đủ để trở thành một truyền kỳ trong chính sử Đại Tống rồi, có lẽ… cũng không còn ai có thể đạt tới như truyền kỳ này nữa.

Các quan viên của Nam Nha nhìn Dương Hạo, trong mắt đã không còn vẻ hâm mộ, cũng không còn đố kỵ mà là một loại đồng tình rất khó bị người ta phát giác ra. Cho dù Dương Hạo khiến người ta chán ghét đi chăng nữa, lúc này bọn họ cũng không keo kiệt sự đồng tình của mình, cho dù không cần Dương Hạo tiếp nhận sự đồng tình của mình, cũng là để cho các đồng liêu khác nhìn thấy, mình không thiếu lòng đồng tình.

Ánh mắt của bọn họ nhìn Dương Hạo, rõ ràng là đang nhìn một người chết.

Khuyên chàng uống cạn một chén rượu, lần này tới hoàng tuyền không cố nhân!

Dương Hạo trong ánh mắt phức tạp của quan viên hai nha ra khỏi cửa thành, khi vừa đi ra, hắn quay đầu nhìn lại, các quan viên đó vẫn đứng nguyên tại chỗ, Dương Hạo liền vẫy tay tỏ ý chào với họ, tay hắn vừa huy động trên không trung được hai cái, đột nhiên phát hiện trên đầu thành có một nữ tử đang đứng, áo trắng như tuyết, vạt áo bay bay, lặng lẽ đứng một mình, tựa hồ như đang chăm chú nhìn hắn.

Dương Hạo đứng thẳng người lại, chăm chú nhìn lên đầu thành, người đó đã biến mất không thấy đâu, trời cao xanh thẳm, mây trắng bồng bềnh, trên đầu thành chỉ có đại kỳ in chữ Tống đón gió phần phật, những gì nhìn thấy vừa rồi giống như giấc mộng Nam Kha, mất tăm mất tích.

“Đại nhân, mời lên xe để khởi hành.”

Tướng ngu hậu Vương Bảo Tài hơi cúi người ở trên ngựa, cao giọng nói với hắn.

Dương Hạo gật đầu, nhìn về phía các gia phó đi theo ở phía sau một cái, gia phó của Dương Hạo so với gia quyến của hắn ở kinh thành thì đầy đủ hơn một chút, quản gia, nô phó, nha hoàn tất cả đều có. Nhưng …. hắn lại chẳng nhận ra người nào, những người này đều là sau khi hắn thay đổi kế hoạch chạy trốn, được Kế Tự đường đưa tới.

Dương Hạo chỉ biết quản gia của hắn tên là Lý Khánh Phong, Dương Hạo nhìn tuổi tác của hắn, nghe tên của hắn, rất hoài nghi liệu hắn và gia tộc Lý Thính phong mà mình cứu ở Đường quốc có liên quan gì không, có điều cho tới tận bây giờ, hắn vẫn chưa nói chuyện tỉ mỉ với vị quản gia này lần nào.

Dương Hạo lên xe, buông rèm kiệu, cả đội ngũ liền gia tăng tốc độ.

Qua một sườn núi, đường ở phía trước đột nhiên xuất hiện một cái cổng chào, nói là cổng chào, bởi vì đại sự của hoàng đế, đang ở vào lúc quốc tang, không có lụa đỏ treo trước cửa, chỉ trang trí một ít lá cây bên trên, để tránh danh không hợp với thực. Phía dưới cổng chào cũng không có cổ nhạc nghênh đón, chỉ có môt đám bách tính quần áo hai màu trắng đen đứng ở đó, từ xa cao giọng gọi: “Vị quân gia này, xin hỏi phía trước có phải là Dương thái uy không?”

Một binh sĩ của Nhật Bản trực dùng tiếng Trung Quốc cứng ngắc đáp ứng một tiếng, các bách tính đó lập tức xôn xao, cũng không biết là từ đây biến ra một đống dân chúng chen chúc tới nghênh đón.

Vừa thấy là đưa tiễn Dương đại nhân rời kinh, Công Tôn Khánh, Vương Bảo Tài hai người cũng không tiện ngăn trở, hai người quay sang nhìn nhau, rồi ra lệnh cho người ở đằng sau đi truyền báo, thông tri cho Dương Hạo. Một lát sau, Dương Hạo liền đi lên.

Dẫn đầu đám bách tính này là một viên ngoái thể thái vên mãn, chỉ thấy ông ta cung kính bước lên trước vái một cái, nói: “Dương thái úy, tiểu nhân là Vu Viên, làm hương bảo. Đại nhân lúc ở kinh, đức chính huệ dân, khiến vô số bách tính được nhờ, giờ thái úy phải rời kinh tới tây bắc thượng nhiệm, các binh tính cảm ân *** đức, không nỡ để đại nhân rời đi, đặc ý ủy thác tiểu dân, hướng tới thái úy mà kính hiến một cây Vạn Dân tán (ô Vạn Dân), mười vò mỹ tửu, mong thái úy vui lòng nhận cho.”

Ở đằng xa, võ sĩ Nhật Bản Vương Bảo Tài tiên sinh nghe thấy vậy liền rất bực bội, quay đầu nói với Công Tôn Khánh: “Công tôn đại nhân, mạt tướng là võ quan, đối với chuyện của Dương thái úy không biết nhiều lắm. Hắn là từng làm quan địa phương ở đây ư?”

Lúc này, Dương Hạo đang tạ ơn không ngớt, các bách tính thì ùa lên như thủy triều, thi nhau vỗ mông ngựa liên tục, lễ bộ viên ngoại lang Công Tôn Khánh nghe mà phát ngán, hắn cười lạnh một tiếng, thấy xung quanh không có người của Dương Hạo thì mới nói: “Vương tướng quân, đây chẳng qua là tật xấu trong quan trường mà thôi. Từ xưa tới nay, quan tốt thương dân như con khi rời nhiệm thì bách tính dứt bỏ không được, tặng Vạn Dân tán để tỏ kính ý, nhưng quan nhi về sau, bất kể có phải là thanh quan hay không, bất kể là có yêu dân như con hay không, đều thích khi rời nhiệm thì chơi các trò này.

Quan có thanh danh tốt thì có thân dân chủ động tặng Vạn Dân tán, quan có thanh danh không tốt thì hắn cũng không muốn lặng lẽ mà đi, thế là nghĩ cách tìm người tới tặng. Ví dụ như nói ở tiền triều, huyện lệnh Khang Viễn là một tham quan, bách tính hận hắn đến thấu xương, khi hắn rời nhiệm cũng muốn các bách tính tặng Vạn Dân tán, nhưng các bách tính ai chịu tặng hắn chứ?

Ngươi không tặng ư? Ngươi không tặng thì hắn ở lại trong huyện nha không đi, tân quan không có cách nào tiếp nhiệm, thế là vị tân nhiệm huyện thái gia đó đành đi khuyên các thân sĩ đương địa tặng Vạn Dân tán cho hắn, các thân sĩ lại vẫn không chịu đáp ứng, vị tân nhiệm huyện thái gia đó hết cách, đành tự mình làm một cái, rồi bảo người nhà giả trang làm bách tính đương địa, mới đuổi được vị huyện lệnh tiền nhiệm đó đi.

“Ặc” Vương Bảo Tài lúc này mới hiểu ra, liên tục gật đầu, nói: “Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi.” Rồi khi nhìn sang Dương Hạo, trong mắt Vương Bảo Tài lộ ra vẻ mặt khinh thường.

Công Tôn Khánh cười nói: “Quan nhi về sau luôn muốn so với quan nhi rời nhiệm trước phải long trọng hơn, thế là đổi mới da dạng, không chỉ tặng Vạn Dân tán, còn lập Đức Chính bi (bia Đức Chính). Còn có kẻ không biết liêm sỉ, thuê trước mấy tên lưu manh vô công rồi nghề, nằm xuống bùn đất ở phía kiệu của hắn, cứ lăn lộn như thế không chịu đứng dậy, ý tứ là cản đường, không để hảo quan của bọn họ đi. Trê nquan trường, loại này được gọi là “nằm lăn”. Hắc hắc, trò hề của quan trường như vậy, nhưng lan truyền ra ngoài thì lại thành là được bách tính kính yêu vô hạn.”

Hai người nói xong cùng ngẩng mặt lên trời cười to.

Ở phía trước, Dương Hạo chối từ mãi, sau cũng mới ỡm ờ chịu nhân lấy Vạn Dân tán mà Vu Viên đại biểu cho dân chúng đương địa tặng, do Vạn Dân tán là dùng vải có màu sắc bất đồng làm thành, vào lúc quốc tang không tiện mở ra, cho nên dùng vải lĩnh bọc lại rồi đặt lên xe. Dương Hạo trực tiếp nhận lấy mười vò rượu, đặt hết lên xe rồi tiếp tục lên đường. Bọn Vu Biên làm ra vẻ quyến luyến không rời đuổi theo xe một hồi lâu rồi mới tản đi.

Thấy các hương thân diễn trò đi rồi, Công Tông Khánh mới thở phào một hơi, phân phó: “Đi nhanh hơn đi!”

Khi bọn họ rời khỏi kinh thành đã là giờ ngọ rồi. Ngày hôm nay không đi được bao xa, lúc trời tối, bọn họ tới gần trấn Bản Kiều, lúc này tịch dương đã ngả về tây, mắt trời xuống dần, để cuối ngày có thể tới được trấn, tốc độ của xa đội không ngừng tăng nhanh. Mắt thấy một cây cầu gỗ ở phía trước, các võ sĩ đi trước đột nhiên thả chậm tốc độ. Công Tôn Khánh trong lòng có việc, cảm thấy tốc độ đi chậm lại, lập tức ngẩng đầu hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”

“Đại nhân, ngài nhìn xem!”

Một võ sĩ chỉ về phía tước, Công Tôn Khánh nhìn lên, chỉ thấy đầu cầu dựng một chiếc cổng chào, người ở dưới cổng cũng không nhiều, chỉ có năm sáu người, hai người đứng, còn mấy người còn lại thì nằm ngổn ngang trên cầu.

Vương Bảo Tài thấy vậy liền ngây người, lập tức thốt lên: “Nằm lăn ư?”

Lại nhìn sang Công Tôn Khánh, hai người không nhịn được mà cùng bật cười.

“Phía trước có phải là Dương thái uy không, sĩ tử Vu Chu Nhất dẫn dân chúng bản địa xin được gặp thái úy.”

Dương Hạo được báo tin, lại mặt mày tươi cười bước lên trước tiếp kiến. Thế là hỏi tên, tiếp kiến, cảm ân, chối từ, hai bên lại dây dưa một hồi.

Vương Bảo Tào sốt ruột rồi, nói khẽ với Công Tôn Khánh: “Công tôn đại nhân, cứ đi đi rồi lại dừng như thế này, lúc nào mới có thể rời khỏi đây được. Người mà chúng ta an bài ở trấn Bản Kiều…”

“Câm miệng!”

Công Tôn Khánh lập tức ngắt lời hắn, nhìn Dương Hạo mặt mày tươi cười ở phía trước, cười lạnh nói: “Vương đại nhân, cứ để hắn phong quang thêm một chút thì có sao chứ, đối với người chết…. chúng ta phải có chút kiên nhẫn. Ngài thấy sao?”

Vương Bảo Tài cười khổ: “Công tôn đại nhân dạy rất phải. Ặc? Mấy người đó làm cái gì vậy?”

Công Tôn Khánh ngẩng đầu lên nhìn, lại thấy Dương Hạo đã bị đẩy lên cầu, bên cạnh đang có người cởi giày cho hắn, lại có một người khác ôm một đôi giày mới đứng ở bên cạnh. Công Tôn Khánh không khỏi trợn trừng mắt, một lúc sau mới lẩm bẩm: “Trơ trẽn quá đi đi, trơ trẽn quá đi!

“Hả?” Vương Bảo Tài liếc một cái, kinh ngạc hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

Công Tôn Khánh nghiến răng nghiến lợi cười hắc hắc: “Vị Dương thái úy này cũng không biết là nghe ngóng được từ đâu, không ngờ lại biết màn kịch để lại giày này.”

“Để lại giày?”

“Ừ, cái này cũng giống như là Vạn Dân tán, Đức Chính bi, nằm lăn.”

Công Tôn Khánh hít sâu một hơi, nói: “Có một số sĩ thân địa phương, ôm giày thối vỗ mông ngựa. Để chơi trội, quan viên khi rời nhiệm, bách tính xin hắn để lại đôi giày cũ dưới chân, treo giày ở trên cổng chào, mặc cho gió thổi mưa phất cho tới khi mủn ra. Hắc hắc, Vương tướng quân, sau này ngài tới địa phương nào, nếu nhìn thấy mấy đôi giày mục nát bất kham, hình thù quái đản treo trên cổng chào, chắc nơi đó từng có không ít “hảo quan”. Ha ha ha ha!”

Vương Bảo Tài lắng nghe rất nghiêm túc, gật đầu liên tục, nói: “Mạt tướng hiểu rồi, đa tạ đã chỉ giáo.”

Đúng vào lúc này, chỉ nghe thấy một tiếng hét quái dị vang lên, lại thấy Dương Hạo hai chân trần khập khiễng chạy về, sĩ tử tên là Vu Nhất Chu đó trong tay cầm một tay truy thủ sáng loáng ở phía sau đuổi theo không tha. Vương Bảo Tài trợn trừng mắt, kinh ngạc nói: “Phong tục của nước ta thực sự là kỳ quái, Công Tôn đại nhân, xin chỉ giáo. Bọn họ…. vẫn muốn lưu lại thứ gì đó nữa à?”

“Vẫn muốn… vẫn muốn…”

Công Tôn Khánh đột nhiên hú lên một tiếng, kinh ngạc nói: “Thích khách?”

Lúc này thấy Dương Hạo hết nhảy lên rồi lại ngụp xuống, hổn hển hét lên: “Có thích khách, có thích khách, cứu mạng, cứu mạng với!”

Nói xong thì Dương Hạo đã chạy tới bên cạnh Vương Bảo Tài, trốn sau ngựa của hắn. Vương Bảo Tài chỉ mong sao hắn bị người ta chém chết luôn, để mình khỏi phải khổ tâm an bài thủ đoạn, nhưng hắn đã chạy tới cạnh mình, mình thân là võ tướng hộ tống, vô luận là như thế nào cũng không thể giả vờ thất trách được, thế là gầm lên một tiếng rồi rút đao ra, hậm hực mắng: “Là người phương nào dám to gan ám sát mệnh quan triều đình?”

Lăn lộn ở Trung Nguyên gần hai chục năm, Hán ngữ của hắn nói cũng khá tốt. Vương Bảo Tài vừa động, binh sĩ dưới tay hắn nhao nha rút đao ra khỏi bao, hò hét xông tới.

Trắng sáng sao thưa, đoàn người của Dương Hạo phong trần mệt mỏi xuất hiện ở trấn Tạo Hóa, trấn Tạo Hóa nằm ở phía bắc trấn Bản Kiều, cách trấn Bản Kiều hơn ba mươi dặm.

Mấy tên thích khách thành sự không đủ, bại sự có thừa đó không thể giết được Dương Hạo, ngược lại còn đánh rắn động cỏ. Bọn chúng thấy việc không ổn, nhao nhao nhảy xuống nước chạy trốn, các binh sĩ đuổi theo chạy lên cầu, cây cầu đó lập tức đổ rầm, thì ra cây cầu đó sớm đã bị người ta động tay động chân rồi. Dương thái úy kinh hãi chưa hết đánh chết cũng không chịu tới trấn Bản Kiều nữa, tự tác chủ trương đổi lộ tuyến, vòng tới trấn Tạo Hóa. Vương Bảo Tài nổi trận lôi đình, nhưng cũng đành chịu, may mà trên đường cơ hội còn nhiều, bố trí ở trấn Bản Kiều coi như là uổng phí rồi.

Y sam ở phía sau của Dương Hạo bị tên Vu Nhất Chu đó rạch một vết rách dài, dọa cho Dương Hạo vưa thấy trấn Tạo Hóa, liền chui vào trong một gi­an phòng không dám ló mặt ra nữa. Hương thân đương địa nghe nói có quan nhi lớn như vậy tới, vội vàng chạy đến bái kiến, nhưng hắn căn bản không chịu lộ mắt. Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài dở khóc dở cười, tùy ý đuổi những hương thân đó đi. Vừa quay về tới khách sạn nhỏ trưng dụng được thì bên ngoài lại có một người tiến vào. Người vừa tới nghênh ngang hỏi: “Xin hỏi, Dương thái úy tá túc ở đâu?”

Công Tôn Khánh đến cả một ngụm trà cũng chưa kịp uống, hắn tức giận hỏi lại: “Ngươi là ai?”

Tên trung niên đó mỉm cười, chắp tay nói: “Tạ hạ họ Dư, là…”

Công Tôn Khánh giật mình đánh rơi chén trà nóng trong tay, làm ướt hết cả vạt áo trước: “Lại họ Vu nữa à (chữ vu và chữ dư phát âm giống nhau, nên Côn Tôn Khánh hiểu lầm)?”

Vương Bảo Tài ở bên cạnh keng một tiếng rút đao ra, hung hăng lao lên, gầm to: “Bắt hắn lại!”

Nghe thấy cái tên Vương Bảo Tài này, ngươi tuyệt đối không ngờ rằng hắn lại là một võ sĩ, nhưng chẳng ai quy định rằng chỉ loại người có tên gọi bá đạo uy phong kiểu như Tây Môn Xuy Tuyết, Yến Nam Thiên mới có thể trở thành võ sĩ võ công trác tuyệt.

Vương Bảo Tài chỉ thò tay ra, một đao hoa hình chữ thập rất xinh đẹp liền nổ tung trước mặt người trung niên, chém bổ gạt vòng rất nhanh nhẹn gòn gàng, liền mạch lưu loát, đao thuật thật sự rất khá. Đao pháp của hắn không màu mè gì cả, chém, bổ, vòng, gạt đều là động tác trực tiếp nhất, nhưng xuất đao trầm ổn mà có lực, nhanh như gió, đủ để phá giả tất cả những chiêu pháp màu mè, dùng thủ phát đơn giản nhất để giết người.

Đao pháp gia truyền của Tá Tá Mộc tuy lăng lệ, nhưng người trung niên không ngờ cũng có một thân công phu rất khá, chỉ là quá bất ngờ nên căn bản không kịp phản ứng, may mà hắn thân thủ mạnh mẽ, lập tức ngửa người nhảy ra khỏi cửa, mũi đao sắc bén chém xẹt qua người, một mảnh áo liền rơi ra.

“Người làm gì vậy?” Tên trung niên đó lúc này mới kịp hét lên.

Vương Bảo Tài gầm lên một tiếng như mãnh thú, xông ra ngoài đuổi theo, đám lãng nhân Phù Tang, võ sĩ Cao Lệ ở phái sau còn chưa kịp vào phòng cũng nhao nhao chạy ra theo.

Công Tôn Khánh cao giọng cười nói: “Đừng giết hắn, bắt sống đi, hỏi rõ thân phận của hắn.”

Hắn còn chưa dứt lời, những võ sĩ đó đã thoắt cái lại lùi lại về viện tử. Công Tôn Khánh ngạc nhiên ngước nhìn, lại thấy tướng ngu hậu Vương Bảo Tài cũng từng bước từng bước lui lại viện tử, ở phía trước hắn, trên dưới trái phải mấy chục thanh trường thương sắc bén đang bức tới người hắn, phong tỏa tất cả những chỗ yếu hại trên người hắn. Coi bộ chỉ cần hắn hơi có động tác kháng cự thì một lượt đâm thôi cũng khiến trên người hắn có thêm hơn chục cái lỗ, người đang bức hắn quay trở vào không ngờ lại là hơn chục đại hắn ăn mặc như cấm quân.

Cho dù là dạng cao thủ tu luyện tới cảnh giới hành tiên như Lữ Động Tân, ở trên chiến trường cũng chẳng có được tác dụng mang tính quyết định nào cả, ngày đó Trần Đoàn nếu không mượn hiệu quả khoách âm và tiếng vọng của sơn cốc, dùng tiếng huýt dài của âm tần kích động ngựa, chỉ bằng vào võ lực, hắn đừng hòng cản được đội ngũ võ sĩ Khiết Đan gồm một ngàn người tổ thành.

Binh sĩ được huấn luyện động tác tác chiến chỉnh tề như một, trừ phi ngươi có thân thể kim cương bất hoại, nếu không hơn chục cây thương lớn như vậy đồng thời đâm vào những chỗ yếu hại trên người ngươi, cho dù ngươi có ba đầu sáu tay cũng chẳng đỡ được. Võ nghệ của một người luyện hai mươi năm ở trước mặt đại đầu binh chỉ luyện thuật hợp kích có hai năm chính là thứ vứt đi, võ nghệ của một người trước trận của hai quân tác dụng hữu hạn, chính là bởi vì như vậy đó.

Công Tôn Khánh thấy đội phương cũng có phục trang cấm quân, không khỏi vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ, đứng bật dậy, quát: “Các ngươi muốn làm phản hả, bản khâm sai phùng triệu xuất kinh, tuyên phủ tây bắc, bọn ngươi là bộ hạ của vị tướng quân nào, không ngờ lại dám vô lễ như vậy?”

Được hắn nhắc nhở, Vương Bảo Tài lúc này cũng nhớ ra thân phận của mình, ngực hơi ưỡn ra một chút, cao giọng quát: “Chúng ta là người của điện tiền ti, các ngươi là ai?”

Người trung niên mặc tiện trang được cái binh sĩ bảo vệ quay trở lại, cười lạnh nói: “Chúng ta là người của thị vệ ti, người của điện tiền ti có thể không kiêng nể ai mà ra tay giết người như vạy ư?”

Vương Bảo Tài quát: “Bản quan là điện tiền ti Nhật Bản trực tướng ngu hậu Vương Bảo Tài, các ngươi cùng nhau ám sát thượng quan, đáng tội gì hả?”

“Bốp!”

Tên trung niên đó vung tay tát cho hắn một cái, tính khí so với hắn còn nóng hơn, giọng nói cũng như sấm rền: “Bản quan là thị vệ ti bộ quân đô ngu hậu Dư Khiêm, các ngươi ám sát thượng quan, đáng tội gì hả?”

Vương Bảo Tài ngây người, ngực vừa ưỡn lên lại xẹp xuống,. Tuy nói hai người đều là ngu hậu, nhưng chức quan thì lại cách nhau mười vạn tám ngàn dặm. Đô hậu có phân biệt rõ ràng là đô ngu hậu, ngu hậu, tướng ngu hậu, viện ngụ hậu, địa vị cũng kém nhau rất xa, vị bộ quân đô ngu hậu ở trước mắt này tương đương với thiếu tướng lục quân, cán bộ cấp phó quân, còn hắn chỉ là một liên trưởng thiếu úy.

“Cái này… chỉ là hiểu lầm thôi, mạt tướng phụng mệnh hộ tống Dương thái úy tới Lô châu, trên đường gặp thích khách, thích khách cũng họ Vu, cho nên vừa nghe đại nhân báo danh tính… liền hiểu lầm…”

“Bốp!”

Hắn lại ăn thêm một phát tát vào mặt bên kia.

“Hiểu lầm ư? Con mẹ ngươi đánh rắm!” Dư Khiêm nổi trận lôi đình, nói: “Lão tử vừa rồi lui hơi chậm một chút, hiện tại đã bị một đao của ngươi chém thành bốn mảnh rồi, tới lúc đó nói là hiểu lầm có được không?”

Công Tôn Khánh thấy vậy vội vàng tươi cười bước lên hòa giải: “Ái chà chà, hiểu lầm, thuần túy là hiểu lầm thôi, đây quả thực là hồng thủy tràn vào miếu Long vương, người nhà không nhận ra nhau thôi. Vị tướng quân này xin chớ tức giận, bọn ti chức mang trọng nhiệm trên người, không dám lơ là, có gì đắc tội thì xin tướng quân bỏ quá cho.”

Dư tướng quân lườm hắn một cái, tức giận nói: “Hay nhỉ, ngươi gặp phải thích khách họ Dư, vậy thấy ai họ Dư cũng giết hết hả?”

Rồi hắn hơi biến sắc, vội vàng hỏi: “Thích khách ư? Vậy Dương thái úy của bị thương không?”

Công Tôn Khánh cười khổ: “Dương thái úy hình như chân hơi bị thương, nhưng không có gì đáng ngại cả.”

Dư tướng quân kinh ngạc hỏi: “Đã gặp thích khách, sao trên chân lại bị thương?”

Công Tôn Khánh vuốt mũi, lắp bắp nói: “Cái này… là đi chân trần mà chạy nên thành ra lòng bàn chân bị đá đâm.”

“Hả?”

Dư tướng quân nghe mà như lọt vào sương mù, mặt đầy vẻ hồ nghi nhìn về phía Công Tôn Khánh, Công Tôn Khánh đang không biết nên giải thích như thế nào thì Dương Hạo đã nhận được tin tức, thất tha thất thểu từ trong phòng chạy ra, dùng thế kim kê độc lập đứng ở dưới hành lang, tươi cười nói: “Vị tướng quân này, bản quan chính là Dương Hạo, nhưng bộ quân ti La huynh muốn gặp ta làm gì?”

Dư tướng quân nghe vậy liền vội vàng bước lên trước chắp tay trước ngực, nói: “Mạt tướng bái kiến thái uy, chính là bộ soái nhà ta muốn gặp thái úy đại nhân.”

Chương 403: Trấn Tạo Hóa

Bên ngoài thôn là một mảng tĩnh lặng, ánh trăng sáng trong.

Người của La Khắc Địch đóng ở cuối phía bắc thôn, sau khi Triệu Khuông Dận đột nhiên băng hà, tân hoàng đế hạ nghiêm lệnh, tất cả quân đội đóng tại chỗ đợi tin tức, không được phép tự ý điều động một binh một tốt, nếu sẽ bị luận tội mưu phản, chém đầu ngay lập tức, dẫn tới việc La Khắc Địch đang tuần thị ở trong quân doanh cũng không thể động đậy được, chỉ đành đóng quân tại chỗ, mỗi ngày từ công báo của triều đinh và công văn mà xu mật viện đưa tới mới biết biết sự tình trong triều.

Cho tới khi tân đế chính thức đăng cơ, cấm lệnh mới được giải trừ, La Khắc Địch lúc này mới hớt hải chạy về Biện Lương. Hắn mang theo hơn trăm thân binh, khi qua trấn Tạo Hóa thì trời đã tối, cho nên đành đóng trại ở đây, nhưng vẫn án chiếu theo quy củ trong quân mà tỏa người đi tuần tra. Đám người của Dương Hạo vừa tới thì bị bọn họ phát hiện, biết được là Dương Hạo tới, La Khắc mới ra lệnh cho bộ tướng tới đón.

Hai người chậm rãi đi trên con đường nhỏ, phía trước là một đoạn dốc thoải, Dương Hạo chậm rãi bước lên, cười nói: “La huynh có lời cơ mật gì muốn nói với ta mà phải đuổi thủ hạ đi vậy?”

La Khắc Địch bước càng lúc càng chậm, trầm ngâm nói: “Ngày đó nhận được bức thư của thái úy đại nhân, La mỗ một mực mang bên người, chốc lát cũng không rời, vừa rồi được biết thái úy đại nhân đã tới thôn Tạo Hóa, mạt tướng liền lấy thư ra đọc qua rồi!”

Dương Hạo hơi kinh hãi, chậm rãi quay người lại, La Khắc Địch nhìn chằm chằm vào hắn, trong mắt mang đậm vẻ đau khổ, thấp giọng hỏi: “Thái úy đại nhân không phải là sau khi từ quan về hưu sẽ lặng lẽ rời khỏi Biện Lương ư? Sao giờ lại phong phong quang quang, với thân phận sứ tướng triều đình, phong cương đại lại mà tới Lô châu thế?”

“Cái này…”

Tay Lý Mạnh nhẹ nhàng nắm lên trường kiếm ở bên hông, nghiêm nghị hỏi: “Tiên đế là làm sao mà chết?”

Dương Hạo ngớ người, buột miệng hỏi: “La huynh sẽ không cho rằng, chuyện tiên đế băng hà là có liên quan tới Dương mỗ chứ?”

La Khắc Địch chậm rãi nói: “Vốn là, ta cũng tuyệt đối sẽ không nghi ngờ tới ngươi, nhưng sau khi biết được một thân phận khác của người, ta lại không thể không nghĩ như vậy. Tiên đế đang đội tuổi xuân, thân hình cực kỳ khỏe mạnh, sao lại đột nhiên bạo bệnh mà chết? Nếu tiên đế là bị ám sát, vậy thì còn có ai đáng ngờ hơn ngươi nữa?”

Dương Hạo cười khổ không thôi, Triệu Khuông Dận là kiêng bị bị hạ thần phản bội nhất, từ việc ông ta thà bỏ qua lợi ích cực lớn, cũng không hợp tác với Khánh vương, loạn thần tặc tử của Khiết Đan là có thể nhìn ra thái độ kiên quyết của ông ta, mình ở Biện Lương làm quan lâu như vậy, một khi về Lô châu, dùng thân phận công chủ của Đảng Hạng Thất thị mà ra mặt, Triệu Khuông Dận rất khó mà dung thứ được.

Từ thái đội của La Khắc Địch có thể thấy, mình quả thật là có lý do khá đầy đủ để mưu sát Triệu Khuông Dận, có điều một mình hắn không thể làm thành được chuyện này, làm xong chuyện này cũng không thể từ bên trong mà có được lợi ích công khai nào. Triệu Khuông Dận bị ám sát, hắn thì được thăng chức, nếu quả thật là một trong số những hung thủ, vậy thì kim thượng và hắn tất nhiên cũng là đồng mưu. La Khắc Địch không thể nghĩ tới điểm này, nếu thông minh một chút, hắn nên giả vờ hồ đồ, nhưng hắn lại trực tiếp nói ra với mình, người này, quả thật là khác hẳn với ông già gi­an manh của hắn, là một người trung can nghĩa đảm thực sự.

La Khắc Địch thấy hắn không nói gì, ngón tay án lên chuôi kiếm, keng một tiếng bảo kiếm rời khỏi bao nửa thước, La Khắc Địch từ từ rút kiếm, trầm giọng nói: “Ta và thái úy cùng nhận lệnh vua, từ Hán quốc mà vượt qua xa mạc, qua Tử Ngọ cốc, đồng sinh cộng tử, có gi­ao tình thân thiết. Lần này có thể từ Khiết Đan bình an trở về, quay lại cố thổ, La mỗ càng nhận thêm ân tình của thái úy, nhưng, tình riêng là tình riêng, bề tôi thí vua, ai ai cũng phải tru diệt. Dương thái úy, La mỗ đắc tội rồi.”

“Chậm đã, Dương mỗ vẫn có lời muốn nói.” Trong lúc nói, Dương Hạo liền có quyết định, đưa tay ra thò về phía hông, La Khắc Địch biết rằng hắn muốn rút kiếm phản kháng, lập tức gầm lên một tiếng, giơ kiếm đâm tới.

Dương Hạo trở tay không kịp, lắc mình vội vàng thối lui, lúc này bên cạnh vang lên tiếng quát khẽ, từ trong cánh đồng xanh có một bóng người bay ra, nhanh không gì sánh được lao về phía La Khắc Địch. “Keng” một tiếng, hai người gi­ao nhau một kiếm, hoa lửa tóe ra, người đố đã phi thân hạ xuống đất, bảo vệ trước mặt Dương Hạo.

La Khắc Địch vừa thấy người này, không khỏi thốt lên kinh hãi: “Ngọc Lạc.”

Người áo xanh đang đứng thẳng ở trước mặt, chính là Đinh đại tiểu thư.

Dương Hạo cũng giật nảy mình: “Ngọc Lạc, sao muội cũng tới đây?”

La Khắc Địch vừa kinh ngạc lại vừa tức giận, quát: “Ngọc Lạc, nàng biết nhị cacủa nàng hắn…”

Đinh Ngọc Lạc ngắt lời hắn: “Ta không biết gì cả, cũng không cần biết làm gì, chỉ cần nhị ca không làm chuyện thương thiên hại lý, ta sẽ giúp huynh ấy, ta không phải là mệnh quan triều đình, cũng không phải là đại anh hùng lấy thiên hạ làm trách nhiệm của mình, ta chỉ là một tiểu nữ tử, chỉ muốn bảo vệ gia đình mình. Thiên hạ, đại nghĩa, có liên quan quái gì tới ta?”

“Nàng…” La Khắc Địch cứng lỡi, dưới cơn tức giận lại lách người muốn lao về phía Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc giơ kiếm đón đánh, u sầu nói: “Hiện tại, người biết ta vì sao lại né tránh ngươi, lạnh nhạt với ngươi rồi chứ?”

La Khắc Địch tức giận nói: “Nàng muốn giúp kẻ phản nghịch ư?”

Đinh Ngọc Lạc nói như chém đinh chặt sắt: “Ta chỉ biết huynh ấy là nhị ca của ta!”

“Tốt! Tốt!”

La Khắc Địch cực kỳ tức giận, trầm giọng quát: “Loạn thần tặc tử, ai ai cũng phải tru diệt! Đã là như vậy, La mỗ là nam nhi đại trượng phu, há lại luyến tiếc tư tình với nữ nhi? Đắc tội rồi!” Nói xong liền cầm kiếm lao tới.

Đinh Ngọc Lạc không chịu yếu thế, giơ kiếm nghênh đón, hai người lại chiến đấu với nhau. Dương Hạo ngưng thần quan sát một lúc, phát hiện La Khắc Địch tuy đang rất tức giận, nhưng vẫn lưu lại ba phần tình ý với Ngọc Lạc. Xem ra hắn là muốn đánh ngã Ngọc Lạc trước rồi tự tay lấy tính mạng của mình. Kiếm pháp của Đinh Ngọc Lạc tuy kém hắn, nhưng vì hắn là có lòng nhường nhịn nên tạm thời đánh ngang tay, không có nguy hiểm tới tính mạng. Dương Hạo lúc này mới thấy yên tâm.

Hắn từ trong ngực lấy ra thì gì đó, chậm rãi bước tới, nhân lúc hai người đan chéo qua nhau, giơ kiếm chém tới, liền phi thân lên, đứng giữa hai người, giơ đồ trong tay lên, quát: “Không được đánh, La huynh, huynh nhìn xem đây là gì?”

La Khắc Địch thấy thứ đồ vuông vức trong tay Dương Hạo, không giống như là vũ khí, không khỏi ngạc nhiên nói: “Đây là gì?”

Dương Hạo gằn từng chữ: “Miễn tử kim bài!”

Miễn tử kim bài mà dân gi­an thường gọi, ở thời cổ đại quả thực có thứ như vậy, tên gọi chính thức mà quan lại hay gọi là “Kim thư thiết khoán”, hoặc là “đan thư thiết khoán”. Ví dụ như nhi tử của Hậu Chu Thế Tổ của tiền triều, nhờ có “đan thư thiết khoán” mà Triệu Khuông Dận ban cho, nếu không mắc đại tội mưu phản thì không được giết.

La Khắc Địch kinh hãi, thất thanh nói: “Ông ta ban cho ngươi đan thư thiết khoán?”

Rồi lập tức cười lạnh, nói: “Nói như vậy, ngươi quả nhiên là kẻ thông đồng với bọn giết vua. Chức quan của La mỗ là tiên đế phong cho, hiện giờ trừ gi­an vì tiên đế, thứ cho không tiếp chiếu mệnh của kim thượng, đan thư thiết hoán này của ngươi…”

“Đồ ngu! Ngươi đã thấy đan thư thiết khoán này? Cớ sao không mở ra mà nhìn?”

La Khắc Địch chán nản ngồi bệt xuống đất, nhìn cánh đồng sanh nhấp nhô như sóng một hồi lâu không nói gì.

Dương Hạo ra hiệu cho Ngọc Lạc rồi khập khiễng đi tới.

La Khắc Địch lạnh lùng lườm hắn một cái, nói: “Đừng có giả vờ làm gì nữa?”

Dương Hạo cười ha ha, ngồi xuống cạnh hắn, thân thiết ôm vai hắn, nói: “Xin lỗi, giả vờ quen rồi, không giả vờ thì thấy không được thoải mái.”

La Khắc Địch tức giận tránh ra, lạnh lùng hỏi: “Giờ ngươi định làm gì? Phụng mật chiếu phụ tá Ngụy vương, hay là về Lô châu vào thảo đầu vương?”

Dương Hạo nhìn cánh đồng xanh nhấp nhô như sóng dưới ánh trăng, chậm rãi nói: “La huynh, công bằng mà nói, ta làm Thất thị cộng chủ, là trước khi vào triều. Khu vực tây bắc, trên danh nghĩa mà nói là gi­ang sơn của Đại Tống ta, nhưng trên thực tế là phiên trấn dân cư hỗn tạp, triều đình chi phối được không? Lân châu Dương gia, Phủ châu Chiết gia, Hạ châu Lý gia, lại thêm Hồ Hột và Thổ Phiên, họ mới là chủ nhân thật sự của tây bắc. Nếu ta tới địa phương đó, có thể chiếm được một khoảng nho nhỏ, đối với Đại Tống mà nói chẳng lẽ sẽ nguy hại lắm ư?”

La Khắc Địch cười lạnh, nói: “Nói vậy là ngươi muốn về tây bắc ư? Vậy huyết chiếu của nương nương thì sao? Nương nương đem quốc sự ra nhờ cậy ngươi, ngươi cứ vật phất tay bỏ đi ư?”

Dương Hạo thở khẽ một hơi, than: “La huynh, trung nghĩa tất nhiên là tốt, nhưng lao đầu vào chỗ chết một cách vô ích là trung nghĩa vô bổ, là ngu xuẩn.”

La Khắc Địch hỏi lại: “Thế là có ý gì? Nếu Ngụy vương huy sư về kinh, chẳng lẽ không thể đánh được một trận ư?”

Dương Hạo ngắt lời: “Nương nương và công chúa, nhị điện ở ở trong thâm cung, suy nghĩ khó tránh khỏi quá đơn giản. La huynh thì không nên phạm sai lầm này, huynh chắc biết rõ, đây vẫn là lần đầu tiên Ngụy vương lĩnh binh, những kiêu tướng đó sở dĩ chịu nghe lệnh hắn, là bởi vì hắn đại biểu cho hoàng đế. Nhưng trong triều giờ đã đổi tân hoàng đế, Ngụy vương nghĩ thế nào không hề quan trọng, quan trọng là những võ tướng đó có chịu theo hắn làm phản hay không?

La huynh, huynh hiện tại vừa mới làm bộ quân đô chỉ huy sứ được nửa năm, ở trong quân chưa lập được đủ uy vọng, chưa bồi dưỡng được bộ tướng một lòng theo huynh. Huynh hiện tại nếu hạ một đạo quân lệnh, các binh sĩ quyết không dám không tuân, cho dù phía trước là núi đao biển lửa, vì sao vậy? Bởi vì huynh có quyền uy vô thượng, có thể tùy ý xử trí bọ họ. Nhưng quyền uy này là tới từ triều đình. Nếu huynh hiện tại chỉ huy bộ tướng tấn công về phía thành Biện Lương, thử hỏi có mấy người chịu nghe mệnh lệnh của huynh?”

“Ta…”

“La huynh, cầu người được người, đổi lấy trong lòng được thanh thản, cho dù huynh tận hết trách nhiệm thì sao? Đó chẳng phải là lừa mình dối người ư. Nếu Ngụy vương có thể khởi binh, ta có thể hiệu triệu quân dân Lô châu hưởng ứng, vừa hay minh chính ngôn thuận mà lập vua. Nhưng nếu Ngụy vương không điều động được ba quân, huynh định làm thế nào? Mang kiếm gặp vua, ám sát kim thượng, đổi lấy cả nhà bị chém ư? Huống chi, huynh đã không thể mang kiếm vào cung, với võ công của kim thượng, huynh cũng chưa chắc đã giết được hắn.”

La Khắc Địch ngẩng mặt lên trời thở dài, nói: “Bỏ đi, La mỗ ở trong cung đợi tin tức của Ngụy vương là được, nếu Ngụy vương khởi binh thì thôi, nếu không, La Khắc Địch sẽ từ quan không làm nữa, thà làm một bình dân bách tính, cũng không làm bề tôi dưới chân kim thượng.”

Dương Hạo thở dài: “Huynh lại sai rồi, ngốc nghếch như thế này. Ta đột nhiên cảm thấy muội muội ta thích huynh, chắc là một sai lầm.”

Đinh Ngọc Lạc vốn đang chăm chú nghe bọn họ nói chuyện, vừa nghe thấy Dương Hạo nhắc tới mình, mặt không khỏi nóng lên, vội vàng quay đầu đi, nhưng vẫn dỏng tai lắng nghe bọn họ nói chuyện.

La Khắc Địch tức giận nói: “Ta sao lại là kẻ ngốc nghếch chứ? Thuận trời ứng mệnh, làm trung thần của kim thượng mới là kẻ thông minh à?”

Dương Hạo hỏi: “La huynh, khi huynh bị người Khiết Đan bắt làm nô đãi, có thể làm đại tướng quân của Khiết Đan, hiện tại làm đại tướng quân của kim thượng thì có gì mà không được?”

La Khắc Địch lạnh lùng nói: “Đó là chuyện khác, lúc trước thuận nước đẩy thuyền, làm quan nhi của Khiết Đan, chỉ là vì tranh thủ cơ hội để chạy về Trung Nguyên, ngươi nghĩ La mỗ cam tâm làm khuyển mã cho địch quốc ư?”

Dương Hạo mỉm cười: “Hiện giờ vì sao lại không được?”

La Khắc Địch đột nhiên như chợt hiểu ra gì đó, do dự nói: “Huynh là nói…”

Dương Hạo bảo: “Thù giết cha, không đội trời chung, Ngụy vương nếu không biết thì thôi, một khi biết được chân tướng rồi, huynh nghĩ hắn há lại chịu bỏ qua? Nếu ba quân không thể sử dụng, vì để báo cừu, Ngụy vương chỉ có thể ẩn nhẫn chờ đợi cơ hội. La huynh không chịu làm việc cho giặc, cứ vậy bỏ đi, ngày sau Ngụy vương nếu muốn đối phó với kẻ đã thí huynh soán vị, còn có ai mà dùng đây?”

La Khắc Địch mắt lóe sáng, Dương Hạo mỉm cười: “Huynh không cảm thấy huynh ở trong triều làm quan càng lớn, binh mã nắm trong tay càng nhiều hơn, sự giúp ích đối với Ngụy vương cũng lớn hơn ư? Nếu như vậy, tuy phải chịu cái nhục nhất thời, nhưng không phụ lòng một phen tài bồi của quan gia, La huynh có chấp nhận hay không?”

La Khắc Địch cúi đầu suy nghĩ một hồi lâu, sau đó nói: “Dương huynh một câu làm người đang ở trong mộng phải bừng tỉnh, ra hiểu rồi.”

Dương Hạo mỉm cười, nói: “Huynh và ta đồng sinh cộng tử, kề vai tác chiến, ngày sau nếu có thể cùng nhau diệt trừ tên quốc tặc này, há chẳng phải là chuyện vui lớn nhất của đời người ư?”

“Tốt!” La Khắc Địch nhướn mày, trầm giọng nói: “Ta về Biện Lương tùy cơ mà hành động, hi vọng huynh có thể nhớ kỹ những lời mà chúng ta đã nói ngày hôm nay.”

“Tất nhiên rồi, huynh và ta vốn có gi­ao tình, trên đường lại tương phùng, gặp nhau đàm đạo một phen cũng là thường tình của con người. Chỉ là La huynh nhớ giữ phần tâm tư này, còn phải thật là cẩn thận, quan hệ với ta không được quá thân thiết, huynh tốt nhất là quay về sớm một chút đi, Dương mỗ cũng phải mau mau về khách sạn rồi.”

La Khắc Địch đã quyết là làm, tuyệt không dây dưa mất thời giờ, ôm quyền với hắn, nói: “Dương huynh nói đúng, La mỗ về đây.”

Hắn ưỡn lưng đứng dậy, bước nhanh xuống sườn núi, đột nhiên nhớ ra gì đó, dừng chân quay phắt lại nhìn Đinh Ngọc Lạc, rụt rè hỏi: “Ngọc Lạc, nàng có trách ta động kiếm với nàng không?”

Ngọc Lạc nói: “Ta là nữ nhân, người nhà là quan trọng nhất. Huynh là nam nhân, quân phụ trên vai, ta không trách huynh muốn làm một đại anh hùng quang minh lỗi lạc thì huynh cũng đừng trách ta là một tiểu nữ tử chỉ trọng người nhà, không trọng đại nghĩa.”

La Khắc Địch cười rất thoải mái: “Đó là tất nhiên rồi, nàng muốn theo lệnh huynh tới Lô châu ư?”

Đinh Ngọc Lạc quay đầu lại nhìn Dương Hạo, nói khẽ: “Phải, ta muốn về Lô châu, người nhà của của ta đều ở đó.”

La Khắc Địch trầm mặc một lát, rồi nói: “Ta xin thề rằng, cả đời này chỉ yêu mỗi mình nàng, hiện giờ đã biết nỗi khổ trong lòng nàng rồi, nhưng ta lại vẫn không thay đổi nguyện ước ban đầu. Vì nàng, nán lại một phần tiền trình thì tính là gì chứ, chỉ không biết Ngọc Lạc cô nương là có một phần tâm ý nào với La Khắc Địch ta hay chăng?”

Đinh Ngọc Lạc u sầu nói: “Tướng quân tuổi trẻ đầy hứa hẹn, Ngọc Lạc lần này đi, xa cách phương trời, không biết ngày nào mới có thể gặp lại.”

La Khắc Địch lớn tiếng nói: “Ta đợi được.”

Đinh Ngọc Lạc thở dài, nói: “Huynh có thể đợi được bao lâu?”

La Khắc Địch chỉ tay lên trời, nói: “Trăng sao trên trời làm chứng, đợi tới biển khô đá nứt, đất già trời hoang, tuyệt không hối hận!”

Ánh mắt của Đinh Ngọc Lạc sáng lên, một lúc sau mới đỏ mặt nói: “Được, chàng nếu có thể cả đời không cưới vợ, thiếp sẽ cả đời không lấy cồng, chỉ chờ được làm người của chàng.”

La Khắc Địch vui mừng nói: “Một lời đã định.”

Dương Hạo lười biếng ngáp một cái, nói: “Hai vị chàng chàng thiếp thiếp, coi ta như không tồn tại hả?”

Hai người mặt lập tức đỏ bừng, Dương Hạo nói: “Ta không thể để muội muội duy nhất của mình biến thành một lão cô nương được, chỉ là trước mắt vẫn chưa phải là lúc, đợi sau khi tất cả rõ ràng rồi hẵng nói đi.”

Hai huynh muội đứng trên sườn núi, nhìn bóng dáng của La Khắc Địch biến mất trong cánh đồng xanh, sắc mặt của Dương Hạo liền trầm xuống, nói: “Ta không phải đã bảo muội hộ tống mấy vị tẩu tẩu về Lô châu rồi ư, sao muội lại lén lén quay lại làm gì?”

Đinh Ngọc Lạc lẽ thẳng khí hùng, nói: “Nếu nhị ca có ba dài hai ngắn gì, huynh nghĩ mấy vị tẩu tẩu có thể sống một mình được ư? Huynh một mình ở lại trong thành, lại không nói rõ nguyên do, ai mà yên tâm cho được? Bọn muội vốn đã ly khai rồi, nhưng nghe nói hoàng đế băng hà, đều không biết trong cung đã xảy ra chuyện gì. Ngọc Lạc mới phụng lệnh của mấy vị tẩu tẩu, quay về nghe ngóng tin tức. Huynh vừa xuất thành là muội đã theo huynh rồi, chỉ là vẫn chưa có cơ hội gặp mặt mà thôi. Muội là phụng lệnh của tẩu tẩu mà tới, huynh muốn trách tội thì tìm tẩu tẩu mà trách.”

Dương Hạo nghiêm mặt, nói: “Còn muốn lừa ta à? Đông nhi là nghe lời ta nhất, nàng ta há lại để cho muội phải dấn thân vào nguy hiểm. Nếu đúng là chủ ý của nàng ta, nàng ta nhất định sẽ tự mình quay về, muội là lén lút chạy về, còn muốn đổ tội lên người Đông Nhi nữa.”

Trong mắt Đinh Ngọc Lạc lóe lên một tia cười, bảo: “Nhị ca, lần này huynh đoán sai rồi, quả thực là tẩu tẩu bảo muội quay về đó.”

“Sao có thể như vậy được, nàng ta…”

“Nếu như là bình thường, tẩu tẩu đương nhiên sẽ tự mình quay về nghe ngóng tin tức, có điều tẩu tẩu lại không đi được.”

Dương Hạo lập tức khẩn trương, nói: “Sao vậy? Có chuyện gì xảy ra với Đông Nhi à?”

Đinh Ngọc Lạc thở dài, nói: “Tẩu tẩu cũng không xảy ra chuyện gì cả, nàng ta chỉ là không dám đi, không thể đi, bởi vì…. nàng ta đã mang cốt nhục của huynh rồi.”

“Cái gì?” Dương Hạo cả người ngây ngốc đứng sững ra đó.

Đinh Ngọc Lạc nói: “Đó chính là hài tử đầu tiên của nhà ta, vạn nhất có mệnh hệ gì, huynh và đại ca đều sẽ đau lòng rồi nổi trận lôi đình. Huynh nói xem tẩu tẩu há lại dám tự mình đi mạo hiểm.”

Dương Hạo thốt lên: “Cái cái… gì gì? Nàng ta có thai rồi ư? Mới có mấy ngày thời gi­an, ta sao lại không biết nhỉ?”

Đinh Ngọc Lạc nhìn bộ dạng hoan hỉ của hắn, bĩu mỗi nói: “Vốn là chỉ có chút hoài nghi, nhưng tẩu tẩu cũng là lần đầu tiên, nàng ấy dám khảng định chắc chắn ư? Chỉ là trên đường đi, dần dần có triệu chứng, nửa đường tìm một y sĩ chẩn trị, lúc này mới xác nhận.”

Dương Hạo vui mừng như điên, Đinh Ngọc Lạc cười nói: “Muội muội mang tới một tin vui như vậy cho nhị ca, nhị ca chắc sẽ không giận muội đâu nhỉ.”

Dương Hạo trừng mắt lườm nàng ta, mắng: “Ai nói là ta không tức giận, tin tức này sớm muộn gì thì ta cũng biết, đáng để muội mạo hiểm quay về ư?”

Đinh Ngọc Lạc ủy khuất cúi đầu xuống, Dương Hạo lại mỉm cười nói: “Có điều lần này muội về cũng chó ngáp phải ruồi, ở chỗ ta chỉ có một đại sự, cần một người ổn thỏa đáng tin cậy đi làm, vốn vẫn muốn tối nay cùng Lý quản gia thương lượng một chút, muội đã tới rồi, tất nhiên là nhân tuyển tốt nhất.”



Trong khách sạn, phòng của Công Tôn Khánh.

Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài hai má sưng phù đang bí mật thương nghị sự tình.

Công Tôn Khánh nói: “Những tên thích khách đó không biết là ai phái tới nhỉ, làm hỏng đại sự của chúng ta, bố trí tỉ mỉ của quan gia ở trong trấn Bản Kiều toàn bộ đều uổng phí rồi.”

Vương Bảo Tài cười hắc hắc, năm vết ngón tay trên mặt càng nổi bật, nói: “Công Tôn đại nhân hà tất phải tức giận, cho dù không có bố trí trong trấn Bản Kiều, mạt tướng cũng có thể thần không biết quỷ không hay khiến hắn táng mạng tại đây.”

Công Tôn Khánh tinh thần chấn động, vội vàng hoi: “Vương tướng quân có diệu kế gì vậy?”

Vương Bảo Tào mỉm cười, đưa tay ra vỗ ba cái, đột nhiên từ cửa chính, cửa sổ, trên xà nhà, dưới gầm giường có bốn người che mặt hiện ra, sau vai đều đeo hai thành võ sĩ đao một dài một ngắn, dọa cho Công Tôn Khánh giật thót mình, hắn thực sự không nghĩ ra được những người này chui vào trong phòng mình từ lúc nào.

Công Tôn Khánh vừa kinh ngạc lại vừa nghi hoặc hỏi: “Bọn họ là ai vậy?”

Vương Bảo Tài cười với vẻ khoe khoang, nói: “Bọn họ gọi là nhẫn giả, là những thám báo xuất sắc nhất, và cũng là thích khách xuất sắc nhất.”

Bốn người che mặt lập tức hành lễ với Công Tôn Khánh.

Vương Bảo Tài nói: “Bình thường, bọn họ đều là những binh sĩ bình thường trong Nhật Bản trực, có ai biết được bọn họ có thể thân hoài tuyệt kỹ chứ? Tối nay ta sẽ bảo bọn họ thi triển thủ đoạn, tới ám sát Dương Hạo. Sáng sớm ngày mai, cái mà đại nhân nhìn thấy chỉ có thể là thi thể lạnh băng của Dương Hạo, hắn tuyệt đối không thể nhìn thấy ánh mặt trời của sáng mai đâu.”

Công Tôn Khánh nói với vẻ hoài nghi: “Bọn họ thực sự có bản sự hay như vậy ư?”

“Không sai, bọn họ không những có một thân bản sự, hơn nữa còn là thủ bí giả (ngươi giữ bí mật) xứng đáng với chức vụ nhất, từ lúc một số võ sĩ xuống dốc của Y Hạ, Giáp Hạ triều Đường kết hợp binh pháp trung thổ, ngũ hành độn thuật của đạo gia, sáng ạo ra nhẫn thuật tới nay, bọn họ giữ nghiêm bốn giới luật: Một, không sử dụng nhẫn thuật vì mục đích riêng; Hai, bỏ hết tất cả tự tôn; Ba, phải thủ khẩu như bình; Bốn, tuyệt không được tiết lộ thân phận. Tất cả nhẫn giả đều làm theo bốn giới luật này, chưa từng có một ai trái với lời thề, bọn họ nhất định sẽ không khiến đại nhân thất vọng đâu.”

Vương Bảo Tài mỉm cười xua xua tay, bốn nhẫn giả lập tức cúi người hành lễ rồi biến mất.

Chương 404: Nhẫn

Màn đêm buông xuống, ai ai cũng vội vã mà đến nên không có chuẩn bị gì cả, chỉ ăn qua loa thứ gì đó, Dương Hạo thì về phòng ngủ của mình. Ở chốn thôn quê, phòng ốc đơn sơ, nhưng cũng có khác lạ, phòng còn có một cửa sau, ngoài cửa sau là hành lang gỗ được dựng trên mặt nước, hành lang gỗ còn có lan can.

Phòng ở hai bên và đằng trước đều do gia nhân của Dương Hạo sống, quản gia Lý Khánh Phong vừa rồi mới có cơ hội tiến vào phòng ngủ, cùng Dương Hạo bí mật thương nghị một hồi lâu, sau đó thì rời khỏi phòng.

Lý Khánh Phong vừa ra khỏi cửa, Dương Hạo liền mặc cả quần áo nằm trên giường, suy nghĩ kỹ càng về tiền trình của mình.

Ngọc Lạc gan dạ cẩn trọng, lại nhanh mồm nhanh miệng, chuyện quan trọng này gi­ao cho nó có thể yên tâm được. Mà La Khắc Địch cũng không phải là một kẻ lỗ mãng, nhìn cơ hội mà hành sự như thế nào thì hắn tất nhiên có thể lĩnh hội, không cần mình phải lo lắng. Hắn tiếp tục đi trên con đường này, e rằng sẽ là sát cơ bốn phía, có điều kế hoạch của Kế Tự đường cũng khá chu mật, Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài không thể hạ thủ một cách lộ liễu, duy có dùng âm mưu quỷ kế, lộ đấu pháp này, có sự giúp đỡ mạnh mẽ của Kế Tự đường, vị tất cả không thể an nhiên tới Lô châu.

Vấn đề quan trọng hiện giờ là Ngụy vương

Nếu chúng tướng ủng hộ, Triệu Đức Chiêu quả nhiên làm phản, vậy thì hắn phải theo chiếu mà khởi binh, đã nhận bức huyết thư này của nương nương, nếu hắn án binh bất động, tất sẽ bị thiên hạ thóa mạ ,trên đạo nghĩa cũng không thể nào đứng vững được. Mà xuất binh tương trợ, vị sứ tướng này có thể danh chính ngôn thuận trở thành phụ chính đại thần. Triệu Đức Chiêu nếu có thể đánh bại Triệu Quang Nghĩa, lúc đó hắn phe cánh đầy rẫy, ở tây bắc đã đủ để đứng vững. Nếu Ngụy vương Triệu Đức Chiêu binh bại, hắn cũng có thể lui về thủ Lô châu, một lần nữa dùng sách lược nhờ vào Khiết Đan mà khống chế Đại Tống, mượn Đại Tống để kiềm chế Khiết Đan, giống như ngày trước Lô châu ở khe hở của thế lực chính trị ba phía, có thể đứng vẫn chân, lợi dụng sự kiêng kỵ lẫn nhau giữa hai nước lớn này để bảo đảm bản thân được bình yên vô sự.

Cách nghĩ này tuy khác với sách lước lúc trước lấy Ngân châu, thống nhất Hoành Sơn, lại chiếm lấy Hạ châu, định cơ Tây Bắc, có điều cũng là trăm sông đổ về một biển, kết quả giống như nhau mà thôi.

Hắn hiện tại giống như là đặt mình vào một con thuyền trên biển lớn, trước mắt là sóng to gió lớn, dưới chân là mạch nước ngầm, mục đích của hắn tuy đã được xác định, nhưng làm thế nào mà thực hiện được, là lái thẳng, đi vòng, hắn là tạm tránh nơi đầu sóng ngọn gió, lựa chọn có rất nhiều, phải tùy thời mà thay đổi, cứ khăng khăng giữ kế hoạch ban đầu, không nhìn biến hóa mà thay đổi tình hình, đó là ngu xuẩn nhất, sau cùng chỉ có thể rơi vào kết cục thuyền chìm người chết.

Nhưng, cho dù là cừu giết cha, không đội trời chung, nếu Ngụy vương nhát gan, đại cừu như vậy cũng bỏ qua như không biết thì không nói, nhưng hắn liệu có thể chỉ huy được ba quân, để các tướng lĩnh trong quân người trước hy sinh, người sau tiếp bước, quyết chí tiến lên vì hắn hay không? Triệu Đức Chiêu hiện tại, có uy vọng và năng lực này hay không? Dương Hạo vô cùng hoài nghi.

Nếu không thể, vậy thì hắn chỉ có thể nhẫn. Nếu như vậy, mình vẫn phải án chiếu theo kế hoạch ban đầu, trước tiên giành lấy Ngân châu, củng cố nền móng, rồi lại lấy tiếp Hạ châu. Đây là mộ trận đọ sức trên chính trị, làm thế nào để bố trí được những nước cờ quan trọng. Mà hiện giờ nơi để cho hắn bày bố, chính là biên hoang tây bắc.

Thiên hạ hiện giờ giống như là một bàn cờ, chính giữa đã một phân làm hai, bị Tống quốc và Khiết Đan chiếm rồi, nếu như hắn chen vào đây, tất sẽ bị bốn phía tập kích, phải chống đỡ không ngừng. Bố cục càng hoa lệ, càng dễ lọt vào sự công kích của đối thủ. Ẩn mình một chút, làm dần từng bước, so với người bên ngoài thì hào nhoáng, bên trong thì trống rỗng sẽ càng dễ dàng thành công hơn.

Tây bắc bất kể là mục đích cuối cùng của hắn, hay chỉ là một cứ điểm để tấn công thì cũng đều là lựa chọn duy nhất và thích hợp nhất của hắn. Lấy đất lấy thế, tây bắc có thể khiến uy vọng của hắn được tăng cao. Còn chiếm được thế l rồi, có thể biến ảo thành chính cục khó lường để từ đó vạch ra con đường của riêng mình hay không, đó không phải là chuyện mà hiện tại hắn có thể suy tính được, mựu sự tại nhân, thành sự tại thiên, biến số mỗi ngày đều có, mỗi ngày đều nảy sinh biến hóa, có ai mà biết trước được.

Người hay thắng thì không tranh, người hay tranh thì không đánh, người hay đánh thì bất bại, người hay bại thì không loạn, mà người đã bỏ lỡ tiên cơ như hắn, tất phải nhẫn, phải tránh mang trong đầu ý nghĩ một bước lên trời, cứ đặt chân cho vững đã rồi tính tiếp.

Vào lúc đang suy nghĩ, cửa nhẹ nhàng mở ra, một nữ tử áo xanh thân hình yểu điệu đi vào, trong tay cầm một bình trà, mỉm cười nói với hắn: “Lão gia muốn uống trà rồi đi ngủ, hay là muốn đi tắm? Nếu muốn tắm, tỳ nữ sẽ bảo người chuẩn bị nước nóng.”

Dương Hạo đứng dậy, ngồi ở mép giường nhìn thị tỳ áo xanh này, mặt mày như tranh, cười tươi như hoa, tuy là nha hoàn, nhưng thần tình khí chất lại tự nhiên trang nhã, không quá giống như một nha hoàn quen phục vụ chuyện ăn ngủ của người ta.

Dưới đôi lông màu cong cong như trăng khuyết là một đôi mắt mỹ lệ, nhưng khi nhìn về phía hắn, lại mang theo một tia hiếu kỳ, giống như làvẻ mặt của một người được nghe người ta nhắc nhiều tới sự tích của hắn, hiện giờ lần đầu tiên nhìn thấy vậy. Thấy Dương Hạo nhìn lại, khóe miệng của thiếu nữ hơi cong lên, lộ ra nụ cười xán lạn như hoa, rất là thanh tú.

Dương Hạo đứng dậy, thị nữ áo xanh liền nhẹ nhàng đặt ấm trà lên bàn, nhanh nhẹn lui một bước.

“Ngươi tên là…”

Trúc Vận mỉm cười, nói: “Tỳ nữ tên là Trúc Vân, lão gia xin nhớ cho, để tránh ở trước mặt người khác lại gọi nhầm.”

“Ồ, Lý quản gia không phải là quản gia thật sự, Trúc Vận cô nương chắc cũng không phải là thị tỳ thật sự phải không?”

Trúc Vận nhoẻn miệng cười: “Trước khi lão gia bình yên tới được Lô châu, Trúc Vận chính là thị tỳ của đại nhân.”

Dương Hạo cười nhạt, cũng không truy hỏi nữa, hắn ngồi xuống bàn, rót cho mình một chén trà, vuốt cằm trầm ngâm một lát, nói: “À… hôm nay đi đường­mệt mỏi, quả thực là cũng muốn tắm một trận. Ta trước tiên uống một chén trà cho tỉnh táo đã, phiền cô nương bảo người chuẩn bị nước nóng.”

“Vâng!”

Trúc Vận cô nương hơi cúi người, lại cười khẽ, nói: “Trúc Vận hiện tại là tỳ nữ của lão gia, lão gia phải cố gắng chú ý tới ngôn ngữ, đối với tỳ nữ xin đừng quá khách khí như vậy.”

Nàng ta nhẹ nhàng quay người bước ra ngoài. Dương Hạo chú ý thấy, vòng eo của nàng ta mặc dù gió thổi dương liễu, nhưng bước chân lại rất vững, đi vào đi ra nhanh thoăn thoắt, nữ hài nhi này, e rằng không yếu đuối gió thổi cũng bay như vẻ ngoài của nàng ta đâu. Quản gia không phải là quản gia, thị tỳ không phải là thị tỳ, những người mà Kế Tự đường tìm tới, vốn là làm gì vậy?

Trời đã khuya, Trúc Vận cô nương mặc cả quần áo nằm trên giường ở gi­an ngoài, hít thở đều đều, giống như đã ngủ say đột nhiên mở bừng mắt, ngọn đèn trên bàn chưa tắt, chiếu lên đôi mắt đẹp long lanh vừa ánh lên ánh sáng động lòng người của nàng ta.

Nàng ta nhẹ nhàng nhảy xuống đất, tay cầm thanh bảo kiếm sớm đã tuốt khỏi vỏ, tiếng hít thở vẫn đều đều, giống như là đang nằm ngủ trên giường vậy. Hai chân di chuyển như mèo, ghé sát vào tường, lỗ tai nhẹ nhàng rung động, cứ tựa sát vào tường mà tiến về phía trước.

Bên ngoài, có tiếng sột soạt khe khẽ, giống như là một con rắn bò trên bãi có điểm sương sớm, nhỏ vô cùng, e rằng phần lớn mọi người đều không chú ý tới dạng tiếng động nhỏ gần như là không có này.

Đi theo tiếng sột soạt một lúc, trong mắt Trúc Vận chợt lóe sáng, đột nhiên xuất kiếm nhanh như điện xẹt, “bộp” một tiếng, trường kiếm xuyên qua tường, cho tới tận chuôi kiếm dài ba tấc chạm tường thì mới dừng lại, bởi vì vận kiếm kỳ quái, cho nên chỉ phát ta một tiếng “bộp” rất khẽ.

Khóe miệng xinh đẹp của Trúc Vận hơi cong lên, lộ ra một nụ cười mỉa mai, thuận tay rút một cái khăn dắt ở hông ra, bọc lên chuôi kiếm, rút thật nhanh ra sau, không phát ra một chút thanh âm nào, dưới ánh đèn, trên mũi kiếm lờ mờ hiện ra vết máu, nàng ta ưỡn thẳng người lên như không có chuyện gì, dùng khăn lau kỹ mũi kiếm, vừa lau hai cái, lại nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng “rầm” như có vật nặng gì đó rơi xuống, sau đó thì không còn tiếng gì nữa.

Trúc Vận lau kiếm đến sáng loáng, lại đưa kiếm lên mũi ngửi, thấy không còn mùi máu nữa thì mới giống như là u linh quay về giường nằm.

Trong phòng bếp, Chu bàn tử lè nhè hát một bài hát không có gi­ai điệu gì cả, đang cọ rửa cái thùng tắm mà Dương Hạo vừa dùng xong. Phía sau không xa có một nồi nước nóng sôi sùng sục.

Chu bàn tử tên là Chu Trì Nghiệp, mặt vuông vức, thân hình tròn vo, dưới cằm có tới ba thớ thịt, lộ ra vẻ cực kỳ phúc hậu. Như bản thân hắn nói thì hắn vốn là một đầu bếp xuất sắc nhất trong Nhất Tiếu lâu, bởi vì thủ nghệ giỏi quá, thái úy lão gia không nỡ bỏ, cho nên thái úy lão gia lần này về Lô châu mở nha xây phủ, đặc biệt dẫn hắn theo.

Có điều thủ nghệ của hắn có thật là giỏi như vậy không thì người ngoài không biết được. Hắn chỉ chuyên nấu ăn cho thái úy đại nhân, người ngoài chỉ có thể chú ý thấy được là tên Chu đại trù (Chu đầu bếp) này cực kỳ sạch sẽ, không những rửa thức ăn rất sạch mà nồi niêu xoong chảo đều cọ rất sạch, trên người cũng không có mùi dầu mỡ như những đầu bếp bình thường khác.

Sau khi đun nước nóng cho thái úy đại nhân tắm rửa xong, hắn còn đặc biệt đun một nồi nước nóng cho mình, định tắm nước nóng một trận cho thoải mái.

Rầm rì hát mà so với lợn rống còn khó nghe hơn, Chu bàn tử bước tới cầm gáo vừa định múc một gáo nước nóng lên thì đột nhiên nghiêng đầu lắng nghe sau đó thì bước ra ngoài. Tuy nói rằng phòng bếp này không lớn, nhưng thân hình của Chu bàn tử béo như vậy, một bước thôi mà có thể bước ra được ngoài, thân hình nhẹ nhàng như một chiếc lá, trong tay hắn vẫn cầm cái gáo nước nóng, nước không ngờ lại không vãi ra ngoài tới một giọt nào.

Chu bàn tử nhìn xung quanh, ánh trăng lờ mờ, chỉ thấy bóng cây lắc lư, trong viện không có một người nào, Chu bàn tử cúi đầu nhìn nước sôi bốc hơi nóng lên mặt, đột nhiên quay người trở về phòng, cầm cái thùng gỗ lớn đủ để ba đứa trẻ tắm rửa lên, vừa khoái trí hát vừa đổ nước vào trong.

Chu đại bàn tử rất nhanh đã đổ đầy một bồn nước nóng, hắn cầm thùng gỗ lên bước ra khỏi phòng, trong viện một thảm cỏ nhẹ nhàng nhu động, phương hướng chính là phòng của Dương Hạo, Chu bàn tử vừa bước ra, mặt đất lại bình lặng như thường, không có nửa điểm động tĩnh gì. Chu đại bàn tử bê một bình nước đầy, nghiêng mặt né hơi nóng phả vào mặt, tới trong viện rồi róc rách đổ một bồn nước nóng xuống.

Thảm cỏ đột nhiên rung động, lập tức lại có một chút động tĩnh nào nữa, Chu bàn tử lắc lắc đầu, ba thớ thịt ở dưới cằm rung rinh, hắn lẩm bẩm than: “Nhẫn, quả nhiên có thể nhẫn, thật sự có thể nhẫn, bội phục, bội phục…”

Chu đại bàn tử thở ngắn than dài quay về phòng, thảm cỏ đó lặng yên không động, rất lâu sau, nhiệt khí ở bên trên đã hoàn toàn tiêu tan, thảm cỏ đột nhiên trồi lên, một bóng người chợt hiện ra, nhoáng một cái giống như linh viên nhảy ra ngoài tường viện, nhanh như tên rời cung, sau thời gi­an một chén trà, trên cánh đồng hoang vắng ngoài trấn Tạo Hóa, vang lên một tràng tiếng sói tru thê lương…

Điền Thôn Lương Phu điều chỉnh thể năng tới trạng thái tốt nhất, lặng lẽ tiến về căn phòng mà Dương Hạo đang ở.

Từ sau khi tới Trung Nguyên, hắn đã rất lâu rồi chưa tiến hành dạng huấn luyện thống khổ này, cảm giác mình hiện tại so với trạng thái đỉnh phong khi xưa thì còn lâu mới bằng, chân tay cũng không còn nhanh nhẹn nữa, nhưng hắn tự tin rằng với kỹ năng giết người được ma luyện từ nhỏ, muốn thần không biết quỷ không hay giết chết một người đang ngủ là chuyện hết sức dễ dàng.

Thân là hậu đại của một gia tộc nhẫn giả, hắn vừa sinh ra đời đã phải tiếp nhận một vận mệnh tàn khốc, hoặc là thành nhẫn giả, hoặc là phải chết, mà hắn hiện tại thì vẫn còn sống.

Hắn từ nhỏ đã luyện tập các loại kỹ xảo nghe trộm và giết người, thiện trường các loại binh khí như kiếm, câu, cùng với các loại ám khí như phi tiêu, có thể vượt nóc băng tường, chạy trên cát mà không lộ ra một chút thanh âm nào, có thể nín thở ở trong nước rất lâu, dùng dùng cụ đặc thù ngồi ở đáy nước một ngày một đêm, thậm chí còn nấp ở đáy thuyền, nghe trộn người ở trên thuyền đối thoại.

Thân là một nhẫn giả, hắn phải vượt qua rất nhiều sự rèn luyện khó khăn đối với tử vong, cô độc, bóng tối, thậm chí là đói rét, bệnh tật. Phải có lực lượng tinh thần và thể năng cường đại. Là một nhẫn giả, hắn từ nhỏ đã theo sư phụ tu hành mật pháp của Đông mật, mật pháp của Đông mật giống như Tàng mật và Tạp mật của Ấn Độ, là một chi của Phật giáo Mật tông, có tác dụng cường đại đối với ma luyện khổ hạnh và nhục thể. Thông qua tu luyện bí pháp của Đông mật, thể năng của hắn có thể đạt tới hạn độ lớn nhất, ý chí tinh thần cũng cứng rắn vô cùng.

Nhưng nỗ lực chịu khổ và vào sinh ra tử như vậy, sự hồi báo tương ứng lại quá nhỏ. Trong mắt cái đại danh, võ sĩ là gia thần, mà nhẫn giả chỉ là gia nô, bọn họ không chỉ phải chấp hành nhiệm vụ nguy hiểm nhất, thỉnh thoảng còn bởi vì tiếp cận với những điều cơ mật mà bị chủ nhân của mình giết người diệt khẩu. Cho dù lập được chiến công hiển hách, sự ban thưởng mà bọn họ nhận được cũng chỉ là được cùng với võ sĩ đi chấp hành nhiệm vụ.

Điền Thông Lượng Phu là một người rất có suy nghĩ, hắn không thể chịu đựng được loại đãi ngộ đó, nhưng lại biết dưới sự khống chế nghiêm ngặt, mang lòng phản kháng thì chỉ có một con đường chết, thế là thông qua sự chuẩn bị tinh thâm, hắn trong một lần đi chấp hành nhiệm vụ đã giả chết để thoát thân, vượt qua đại dương chạy tới trung thổ, hơn nữa trở thành một võ sĩ cấm quân có quân lương hậu hĩnh.

Hôm nay làm lại nghề cũ, hắn không có ngờ lại có chút cảm giác hưng phấn. Hắn lặng lẽ bò lên nóc phòng, bất giác nhíu mày, nóc phòng không được lợp là ngói mà là phủ cỏ, thế này có chút phiền phức, có điều vẫn không làm khó được hắn, trả qua sự tìm tòi mấy trăm năm của các nhẫn giả, bọn họ có thể ở các loại địa hình, kịp thời đưa ra những lựa chọn thỏa đáng nhất.

Trong ngực hắn có một bình độc dược, chỉ cần để hắn bò lên phía trên đối diện với giường của Dương Hạo, dùng một sợi tơ đổ độc dược vào miệng của Dương Hạo, có thể khiến Dương Hạo vô thanh vô tức chết đi trong giấc ngủ. Hắn ngồi xổm ở nóc phòng, quan sát tình hình một lúc, phòng ốc rất đơn sơ, hai bên nóc phòng lộ ra một xà nhã gỗ, từ móc một sợi dây thừng ở bên hông ra, đang định buộc lên xà nhà thì bên cạnh đột nhiên hiện ra một bàn tay lớn, nắm lấy dây thừng.

Điền Thôn Lương Phu kinh hãi đến vãi linh hồn, giật cùi trỏ một cái rồi ngã ra sau. Dưới cùi trỏ của hắn dấu một mũi dao sắc bén, bên trên cũng phết độc dược kiến huyết phong hầu, chỉ cần rạch một chút lên da. Nhưng cánh tay của hắn lại bị một bàn tay hữu lực nắm lấy, Điền Thôn Lương Phu chỉ cảm thấy cả cánh tay tê rần, nửa người lập tức không còn khí lực.

Người ở phía sau là dùng Hồng quyền, đây là một trong những loại quyền cổ xưa nhất của Trung Nguyên, Đường thủ bắt nguồn từ nó. Thái Tổ Hồng quyền của Triệu Khuông Dận cũng bắt nguồn từ nó, Đồ thủ võ đạo của Nhật Bản cũng bắt nguồn từ nó, biến hóa ngàn năm, khắc địch chế thắng mỗi cái đều có chỗ xảo diệu riêng, bộ võ công này tuy lấy kích đả làm chủ, nhưng phương diện cầm nã cũng có chỗ đặc sắc riêng, sắc bén mà có lực.

Lúc này tinh thần lực cường đại của Điền Thông Lương Phu đã phát huy tác dụng, cơ bắp bị chế trụ, thân hình theo bản năng sẽ mềm oặt vô lực, nhưng nửa người kia của hắn lại làm ra phản ứng, song người ở phía sau sớm đã có chuẩn bị, nhanh chóng vô cùng nhặt dây thừng lên, quấn ba vòng quay cổ hắn rồi lập tức tung người nhảy xuống đất, tay giật một cái, kéo cả hắn xuống cùng.

Thể trọng của nhẫn giả đều rất nhẹ, bình thường không thể vượt qua một trăm cân, thân hình một trăm cân của Điền Thôn Lương Phu ở trong tay người đó lại nhẹ như vô vật, trong thoáng chốc đã bị người đó hoàn toàn chế trụ, bị hắn kéo vào trong bóng đêm…

Một lát sau, quản gia Lý Khánh Phong xoa bụng cười tủm tỉm bước vào, giống như là vừa mới đi vệ sinh xong, mặt mày thoải mái, thân thể nhẹ nhõm…



Trời sáng rồi, Trúc Vận cô nương mỉm cười dứng ở trước cửa phòng Dương Hạo, tươi cười nói: “Chào lão gia, nghỉ ngơi có tốt không?”

Dương Hạo liếc nàng ta một cái, tựa cười mà như không phải cười, nói: “Tốt, chỉ là lúc đêm khuya có nghe thấy một chút động tĩnh dị thường, không biết là chuyện gì.”

Trúc Vân thản nhiên như không, nói: “Ặc, chốn thôn quê, chắc là mèo bắt chuột ấy mà, nhà bếp đã chuẩn bị đồ ăn sáng rồi, lão gia muốn dùng một chút không?”

“Đương nhiên rồi, Công Tôn đại nhân và Vương tướng quân đã dậy chưa? Mời mọi người tới dùng chung đi.”

Hắn duỗi hai tay, muốn đi lên hành lang gỗ, Trúc Vận đột nhiên bước lên một bước, nói: “Lão gia hay là đừng đi hành lang, hoàng lão gia tử đang câu cá ở đằng sau.”

Hoàng lão gia tử tên là Hoàng Tân, là người quét vườn trong phủ của Dương Hạo,vừa hơn năm mươi tuổi, tóc hoa râm, nhưng tai không điếc, mắt không mờ, rất xứng với tên.

“Ặc?”

Dương Hạo chớp chớp mắt, hỏi: “Lão Hoàng câu bao lâu rồi?”

Trúc Vận thản nhiên nói: “Chẳng khoảng một đêm rồi?”

“Câu được cá chưa?”

“Cá vẫn ở dưới nước.”

Dương Hạo thở dài một hơi, lẩm bẩm: “Con cá này… thực là khổ cực quá.”

Trúc Vận nhịn cười, nói: “Lão gia nói phải.”

Dương Hạo xoay người bước ra ngoài, khi đi qua Trúc Vận, đột nhiên đưa tay ra vỗ vai nàng ta, cười nói: “Ngươi cũng khổ cực rồi, nếu chưa ngủ thì trên đường đi ngủ cũng được.”

Dương Hạo vừa đưa tay ra, Trúc Vận theo bản năng định né tránh, nhưng động tác của nàng ta tuy nhanh, song động tác của Dương Hạo còn nhanh hơn, một chưởng này vẫn vỗ lên vai của nàng ta, căn bản không né kịp, Trúc Vận mặt không khỏi cứng đờ.

Dương Hạo mỉm cười bước ra ngoài, thở dài: “Cứ đi tiếp như thế này, sợ rằng ta và ngươi đều ngày đêm đảo lộn, nghỉ ngơi vào ban ngày rồi.”

Trúc Vận cô nương nhìn bóng lưng của hắn, mũi dọc dừa hừ khẽ một tiếng, hậm hực nói: “Đáng đời ngươi, có phúc mà không biết hưởng.”

Nước sông ở gần bờ đối diện, trong đám bèo dày đặc bỗng dưng có một đoạn cỏ lau nhô lên, ở chỗ sâu trong bèo thỉnh thoảng lại nổi lên một chuỗi bọt nước rất nhỏ, giống như là một con cá bướng bỉnh đang phun bọt nước ở đó.



Tây lộ Hà Bắc, dưới chân núi Tán Hoàng, tinh kỳ phất phới, ba quân đóng tại chỗ. Ở trước viên môn dựng cờ trắng, trông rất thê lương.

Triệu Đức Chiêu vừa nhận được chiếu thư cải phong thành Ngô vương đang thu thập hành trang chuẩn bị khinh kỵ về Biện Lương chịu tang, thái phó Tông Giới Châu đột nhiên dẫn một người trẻ tuổi mặt mũi phờ phạc tiến vào trướng.

Triệu Đức Chiêu hai mắt sưng húp vừa nhìn thấy vội vàng nghênh đón: “Lão sư.”

Tông Giới Châu gật đầu, nhìn xung quanh thấy trong trướng không có ai, liền nói: “Thiên tuế, người trẻ tuổi này từ trong cung tới, nói là có chuyện quan trọng muốn nói với ngài.”

“Hả?”

Triệu Đức Chiêu nhìn người trẻ tuổi kiêu ngạo, cũng không bước lên thi lễ tham kiến này, thấy hắn tuy mặt mũi phong trần, nhưng vẻ mặt tuấn tú, là một thiếu niên đẹp trai oai hùng hiên ngang, không khỏi có chút kinh ngạc. Triệu Đức Chiêu quan sát hắn thêm một chút rồi hỏi: “Tráng sĩ từ trong cung tới ư? Không biết có chuyện gì mà muốn gặp bản vương vậy?”

Đôi mắt to trắng đen rõ ràng của mỹ thiếu niên đó liếc Tống Giới Châu một cái, Tông Giới Châu hiểu ý, cười nhạt nói: “Lão phu tránh đi một chút.”

“Lão sư dừng bước.” Triêu Đức Chiêu gọi một tiếng, nói với mỹ thiếu niên: “Tráng sĩ, đây là ân sư của bản vương, bất kể là chuyện như thế nào, đều không cần phải giấu ông ấy.”

Mỹ thiếu niên đó nói: “Chuyện này quan hệ trọng đại, thậm chí quan hệ tới cả sự an nguy của thiên tuế, cũng có thể… để cho người ta nghe ư?”

Hắn vừa cất tiếng nói, không hề che giấu bản âm, giọng nói của hắn trong trẻo dễ nghe, không ngờ là một nữ tử. Triệu Đức Chiêu càng kinh ngạc, lại nói: “Đã là như vậy thì càng cần ân sư có mặt. Trong quân nếu nói chỉ có một người đáng tin, vậy cũng chỉ có ân sư của ta thôi, cho dù là chuyện có lớn thế nào đi chăng nữa cũng không cần phải giấu ông ấy.”

Tông Giới Châu nghe vậy mặt liền lộ ra vẻ kích động, không khỏi hơi chắp tay với học sinh của mình.

“Tốt!” Nữ tử đó liếc Tông Giới Châu một cái, nói: “Ở đây có một phong thư, xin thiên tuế đọc thật kỹ, có bàn bạc với ai khác không là chuyện của thiên tuế.” Nói xong liền cẩn thận rút một phong thư từ trong tay áo ra, dùng hai tay đưa lên.

Triệu Đức Chiêu nhìn một cái, nhận lấy bức thư, vừa nhìn thấy tính danh của người viết thư, mặt liền lộ ra vẻ kinh ngạc, vội vàng nói: “Tráng sĩ… mời cô nương ngồi, bản vương trước tiên đọc thư đã.”

Triệu Đức Chiêu vội vàng mở bức thư ra, chỉ đọc được một nửa liền đứng bật dậy, tức giận gầm lên: “Không ngờ lại có chuyện này! Không ngờ lại có chuyện này!” Nói xong, hai hàng lệ nóng đã tí tách rơi xuống.

Tông Giới Châu tuy ở lại trong trướng, nhưng không tiện đọc thư, chỉ rót một chén trà cho Đinh Ngọc Lạc, ngồi ở bàn để đợi, mắt thấy Triệu Đức Chiêu kinh hãi như vậy, Tông Giới Châu vô cùng ngạc nhiên, nói: “Thiên tuế, lâm nguy mà không loạn, thấy biến mà không kinh hãi.”

Triệu Đức Chiêu lệ lăn dài trên má, bi phẫn nói: “Lão sư, học sinh sao có thể thấy biến mà không kinh hãi được, phong thư này… phong thư này…”

Đinh Ngọc Lạc khịt mũi nói: “Thiên tuế đọc kỹ một chút xem đây có đúng là công chúa điện hạ tự mình viết không?”

Triệu Đức Chiêu nói: “Không thể sai được, bức thư này quả thật là bút tích của Vĩnh Khánh, trong thư để khiến ta tin, còn đặc biệt nhắc tới những chuyện thời nhỏ mà chỉ có hai huynh muội chúng ta biết.”

Đinh Ngọc Lạc cười ha ha, nói: “Vậy thì tốt, trong kinh quả mẫu ấu đệ, đều ngóng trông ngài, thiên tuế nên sớm quyết định mới đúng, thiên tuế đường đường là một đáng nam như, khóc lóc sụt sùi như vậy, có ích lợi gì không?”

Triêu Đức Chiêu bị Đinh Ngọc Lạc nói cho phải xấu hổ, đưa thư cho Tông Giới Châu, nói: “Mời lão sư xem.”

Tông Giới Châu do dự nhận lấy thư, Đinh Ngọc Lạc ở bên cạnh nói: “Bức thư này quan hệ trọng đại, nếu lão tiên sinh đọc qua rồi, là họa hay là phúc, là dữ hay là lành đều phải tự mình gánh chịu, thậm chí còn liên lụi tới cả người nhà nữa, ngài hãy nghĩ cho kỹ.”

Tông Giới Châu nghe xong, nhướn mày tức giận nói: “lão phu nhận ủy thác của tiên đế, dạy dỗ hoàng trưởng tử, dù máu chảy đầu rơi cũng không tiếc, đã là như vậy, phong thư này lão phu không xem không được.”

Tông Giới Châu mở thư ra, đọc được một nửa, sắc mặt trắng bệch, đoạn sau phần lớn là Vĩnh Khánh công chúa để khiến huynh trưởng của mình tin rằng đây là bút tích của mình, thuật lại một số chuyện nhà thời nhỏ, cùng với yêu cầu muốn hắn suất binh phục cừu. Tông Giới Châu không tiện đọc, hai tay ông ta từ từ rủ xuống, mặt mày trắng bệch, nói: “Tiên đế đột nhiên băng hà, lão thần vốn thấy kỳ lạ, nhưng ngàn vạn lần không ngờ… giờ… giờ nên làm gì đây?”

Triệu Đức Chiêu mặt đỏ như máu, phẫn nộ gầm lên: “Thù giết cha, không đội trời chung, ta… ta phải suất quân về kinh, giết vào Biện Lương, trừ tặc cho nước, báo thù cho cha, giết chết tên gi­an tặc tự lập làm vua đó.”

Tông Giới Châu trấn tĩnh hơn, khuyên: “Thiên tuế chớ có lỗ mãng, hiện giờ Tấn vương đã đăng cơ rồi, danh phận đã định, thiên tuế nếu thống binh giết về kinh, phải ăn nói thế nào đây? Nêu không cẩn thận sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục, thiên thuế phải nghĩ cho kỹ.”

Triệu Đức Chiêu phẫn nộ nói: “lão sư bảo cô nghĩ kỹ thế nào đây? Thù giết cha, thân là phận con, có thể giả vờ như không biết được ư?”

Đinh Ngọc Lạc nhìn Tông Giới Châu với ánh mắt tán thưởng, nói: “Thiên tuế, thái phó nói rất có đạo lý, thiên tuế muốn báo thù cha, trừ quốc tặc, cũng phải bàn tính một phen, suy nghĩ kỹ càng mới được, đại sự như vậy, làm sao mà tùy tiện được.”

Tông Giới Châu nói: “Cô nương là phụng lệnh của Dương thái úy mà tới ư? Không biết Dương thái úy có chủ trương gì?”

Đinh Ngọc Lạc nói: “Phản ứng của thiên tuế cũng nằm trong ý liệu của thái úy. Thái úy đại nhân khi sai ta tới đưa thư, từng dặn đi dặn lại, Tấn vương vừa đăng cơ, đế vị chư ổn định, nếu chư quân bắc phạt chịu đi theo thiên tuế, thiên tuế lấy thân phận hoàng trưởng tử, đem việc ác của Tấn vương tuyên cáo với thiên hạ, vị tất đã không có sức tranh đua.

Lúc đó, chỉ cần công bố ý chỉ của nương nương, các lộ binh mã, quan viên mười phần có chín phần là án binh bất động, không cần vương (giúp vua), cũng không tương trợ hoàng trưởng tử, mà cứ đợi xem tình hình, đó cũng là chuyện thường tình, không thể cưỡng cầu được. Binh lính mà thiên tuế có thể dùng chính là đại quân bắc phạt tinh nhuệ, còn binh mà Tấn vương có thể dùng là cấm quân lưu thủ Biện Lương, thái úy còn có thể nhờ Tây Bắc chư phiên trợ lực cho thiên tuế.”

Đinh Ngọc Lạc còn chưa nói xong, Triệu Đức Vương đã hoan hỉ nói: “Thái úy đúng là trung lương của nước nhà, như vậy, đại sự có thể thành công rồi.”

Tông Giới Châu trợn mắt nhìn ái đồ một cái, chán nản lắc lắc đầu, quay sang Đinh Ngọc Lạc, nói: “Cô nương, ý của thái úy là quan trọng là thiên tuế có thể điều động được chư quân bắc phạt hay không.”

“Không sai!”

Đinh Ngọc Lạc nói: “Thiêu tuế lần đầu lĩnh binh, dưới loại tình hình này, có thể chỉ huy được ba quân hay không thì khó mà liệu trước được. Thái úy nói, nếu thiên tuế tùy tiện nói chân tướng cho chư tướng biết, mà chư tướng không chịu mạo hiểm đi theo, thì sự cơ đã bại, thiên tuế sẽ không còn sinh lộ chứ đừng nói gì đến tạm thời ẩn nhẫn, chờ đợi thời cơ.”

Tông Giới Châu nói: “Tất nhiên là vậy, nhưng… thiên tuế nếu không nói rõ chân tướng, làm thế nào mà thử được tâm ý của chư tướng?”

Đinh Ngọc Lạc cười nhạt một cái, nói: “Đây chính là vấn đề mà thiên tuế phải giải quyết, dân nữ… chỉ ở đây đợi hồi âm thôi!”

Chương 405:Lương cầm.

Trời tháng năm, cũng không tính là quá nóng, đặc biệt là đóng quân dưới chân núi.

Nhưng khi Ngô vương Triệu Đức Chiêu đột nhiên xuất hiện ở trong đại trướng của Đảng Tiến, vẫn thấy vị Đảng thái úy này mặc áo ngắn, để mình trần, bộ ngực săn chắc lộ ra lông ngực đen bóng, giống như là một con cọp gặp nguy, đang đi loanh quanh trong trướng.

Vừa thấy Triệu Đức Chiêu, Đảng Tiến không khỏi ngây người, vội vàng bước lên trước, chắp tay thi lễ, nói: “Đảng Tiến bái kiến thiên tuế, thiên tuế muốn tới sao không sai người nói một tiếng, lão Đảng ăn mặc như vậy, khó tránh khỏi thất lễ.”

Triệu Đức Chiêu vội vàng nói: “Tướng quân trung dũng kiêu mãnh, tính tình thô hào, trước giờ vốn đã như vậy, cô sao lại chê bai được.”

Đảng Tiến liên tục vâng dạ, mời Triệu Đức Chiêu thượng tọa, lại gân cổ lên, gọi lão binh đang nằm trong góc trướng ngủ gật dậy, bảo hắn đi đun trà cho Triệu Đức Chiêu, lúc này mới hỏi: “Thiên tuế ngày mai phải về kinh rồi. Lúc đó, lão Đảng sẽ tự phải dãn chúng tướng đi tiễn thiên tuế, lão Đảng đang nghĩ, một lát nữa sẽ tới gặp thiên tuế trước, trong doanh có an bài gì thì xin thiên tuế dặn dò, không ngờ thiên tuế lại hạ cố tới đây, xin hỏi thiên tuế, ngài cần dặn dò chúng tướng điều gì?”

Triệu Đức Chiêu than khẽ một tiếng, buồn bã nói: “Lần này chinh phạt Hán quốc, phụ hoàng muốn nhất định phải giành cho được, cô và tướng quân màn trời chiếu đất, đi gấp mà đến, vốn cho rằng Hán quốc chỉ nhấc tay một cái là có, không ngờ… phụ hoàng đột nhiên lại băng hà, cưỡi rồng lên trời…”

Đảng Tiến nghe vậy, trong đôi mắt hổ cũng không khỏi lấp lánh lệ quang, khuyên nhủ: “Lão Đảng cũng không ngờ, quan gia thân thể long tinh hổ mãnh, ngồi trên ngai vàng ba mươi năm nữa cũng không có gì là lạ, không ngờ… trời có gió mây bất ngờ, thiên tuế xin cố nén bi ai.”

Triệu Đức Chiêu rơi lệ, buồn bã nói: “Phụ hoàng lúc còn sống, tận sức nhất thống Trung Nguyên, tương lai thu hồi U Yến, nhất thống gi­ang sơn Hán thất, để thiên hạ trở thành thế giới yên bình. U Yến hiện tại nằm trong tay người Khiết Đan, nếu không chuẩn bị đầy đủ, khó mà giành lại được. Nhưng Hán quốc nho nhỏ, búng tay một cái là diệt được, thực sự không đáng để suy nghĩ. Hiện giờ Khiết Đan nội ưu ngoại hoạn, không có sức để giúp đỡ, đây là thời cơ tốt mà trời ban cho, một khi để lỡ, không biết còn có biến hóa gì.”

Hắn ngẩng đầu lên, nhìn Đảng Tiến với ánh mắt tha thiết, xúc động nói: “Cô nghĩ đi nghĩ lại, có lòng hoàn thành di chí của phụ hoàng, tiếp tục xuất binh, bình định Hán quốc rồi mới về kinh chịu tang, mang thắng lợi này để thắp nhang báo cho phụ hoàng ở trên trời, để an ủi vong phụ, không biết tướng quân thây ssao?”

Đảng Tiến biến sắc, trầm ngâm nói: “Sợ là làm trái ý của quan gia.”

Triệu Đức Chiêu nói: “Thời cơ chỉ chợt hiện lên rồi vụt tắt.”

Đảng Tiến do đự nói: “Cái này…”

Triệu Đức Chiêu vội vàng nói: “Đây chính là di chí của phụ hoàng, cũng là Tống quốc chinh chiến thiên hạ, một đại công cuối cùng để diệt quốc mở đất, cơ hội hiếm có đó. Cô tuổi trẻ nông cạn, muốn hoàn thành di chí của tiên đế, lại sợ trái với thánh ý, rốt cuộc nên làm thế nào, trong lòng không thể quyết định được, cho nên mới tìm tới lão tướng quân, xin Đảng thúc thúc ra một chủ ý cho chất nhi.”

Đảng Tiến vội vàng rời khỏi chỗ tạ ơn nói: “Thiên tuế khách khí rồi, lão Đảng thực sự không đáng để thiên tuế xưng hô như vậy. Chuyện này quá trọng đại, một mình Đảng Tiến không thể quyết định được, thiên tuế hãy để cho lão Đảng suy nghĩ thật kỹ, thương nghị với các vị thương quân đã.”

“Tốt, vậy… vậy cô đợi quyết định của các vị tướng quân.”

Triệu Đức Chiêu đứng dậy chắp tay, lại nói: “Lúc tiên hoàng còn sống, thường nói tướng quân lòng son dạ sắt, thẳng thắn bộc trực, là người đáng để tin tưởng nhất. Hiện giờ cơ hội hiếm có, chính là cái gọi là tướng ở bên ngoài, quân mệnh có thể không tuân. Huống chi, chúng ta hiện giờ gần Hán quốc như vậy, cách Biện Lương lại xa, Hán quốc không kham nổi một kích, đại công chỉ xòe tay ra là có. Một khi lấy được Hán quốc rồi, cho dù là lấy công đỡ tội, quan gia cũng sẽ không trách đâu, xin tướng quân hãy nghĩ cho kỹ. Cô xin đợi hồi âm của tướng quân.”

Kế này là thái phó Tông Giới Châu nghĩ ra, nguyên nhân cái chết của tiên đế, trước khi chưa xác định được tâm ý của chư tướng, không thể dễ dàng nói ra, nếu không trước tiên đã cắt đứt hết đường lui của mình rồi, một khi chư tướng không chịu nghe theo, vậy thì trừ tự tận ra sẽ không còn con đường thứ hai.

Hiện giờ lấy di mệnh của tiên hoàng ra để bức bách, lấy công diệt nước mở đất ra để dụ dỗ, lấy tướng ở bên ngoài quân mệnh không cần phải tuân ra để khuyên nhủ, nếu chúng tướng có ý kháng chỉ tiến quân, vậy thì tiếp theo tất nhiên có thể tiếp tục kháng chỉ. Cho dù bọn họ chịu tiến binh mà không chịu tạo phản, chỉ cần bọn họ chống lại nghiêm chỉ của tiên đế, dẫn bọn họ rời khỏi nơi đóng quân, cũng có thể tuyên cáo là chư tướng đã phản với bên ngoài, nói thẳng chân tướng tiên đế bị giết với bên trong, dùng đại nghĩa là sự thực đã thành để bức ép bọn họ, bọn họ không thể không phản.

Mà hiện giờ Triệu Đức Chiêu ngôn từ thắm thiết, đẩy vấn đề vào trong tay Đảng Tiến, hắn cũng biết chư quân bắc phạt mỗi người có thuộc cấp riêng, Đảng Tiến tuy quyền uy cao nhất, bảo hắn tùy tiện quyết đoán, hắn cũng tất nhiên có cố kỵ, cùng với mấy chủ tướng thương một phen là phản ứng tất nhiên của hắn, cho nên chỉ có thể quay về chờ đợi, không dám lộ ra bộ dạng nôn nóng.

Sau khi Triệu Đức Chiêu đi, Đảng Tiến quay người lại sau cùng vỗ đùi quát: “Người đâu, gọi Phan Mỹ tới gặp ta.”

Một lát sau, Phan Mỹ một thân nhung trang, nghiêm chỉnh bước vào trong soái trướng của Đảng Tiến, ôm quyền nói: “Phan Mỹ bái kiến Đảng soái, Đảng soái…”

Hắn ngẩng đầu lên, lại thấy Đảng Tiến để chân trần, mặc áo ngắn ngang vai, khoanh chân ngồi trên giường, giống như là một lão nông, phất tay với hắn: “Được rồi, được rồi, không phải là thăng trướng điểm tướng, ngươi mặc khôi giáp làm cái gì, ngồi xuống, ngồi xuống.”

Phan Mỹ mỉm cười, bước ngồi cạnh Đảng Tiến, hỏi: “Thái úy triệu ta tới đây làm gì?”

Đảng Tiến thở dài, nói: “Hỏi ý kiến, lão Đảng trong lòng có một đại sự không quyết định được, cho nên muốn thương lượng với ngươi một phen, tiểu tử ngươi nhiều mưu kế, nghĩ chu toàn, chuyện này, hai chúng ta cùng nhau hoạch kế.”

Đảng Tiến thuật lại những lời của Triệu Đức Chiêu cho hắn, Phan Mỹ nghe thấy liền trầm giọng nói: “Nếu theo lời của Ngô vương, dù thắng thì hậu hoạn cũng vô cùng.”

Đảng Tiến gật đầu nói: “Cái này… lão Đảng biết.”

Phan Mỹ có chút kinh ngạc nhìn Đảng Tiến, Đảng Tiến cụp mắt xuống, không nhìn thẳng vào hắn, chỉ chậm rãi nói: “Thiên tuế tuy là hoàng tử giám quân, nhưng lại không biết binh, hơn nữa tính tình khiêm tốn, hôm nay đột nhiên có chí nguyện to lớn như vậy, muốn kháng chỉ phạt Hán…”

Hắn nói tới đây thì ngừng lại, rồi lại thở dài: “Từ ngày rời kinh, tiên đế tự mình tiễn chúng ta qua cửa Vạn Thắng, uống cạn ba chén rượu tiễn đưa, tiên đế một thân võ nghệ, long thể cường tráng, so với lão Đảng ta thì thân thể còn cường tráng hơn ba phần, không ngờ lại gặp bạo bệnh, thế sự thần sự khó lường, Ngô vương thương xót, muốn lập công lao bất thể để an ủi vong linh của tiên đế, tâm tư này cũng xuất phát từ lòng hiếu thảo…”

Hắn vừa nói vừa lén lút nhìn Phan Mỹ, tuy chức quan của hắn cao hơn Phan Mỹ, hơn nữa rất được Triệu Khuông Dận sủng ái, nhưng trong quân so với văn quan càng chú trọng phái hệ xuất thân hơn, thật thà mà luận, Phan Mỹ mới là đích hệ, còn hắn chỉ là hạng tạp nham.

Hắn vốn là thị tòng của quân quốc trọng thần Đỗ Trọng Uy triều Tấn, sau khi Đỗ Trọng Uy bị giết thì lưu lạc vùng Trung Nguyên, đầu nhập quân ngũ, rất nhanh dựa vào chiến công mà được thăng làm tán chỉ huy sứ của triều Chu, vệ sau lại tích công tới thiết kỵ đô ngu hầu, sau khi Triệu Khuông Dận được thiên hạ, hắn lại thăng quan tới bản quân đô giáo, lĩnh khâm châu thứ sử, dần dần làm quan tới trung tâm.

Mà Phan Mỹ và Triệu Khuông Dận, trước khi Triệu Khuông Dận chưa xưng đế có gi­ao tình thâm hậu, hơn nữa việc ủng hộ lập Triệu Khuông Dận, hắn cũng là một trong những người tham dự, là khai quốc công thần của Đại Tống, có công theo rồng, mấy năm nay chiến công hiển hách, thanh danh càng nhất thời vang dội, luận thân sơ giảng phái hệ, lão Đảng hắn thủy chung vẫn kém một bậc, đại sự như vậy, tất nhiên là xem tâm ý của Phan Mỹ.

Phan Mỹ sắc mặt hơi biến đổi, khi ngẩng đầu lên nhìn Đảng Tiến thì thấy Đảng Tiến vẻ mặt tự nhiên, giống như là đang cảm động thật vậy.

Phan Mỹ cúi đầu xuống, trên mặt âm tình bất định. Ngày, hắn là bộ tướng của Thế Tông Sài Vinh, lúc Sài Vinh còn, thề chết bảo vệ, khi Sài Vinh chết lại hiệu trung với Triệu Khuông Dận soán vị tự lập. Vì sao? Dẫu không bởi vì sinh linh thiên hạ, chỉ vì nghĩ cho mình, thì người mà hắn phải bảo vệ cũng nên là một vị minh chủ. Đúng như cái gọi là chim khôn chọn cành mà đậu, chẳng lẽ lại khởi binh giết Triệu Khuông Dận, đưa một đứa nhỏ bảy tuổi không hiểu thế sự lên làm vua?

Triệu Khuông Dận nếu còn, dù phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng vì ông ta, Phan Mỹ cũng tuyệt không nhíu mày, song bất kể là nguyên nhân như thế nào, Triệu quan gia dẫu sao cũng đã đi rồi, giữa Triệu Quang Nghĩa và Triệu Đức Chiêu, nên chọn ai đây? Triệu Quang Nghĩa cho dù bất kham nhưng Triệu Đức Chiêu văn thành võ đức, ở phương diện nào có thể phục chúng đây? Huống chi Triệu Đức Chiêu không phải là Triệu Khuông Dận, quân tâm hiện tại, so với đại quân ở Trần kiều ngày trước thì thế nào?

Suy nghĩ một hồi lâu, Phan Mỹ cuối cùng cũng thở dài nói: “Tiên đế đã đi rồi, chỉ lưu lại một tòa gi­ang sơn khổng lồ để hậu nhân lo liệu. Ngày trước Trần kiều binh biến, khoác áo bào lên người, kể ra… kim thượng…, ài, nháy mắt đã qua hơn chục năm trời rồi, ngày trước còn là thiếu niên khí phách hào hùng, giờ cũng đã đầu hai thứ tóc.”

Hắn nói một cách hàm hồ, giống như là đang nhớ lại chuyện xưa, thở khẽ một tiếng, đột nhiên nói với Đảng Tiến: “Thiên hạ… vừa mới thái bình, nhân tâm mới yên. Tiên đế hùng tài đại lược, không ai sánh bằng, thái uy cho rằng kim thượng thế nào?”

Đảng Tiến trầm ngâm một lúc, nói: “Kim thượng trị quốc cầm quyền, trừ tiên đế ra, e rằng không còn ai sánh bằng…”

Phan Mỹ nói: “Đã là như vậy, cớ gì phải lo lắng Hán quốc ở trong tay kim thượng không thể diệt được? Trong lúc quốc tang, kim thượng đã hạ nghiêm chỉ, các quân đóng trại tại chỗ, không được điều động một binh một tốt, ai trái lệnh luận tội mưu phản. Huống chi, lương thảo đã bị cắt rồi, chỉ do địa phương cung ứng mỗi ngày, lương thảo bị cắt, Hán quốc tuy yếu, nhưng dẫu sao cũng là một quốc gia, làm sao mà tùy tiện xuất binh được?”

Hắn hơi ngừng lại, hai mắt híp lại, nói: “Còn nữa, Hổ tiệp hữu sương đô chỉ huy sứ Dương Quang nghĩa là trung quân đô ngu hậu, hắn và kim thượng gi­ao tình thâm hậu, thái úy nếu kháng chỉ, Dương tướng quân há lại không có dị nghị?Lại có Hà Đông hãn, đại đẳng châu hành doanh mã bộ quân đô giám Quách Tiến, vốn là chư hầu một phương, không có gi­ao tình với thái úy, thái uy cho dù vì hoàn thành di chí của tiên đế mà kháng chỉ, bộ quân của Quách Tiến khẳng định sẽ không chịu theo.

Lộ quân của Diêm Ngạn Tiến cũng còn có thể, lộ quân của Hô Duyên Tán… có lẽ không có trở ngại, hai lộ quân của Tôn Yên Tuyên và Tề Duyên Sâm cũng chỉ là đứng giữa có thể và không thể, đây vẫn chỉ là chư tướng trong quân, cho dù là bản bộ binh mã của thái úy, một khi biết rằng lần này bắc phạt là kháng chỉ mà làm, không những không có công mà hơn nữa còn có tội, tất nhiên quân tâm oán thán, chưa biết Hán quốc có dễ diệt hay không, tới lúc đó khí thế hùng hổ mà đi, một khi thất bại, nói không chừng sẽ phản lại chúng ta đó.”

Phan Mỹ lạnh lùng phân tích một cách khách quan, Đảng Tiến càng nghe càng lạnh người, cuối cùng thở dài một hơi, nói: “Nhưng… nên ăn nói thế nào với Ngô vương đây?”

Ngô vương dẫu sao cũng là trưởng tử của tiên đế, chuyện của hoàng gia khó ai mà dự liệu được, chỉ có trời mới biết hắn có ngày ngẩng mặt lên hay không, vô cớ đắc tội với một hoàng tử, chung quy cũng không phải là một chuyện hay.

Phan Mỹ trầm mặc một lát, chậm rãi nói: “Vậy mời Ngô vương thương nghị với các tướng… có gì cũng không trách chúng ta được.”

Đảng Tiến gật đầu.



Dương Hạo đã yên ổn tới huyện Giáng.

Lại là lúc chạng vạng, Vương Bảo Tài và Công Tôn Khánh ngồi ở trong nhà, ngồi đối diện với nhau, một hồi lâu không nói gì, thậm chí còn có chút muốn khóc.

Dương Hạo vào sáng sớm ngày hôm sau ở trấn Tạo Hóa khởi hành mới đột nhiên chỉ định lộ tuyến, hắn là sứ tướng đương triều, muốn đi đường nào thì Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài tất nhiên là không dám xen vào, thế là chỉ đành tuân lệnh. Buổi trưa tới một trấn nhỏ, Dương Hạo thấy mọi người đi đường mệt mỏi, liền ra lệnh lấy mỹ tửu mà vị Vu viên ngoại tặng ra, mời mọi người thưởng thức.

May mà quản gia vô cùng cảnh giác, ra lệnh cho người trước tiên thử rượu trước, Trúc Vận cô nương cầm một cây ngân trâm cắm vào, lập tức biến thành màu đen, dọa cho mọi người thầm kêu may mắn. Dương Hạo vừa kinh hãi lại vừa phẫn nộ sai người cẩn thân mở cây dù đó ra, bên trong không ngờ lại bắn ra độc châm, thế là Dương Hạo nhìn thảo mộc cũng ngỡ là binh, trên đường đi, xe thường đổi liên tục, mỗi lần ngồi đều để người nhà thân tín lên kiểm tra kỹ càng trước, thực vật chỉ dùng đồ mà đầu bếp của mình làm ra, tuyệt không qua tay người thứ ba.

Đối với việc này, ban đầu Công Tôn Khánh còn mang theo ý châm chọc nói với Vương Bảo Tài rằng hắn mới được thăng chức, cũng biết tiếc mạng, nhưng rất nhanh hắn liền không cười được nữa. Cũng không hiểu Dương Hạo ở đâu ra mà đắc tội với nhiều người như vậy, trên đường đi không thể trách hắn quá cẩn thận được, đầu độc, hành thích, bố trí mai phục, liên tục không ngớt. Dương Hạo còn chưa chết nhưng thủ hạ của Vương Bảo Tài thì lại chết rất nhiều.

Ngươi đã bao giờ thấy người mang lòng ám sát người khác lại cả ngày bị người ta giết, mà người mà bọn họ chuẩn bị hành thích lại vẫn sống sờ sờ giữa bọn họ, nhận được sự bảo hộ của bọn họ chưa?

“Không thể… cứ thế này mãi được!”

Công Tôn đại nhân đau lòng nói.

Vương Bảo Tài lập tức gật đầu, lập tức mặt ủ mày chau nói: “Nhưng… hắn hiện tại cảnh giác như vậy, làm sao mà hạ thủ?”

Công Tôn Khánh trừng mắt lườm hắn một cái, tức giận nói: “Ngươi không phải nói rằng bộ hạ của người đều là những thích khách xuất sắc nhất hay sao, có thể khiến hắn chết trong lúc đang ngủ cơ mà? Vì sao hắn hiện tại vẫn sống khỏe mạnh?”

Vương Bảo Tài ủy khuất nói: “Đại nhân, ta là một võ sĩ, không phải là nhẫn giả, nhưng ta biết, tuy bọn họ được coi là cực kỳ thần kỳ, nhưng kỳ thực không phải là vạn năng. Dương Hạo này mỗi ngày hành tung bất định, dừng lại ở một địa phương tuyệt không quá một đêm, người bên cạnh hắn lại…”

“Được rồi, được rồi…”

Công Tôn Khánh bực bội nói: “Ta là một văn nhân tay trói gà không chặt, loại chuyện hành thích này, ngươi phải phụ trách hoàn toàn, nếu vẫn không hoàn thành được sứ mệnh, phải gánh hậu quả gì thì ngươi tự biết rồi, hiện tại ngươi nói xem nên làm thế nào?”

Vương Bảo Tài nghiến răng nghiến lợi nói: “Nhẫn giả, thiện trường các loại các dạng ám sát. Không chỉ là ám sát, còn có minh sát. Hiện tại Dương Hạo vô cùng cảnh giác, hắn ngồi trong xe ngựa nghi trượng thì không phóng ám khí vào được, thích khách sát thủ lại không tiếp cận được hắn. Vậy… biện pháp tốt nhất…. chỉ còn lại một thôi.”

Công Tôn Khánh rướn người lên trước, vội vàng hỏi: “Biện pháp gì!”

Vương Bảo Tài gằn từng chữ, nói: “Mỹ… nhân… kế!”

Chương 406: Mỹ nhân kế.

Công Tôn Khánh kinh ngạc nói: “Mỹ nhân kế?”

Vương Bảo Tài cười âm hiểm: “Không sai, mạt tướng lúc trước khi còn ở Nhật Bản, vị chủ công do mạt tướng bảo vệ cùng với mấy đại danh ở xung quanh thường chiến tranh không ngừng, lúc đó dưới trướng chủ công có hơn bốn mươi võ sĩ, cũng tính là chư hầu khá cường đại, nhưng…

Công Tôn Khánh cơ không hồ tin vào tai mình, thất thanh nói: “Ngươi nói bao nhiêu võ sĩ?”

“Hơn bốn mươi.”

Công Tôn Khánh nghĩ ngợi một lát bỗng dưng nói: “Ặc, hơn bốn mươi tướng lĩnh ư? Quả thật cũng tính là hùng bá một phương rồi.”

Vương Bảo Tài lắc đầu, nói: “Không phải, là hơn bốn mươi võ sĩ, ặc… cũng chính là chiến sĩ.”

Công Tôn Khánh sờ sờ mũi, không nói gì nữa.

Vương Bảo Tài cười khan, nói: “Chỗ chúng ta, hiện giờ không thể so với trung thổ được… khu vực đó, đại danh cường đại nhất cũng chỉ có hơn sáu mươi bộ hạ.

Công Tôn Khánh trợn mắt lên, thầm nghĩ: “: “Đại danh cái rắm, ở chỗ chúng ta, thế được coi là thổ phí, mà còn là hạng yếu trong thổ phi.”

Hắn không biết lúc đó ở Nhật Bản, một dại danh dưới trướng có mấy chục võ sĩ, quả thật đã đạt tới cực hạn mà tài lực của hắn có thể nuôi dưỡng được rồi, cho dù là sáu năm mươi năm, ở đó có chiến tranh quy mô lớn, vũ lực mà hai đại danh điều động cũng chẳng qua là trên dưới một ngàn. Song hắn chỉ là một thư sinh, cho nên mới từ con số mà đưa ra suy đoán đơn giản, không biết được hơn sáu trăm năm sau, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi binh, cũng chẳng qua là binh không tới một trăm, giáp gần ba mươi bộ, nhưng sau cùng vẫn lập được công lao hiển hách.

Vương Bảo Tài nói: “Chủ công nhà ta muốn khoách trương vũ lực, nhưng tài lực lại có hạn, lúc đó, ở gần nhà có một tự miếu cực lớn, hương hỏa nghi ngút, vô cùng giàu có. Chủ công nhà ta liền có chú ý với tòa miếu đó, nhưng tên chủ trì đó giấu tài bào vô cùng kín đáo, hòa thượng ở chỗ chúng ta lại được người ta rất tôn trọng, gia chủ nhà ta không tiện cường hành bắt chẹt, thế là liền nghĩ ra một kế, phái một nhẫn giả, nhẫn giả này tuổi trẻ đẹp trai, hát hay múa giỏi, hắn giả vờ là một thị đồng xin vào chùa, rất nhanh liền thành nam sủng mà các tăng lữ ở thượng vị yêu thích, nhao nhao muốn hắn thị tẩm, thế là hắn lợi dụng cơ hội chính phó chủ trì tranh giành tính nhân với nhau, tìm được nơi giấu tài phú, kết quả thần không biết quỷ không hay… hắc hắc hắc….”

Công Tôn Khánh vừa nghe xong, lập tức thấy ghê tởm, hắn phẫn nộ quát: “Đúng là ngu hết thuốc chữa, ngươi nhìn Dương Hạo, giống như là một kẻ thích nam nhân à?”

Vương Bảo Tài ngượng ngùng nói: “Mạt tướng chỉ là muốn nói, dùng vũ lực rất khó mà hoàn thành được chuyện này, có lúc dùng sắc lại dễ dàng đạt được mục đích hơn.”

Công Tôn Khánh nói: “Nhưng… trong lúc vội vã, đi đâu mà tìm một nữ thích khách đây, lại còn phải trẻ tuổi xinh đẹp nữa?”

Mắt hắn đảo lia lịa, lại nói: “Thị tỳ Trúc Vận ở bên cạnh Dương Hạo đó, chính là một nữ tử xinh đẹp bất tục, nếu muốn đả động được hắn, nữ thích khách này ít nhất thì cũng phải xinh đẹp hơn Trúc Vận mấy phần thì mới được.”

Vương Bảo Tài nói: “Ở cố quốc của ta, dạng nhẫn giả này có rất nhiều, nhưng trong lúc cấp bách, mạt tướng cũng không thể tìm được một nhân tuyển thích hợp, có điều… chúng ta có thể biến báo một chút, hắc hắc hắc….”

Công Tôn Khánh trầm ngâm nói: “Cũng được, có thể giải quyết hắn mà không khiến người ta hoài nghi, đó là tốt nhất, còn phương pháp ám sát cụ thể thì do ngươi phụ trách, ngươi cứ mặc sức mà làm. Có điều, ta nhắc nhở ngươi trước, Dương Hạo rất nhanh sẽ rời khỏi địa phương mà chúng ta có thể khống chế rồi, một khi tiến vào phạm vi thế lực của tây bắc, vậy thì càng khó hạ thủ. Nếu lần này hành thích không thành…

Lông mày của hắn nheo lại, sát khí đằng đằng nói: “Vậy thì xuất thủ trên đường, giải quyết toàn bộ chúng đi, chỉ có điều như vậy, cũng phải dùng thuốc mà đầu độc hết những bộ hạ của ngươi, tuyệt không thể lưu lại một người sống nào.”

Vương Bảo Tài lập tức nói: “Mạt tướng hiểu rồi.”



Trong phòng của Dương Hạo, Lý Khánh Phong và Dương Hạo ngồi đối diện nhau, Trúc Vận cô nương thì ngoan ngoãn ngồi ở gi­an ngoài, trong tay không ngờ lại đang thêu khăn hồng, nhìn bộ dạng nhàn nhã của nàng ta, thực sự khó khiến người ta tin được nàng ta là một nữ anh hùng giết người không chớp mắt. Nàng ta cúi đầu thêu hoa, đôi tai thì cảnh giác nghe ngóng động tĩnh bốn phía.

Danh tự ban đầu của nhẫn thuật vốn chính là thuật ẩn thân, bộ hạ của Vương Bảo Tài tuy không phải đều xuất thân từ nhẫn giả, nhưng bên trong không thiếu năng nhân dị sĩ giỏi tiềm phục ẩn tung, nàng ta tự nhiên là không dám lơ là.

“Thái úy, ngày mai chúng ta tới thành Gi­ang châu rồi, đi thêm nữa là vào phạm vi thế lực của Phủ châu, ta thấy bọn chúng đã quẫn bách, có ý trắng trợn ra tay rồi. Để phòng vạn nhất, chúng ta phải tiên hạ thủ vi cường.”

Dương Hạo cười ha ha: “Ngươi định hạ thủ ở Gi­ang châu ư?”

Lý Khánh Phong cười ha ha, nói: “Chuyện trọng đại như thích sát thái úy đương triều, tin rằng người nhận được mệnh lệnh sẽ không quá nhiều, từ tình hình của đoạn thời gi­an này cho thấy, chắc chỉ có Công Tôn Khánh và Vương Bảo Tài hai người này biết, nếu hai người này bị khống chế, những người khác không đáng để lo lắng.”

Dương Hạo gật đầu, nói: “Bọn họ là tuyên chỉ sứ, không thể giết được, ta dẫu sao cũng không thể tự mình quay về Lô châu rồi hướng tới tri phủ hiện nhiệm Trương Kế Tổ mà truyền đạt ý chỉ được?”

Lý Khánh Phong mỉm cười, nói: “Được, vậy thì giải quyết Vương Bảo Tài đi, khống chế Công Tôn Thắng, đợi khi chúng ta tiến vào tây bắc rồi, bọn chúng chẳng dở được trò gì nữa đâu.”

Dương Hạo ừ một tiếng, lại có chút không yên tâm, nói: “Đám người các ngươi đều đã để chúng thấy mặt, trước mắt bao người có tiện động thủ không?”

Lý Khánh Phong cười nói: “Thái úy yên tâm, chúng tôi ở trong bóng tối còn có nhân thủ.”

Dương Hạo nói: “Cái này ta biết, nếu không thì trên đường, người “hành thích” bản quan từ đâu mà có? Chỉ là… vừa vào Giáng châu, quan lại địa phương của Giáng châu tất sẽ tới nghênh đón, người của các ngươi có cơ hội tiếp cận bọn chúng không?”

Ký Khánh Phong vẫn cười cười: “Nếu là ở nơi khác, chưa chắc đã có cơ hội, nhưng nếu ở Giáng châu thì không có vấn đề.”

Dương Hạo nhìn vẻ mặt của hắn, đột nhiên nhớ tới Lý Thính Phong làm quan ở Đường quốc, thành Giáng châu này ở khu vực gi­ao giới giữa tây bắc và Trung Nguyên, là địa phương quan trọng để trao đổi tin tức, đoán rằng trong quan phủ đương địa ắt đã bị người của bọn họ trà trộn vào, cho nên cũng không hỏi nhiều, chỉ nói: “Như vậy rất tốt, tất cả nhờ Lý huynh an bài.”

Gi­ang châu bắc dựa vào núi Lữ Lương, nam kề dãy Nga Mi, lịch sử lâu đời, thời kỳ Xuân Thu từng là đô thành của nước Tấn. Thời chiến quốc thì thuộc nước Ngụy, đây là một tòa “Ngọc Ngưu thành” (thành trâu nằm), chỉ có hai cửa thành nam bắc, nam là miệng bắc là mông, đông tây thiên trì là mắt trâu, chòi canh làm sừng trâu, con đường duy nhất từ bắc tới nam là cột sống của trâu, mấy chục con ngõ nhỏ ở trái phải là xương sườn của trâu, bảo tháp xây từ thời Đường chính là đuôi trâu.

Dương thái úy vừa tới, tri phủ Tiêu Nguyệt Sinh của Giáng trâu liền dẫn quan viên ra khỏi thành nghênh đón từ xa, mời Dương Hạo vào châu phủ đãi khách. Phủ nha Giáng châu là một đại đường lớn nhất trong tất cả châu nha trên thiên hạ, tòa phủ nha này xây từ thời Đường, từng là soái phủ của danh tướng Đại Đường Trương Sĩ Quý, sâu năm gi­an, rộng bảy gi­an, vô cùng hùng tráng. Dương Hạo chào hỏi quan lại trên dưới của châu phủ, sau khi hàn huyên một phen, liền được Tiêu tri phủ tự mình dẫn vào Tùy viên (công viên). Tùy viên được xây vào sáu mươi năm Tùy Khai Hoàng, lại có tên là Liên Hoa trì, Cư Viên trì, phong cảnh tú lệ nhã trí, là viên lâm duy nhất của nơi này, bình thường chính là nơi mà quan liêu, sĩ đại phu cùng với vợ con tới dạo chơi.

Dương Hạo tới Tùy viên, chỉ thấy trúc mộc hoa liễu, đài đình suối đầm, giống như thời nguyên thủy, là một tòa viên lam sơn thủy tự nhiên. Trong rừng cây đan xen với nhau, nước từ phía tây bắc rót vào suối, hình thành thác nước, phun châu bắn ngọc. Trong viên có một cây cầu Tử Ngọ nối nam với bắc, trên cầu có một chỗ nghỉ chân tên là Hồi Liên đình, cao cao sừng sững, nhìn về xa xa mà như nhìn cảnh gần. Bên cạnh suối là cây cỏ, tường vi, thúy mạn, cùng nhau khoe sắc.

Phía nam của con suối là một tòa hương đình, dùng gỗ để chế thành hành lang gấp khúc. Hương đình dựng ở giữa tương thông với tẩm thất đã được an bài cho Dương Hạo. Phía tây nam con suối có “Hổ Báo môn” thông thẳng tới đại đường của châu nha. Trên bức tường bên trái của hổ báo môn có treo một bức tranh mãnh hổ và dã trư đánh nhau, trên bức tường bên trái là tranh hồ nhân ngọc báo, phong cảnh khá nhã trí.

Tiêu Nguyệt Sinh đưa Dương Hạo vào hương đình, mỉm cười nói: “Thái úy từ xa tới chắc mệt rồi, ngài cứ nghỉ ngơi một chút. Buổi trưa, hạ quan cùng đồng liêu bản phủ sẽ mở tiệc tẩy trần cho thái úy.”

“Phiền phủ đài rồi.”

Dương Hạo tiễn Tiêu tri phủ ra, quay lại nhìn quản gia Lý Khánh Phong ở bên cạnh một cái, Lý Khánh Phong hơi gật đầu. Dương Hạo cười nhạt một tiếng rồi bước về phía Hương đình.

Tiệc tẩy trần được bày trong hành lang có mái che của Tùy viên, Tiêu Nguyệt Sinh và Dương Hạo, Công Tôn Khánh, Vương Bảo tài ngồi ở ghế thủ tịch, trái phái xếp thành hình chữ nhất, là một số quan lại, thân sĩ danh lưu cao cấp của phủ Giáng châu. Bên cạnh mỗi một quan viên đều có một quan kỹ mặt mày xinh đẹp, mồm miệng lanh lẹ bồi tiếp, phía trước còn có một đội nhã nhạc.

Trong viện không cầm người đi lại, có điều có rất nhiều công sai tuần tra ở xung quanh, rất nhiều người đi tới đây liền tự giác quay lại, không dám làm phiền.

Khách chủ mời rượu nhau, lúc tửu hứng đang bốc cao thì phía trước đột nhiên truyền tới một tiếng quát, Dương Hạo ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy một thiếu nữ nằm ở đó, hai tay đang hoảng hốt lần mò xung quanh, sờ được một cái ống tiêu và một cây gậy trúc mới bò lên được.

Ở hành lang ẩm yến đối diện, mấy người dạo chơi bộ dạng như sĩ tử đang nhìn chằm chằm động tác của Dương Hạo, lúc này cũng quay hết về phía kia. Ở trước mặt thiếu nữ đó là một tên nha sai, hung ác quát: “Đi chỗ khác, nơi đây mà ngươi cũng dám xông bừa vào à.”

Thiếu nữ đó hoảng hốt nói: “Nô gia chỉ ở trong công viên này thổi sáo, ca hát, nhờ các vị đại gia thưởng cho mấy văn tiền mà sống qua ngày, vị đại gia này vì sao lại đuổi ta đi?”

Dương Hạo nhìn ra xa, thấy thiếu nữ này quần áo thô lậu, dung mạo thanh tú, hai mắt không có trọng tâm, không ngờ là một thiếu nữ mù. Nữ tử dung mạo thanh tú, thân thế đáng thương vốn rất dễ giành được lòng đồng tình, che chở của nam nhân, mà nữ tử mù này, bộ dạng yếu ớt đáng thương cực kỳ động lòng người. Dung mạo của nàng ta không phải là tuyệt sắc, nhưng bộ dạng đáng thương mà nàng ta biểu hiện ra lại là thứ có thể đả động lòng người nhất, tên nha sai giống như hung thần ác sát đó thấy vẻ mặt này của nàng ta cũng không nỡ lấy tay đẩy nữa.

Thấy bộ dạng đáng thương như một con chim én bị kinh hãi của nàng ta, Tiêu tri phủ không khỏi nổi lòng thương hương tiếc ngọc, vội vàng cao giọng nói: “Chẳng qua là một nữ tử mù đáng thương mà thôi, hà tất phải dọa nàng ta, dùng lời lẽ nhẹ nhàng mời nàng ta đi đi, chớ có quấy rầy nhã hứng của thái úy..”

Thiếu nữ đó nghiêng tai lắng nghe, đã biết được nguyên nhân, vội vàng cúi người hành lễ với phía vừa phát ra tiếng nói, sợ hãi thưa: “Dân nữ không biết chư vị lão gia đang ẩm yến ở đây, đã mạo phạm chư vị lão gia, dân nữ xin tránh đi.”

Cây gậy trúc trong tay của nàng ta hoảng loạn gõ xuống đất, bởi vì vội vàng bỏ đi, suýt nữa thì lại trượt chân ngã.

Dương Hạo thấy nữ tử này đáng thương như vậy, không khỏi cảm thấy động lòng trắc ẩn, liền nói: “Ngẫu nhiên nghe thấy một khúc nhạc thôn quê, nghĩ chắc cũng có phong vị khác lạ. Cớ sao không mời vị cô nương này vào, thổi một khúc cho bản quan và chư vị đại nhân nghe để trợ tửu hứng.”

Tiêu tri phủ nghe thấy thái úy đã lên tiếng, vội vàng đáp ứng ngay, sai người đỡ nữ tử mù đó vào.

“Đa tạ chư vị đại nhân, không biết chư vị đại nhân muốn nghe khúc gì.” Nữ tử mù đó tiến vào hành lang liền cúi người xin lỗi, giọng nói trong trẻo, nghe rất lọt tai, khiến người ta có thêm hào cảm với nàng ta.

Dương Hạo giơ chén lên, cười nói: “Không biết cô nương biết thổi những khúc gì?”

Nữ tử mù rụt rè nói: “Nô gia biết ‘mai hoa dẫn’, ‘tiểu đơn vu’, ‘đại đơn vu’, ‘đại mai hoa’, ‘tiểu mai hoa’, ‘hư đạc’!”

Mắt Dương Hạo sáng lên, đột nhiên hỏi: “Ngươi nói…’hư đạc’?”

“Vâng, đại nhân đã từng nghe khúc này rồi ư?”

Đồng tử của Dương Hạo hơi co rút lại, nhìn chằm chằm vào nữ tử mù ở trước mặt, cười một cách rất cổ quái, nói: “Không sai, bản quan… đã từng nghe qua khúc này rồi. Vậy… mời cô nương tấu cho chúng ta một khúc ‘hư đạc’ đi.”

“Vâng!”

Nữ tử mù dạ một tiếng, dùng môi thôi sáo, một thanh âm nhu mỹ, thâm trầm hàm súc, kỳ ảo phiêu dật từ từ vang lên. Dương Hạo nhẹ nhàng thở ra một hơi, nhắm mắt lại. Bọn Tiêu tri phủ thấy thái úy nghe đến nhập thần như vậy, cũng vội vàng thôi nói cười, nhao nhao giỏng tai lắng nghe.

Tiếng sáo vang lên bên tai, đồng thời trong đầu hắn nhớ lại giọng nói của Liễu Đóa Nhi: “Đây không phải là cây sáo, chuẩn xác mà nói, nên gọi là xích bát, xích bát vốn bắt nguồn từ sáo của người Khương, so với sáo và tiêu thì không có khác biệt quá lớn. Có điều ở Trung Nguyên lại hiếm khi nhìn thấy. Thiếp thân nghe hào thương hải ngoại nói, sau khi Nhật Bản sai sứ tới Trung Thổ học xích bát, mang về tuyên truyền ở Đông Doanh. Nghe nói một vị thái tử của bọn họ đam mê xích bát đến nỗi ngày nào cũng thổi, giữ khư khư bên người. Có điều khúc mục mà bọn họ lưu truyền phần lớn là truyền tới từ thời Đường, ví dụ như…”

Lập tức, hắn lại nhớ tới một đoạn hội thoại của phu nhân Phúc Điền Tiểu Bách Hợp của đại đương gia Biện Hà bang Trương Hưng Long.

“Trương phu nhân…”

“Nô gia không dám đâu, phu nhân là Trương thị, nếu để phu nhân nghe thấy đại nhân xưng hô như vậy rất sẽ trách phạt nô gia, nô gia chỉ là một thị thiếp của phu quân, đại nhân cứ gọi thẳng tên của nô gia là được rồi.”

“Ặc, Tiểu Bách Hợp phu nhân, nàng vừa rồi có phải là thôi khúc “hư linh” hay không?”

“Đại nhân từng nghe qua khúc này rồi à? Ừ, cũng đúng, khúc này vốn là từ Trung Nguyên truyền vào Đông Doanh của chúng ta mà, đại nhân tất nhiên là nghe qua rồi.

Có điều ở chỗ chúng ta, khúc này không gọ là “hư linh”, mà gọi là “hư đực”, nghe nói vốn là một đoạn nhạc của Phật gia, nô gia nhớ cố thổ, ngẫu nhiên thổi ra, không ngờ lại làm kinh động tới đại nhân…”

“…”

Khóe miệng Dương Hạo nở một nụ cười mỉa mai: “Không ngờ bản quan ở Biện Lương ngủ với hoa ở bên liễu, mặc sức thưởng thức múa hát và sắc đẹp, không chỉ từ tay Triệu quan gia nhặt lại một cái tính mạng, bằng vào đống tri thức loạn thất bát tao này, hôm nay lại may mắn cứu lại một tính mạng của mình. Hư linh, hắc, một âm là thành Phật ư? Thế nhưng, bản quan tuy là đi về hướng tây, nhưng hoàn toàn không có ý muốn làm Phật!”

Chương 407: Tiên hạ thủ vi cường

Tiếng sáo văng vẳng, tràn ngập vị đạo thê lương, có chút không phù hợp với tràng diện vui vẻ này, Tiêu tri phủ nhíu mày, cảm thấy có chút không thỏa đáng nhưng thấy Dương Hạo hai mắt khép hờ, vẻ mặt thản nhiên, tựa hồ như nghe rất nhập thần, cho nên cũng không tiện ngăn lại. Hắn vẫy tay gọi một gia phó tới, đang muốn phân phó chuẩn bị thưởng tiền thì tiến sáo đột nhiên cao vút lên, giống như là phá âm.

Tiêu tri phủ ngẩng đầu lên thì thấy Dương Hạo đang nâng chén rượu, phần cổ lộ ra ngoài, tay trái của hắn cầm một quả táo che trước cổ, bên trên lộ ra hai cái lỗ giống như đôi mắt.

Quả táo bộp một tiếng, một chiếc cương châm rơi xuống bàn, lúc này đôi mắt mờ đục của của nữ tử mù mỏng manh đáng thương đó khôi phục lại vẻ sáng trong, ả ta mặt đầy sát khí nhìn chằm chằm vào Dương Hạo, xích bát đã bị ả ném xuống đất.

Trong sáo chỉ giấu một mũi độc châm, một khi bắn ra rồi thì trở thành phế vật.

Chỉ thấy nữ tử mù đột nhiên biến thành một con nhện tám chân, hai tay liên tiếp vung vẩy, từ bên hông, cổ áo, tay áo phi ra rất nhiều ám khí, cơ hồ như là đồng thời, Dương Hạo đá bay cái bàn ở trước mặt, rầm một tiếng, cái bàn rơi xuống đất, bảy tám mũi ám khí toàn bộ cắm hết lên bàn.

Những ám khí này đều là phi tiêu có hình dáng giống như bông tuyết, ở Đông Doanh được gọi là thủ lý kiếm (kiếm trong tay), dưới ánh dương, những mũi phi tiêu đều lộ ra màu xanh sậm, rõ ràng là có bôi độc dược.

Trên người nhẫn giả không thể mang theo quá nhiều ám khí, bởi vì có thứ sắc bén, có thứ bôi kịch độc, giấu rất không tiện, hơn nữa mang nhiều vũ khí quá sẽ ảnh hưởng tới thể trọng, mà cái nhẫn giả yêu cầu chính là phải nhẹ như chim yến. Bảy tám mũi ám khí bắn ra mà không đạt được kết quả, nữ tử mù đó trên người cũng không còn ám khí, ả quát lớn một tiếng, không ngờ lại là thanh âm của nam nhân, chỉ thấy ả xoay tròn rút một cái, từ trong gậy trúc kéo ra một thanh kiếm dài nhỏ sắc bén rồi đâm về phía Dương Hạo, thì ra gậy của người mùlại là một thanh nhẫn trượng.

Lúc này bàn đã lật rồi, chư vị đại nhân há miệng trợn mắt ngồi đó, trên áo bào đầy là dầu mỡ, có người trong tay vẫn còn cầm đũa. Dương Hạo một tay cầm khay nhỏ, một tay cầm chén rượu, vẫn ung dung ngồi ở đó, mắt thấy thanh kiếm hẹp dài như lưỡi rắn đâm tới, ngon táy Dương Hạo buông lỏng, chén rượu trong tay rơi xuống, nát vụn.

Dương Hạo vừa ném chén, mấy thư sinh đang dạo chơi ở dưới hành lang lập tức bay lên, nhanh như sấm sét, xông về phía các quan viên mà chém giết, trong tay đều rút ra vũ khí sáng loáng, lúc này những đại nhân đó mới có phản ứng, ai ai cũng gào thét chạy tứ tán.

Khay nhỏ trong tay Dương Hạo bay về phía thích khách, đồng thời chân móc ra sau, móc cái ghế ở dưới mông ra trước mặt, mũi kiếm hẹp dài xuyên qua chân ghế, Dương Hạo xoay ghế, đánh rơi thanh trường kiếm đó. Năm ngón tay của thích khách hét khép lại rồi xòe ra, tóm về phía ngũ quan của Dương Hạo, vào lúc này ngón tay của hắn đã đeo năm cái câu nhọn giống như là ưng trảo, ác độc tóm về phía ngũ quan của Dương Hạo.

“Bắt thích khách, bắt thích khách!”

Vương Bảo Tài vừa giả vờ gào thét vừa giả vờ tìm vũ khí, cố ý kéo dài thời gi­an không chịu chạy lên trước tương trợ, nhưng hắn lập tức không giả trang được nữa, mấy người bộ dạng như thư sinh cầm vũ khí lao về phía trước, mục tiêu không ngờ lại là hắn.

Tên nhẫn giả đó dùng thủ giáp câu mà vẫn thất bại trong gang tấc, hắn một mặt rướn người tiếp tục tóm về phía mặt Dương Hạo, vừa lật tay từ dưới váy rút ra một thanh nhẫn đao buộc ở đùi. Lúc này, tỳ nữ áo danh mặt mày xinh đẹp đột nhiên lách tới trước mặt Dương Hạo, thanh kiếm dài ba thước trong tay ào ào vung ra, keng keng keng một chuỗi tiếng vang, gạt hết năm miếng thủ giáp câu trên bàn tay của thích khách, nếu không phải là hắn rụt tay lại kịp thời, năm ngón tay e rằng đã bị chặt đứt rồi.

Gi­ao thủ ba hiệp, tên nhẫn giả đó biết rằng nữ tử này võ nghệ không tồi, hôm nay khó mà đắc thủ, liền lập tức tung người bỏ chạy. Hắn hớt hải chạy vào trong viện, tay giơ lên, chỗ vỏ bao của nhẫn đao bay ra một sợi dây nhỏ, bắn trúng vào một cây đại thủ ở bên ngoài hành lang, tên nhẫn giả đó tung người bay lên, dưới lực kéo của sợi dây thừng đó nhảy ra ngoài tường viện. Trúc Vận đuổi tới phái tường, rút một cái cây lên, một tay đặt lên viện tường, nhảy ra tường cao hơn trượng, hối hả đuổi theo.

Khi các nha sai xách đao, xích sắt vây lên thì các thích khách đã chạy hết rồi. Dương thái úy thấy biến không kinh hãi giơ tay hô to: “Chư vị đại nhân, chư vị đại nhân, chớ có kinh hoàng, chớ có kinh hoàng, thích khách đã chạy hết rồi. Bản quan trên đường đi hiểm trở trùng trùng, gặp thích khách vô số, sớm đã quen rồi…”

Tiêu tri phủ mặt vàng như nghệ chạy lên trước, nói: “Thái úy, thái úy…”

Dương Hạo vẻ mặt ôn hòa nói với hắn: “Bản thái úy bình an vô sự, Tiêu tri phú không việc gì phải lo lắng.”

Tiêu tri phủ nói năng lộn xộn, bảo: “Không phải là thái úy, là tuyên chỉ sứ, Vương tuyên chỉ đã tuyệt khí thân vong, Công Tôn tuyên chỉ hôn mê bất tỉnh. Thế… thế này… trong phạm vi quản hạt của tại hạ lại xảy ra chuyện này, hạ quan biết ăn nói thế nào với triều đình đây.”

“Không ngờ lại có chuyện như vậy ư?”

Dương Hạo giật nảy mình, vội vàng chạy tới nhìn, chỉ thấy Vương Bảo Tài ngồi dưới một cái cột, hai mắt trợn tròn, dưới cổ hỏng là một mảng máu, đã chết rồi.

Vị Tá Tá Mộc Tắc Phu này là võ sĩ, binh khí quen dùng là đao, hôm nay ẩm yến, hắn tất nhiên không thể mang binh khí theo người, nhưng hắn ngàn vạn lần không ngờ rằng các thích khách trên đường như hình với bóng đuổi theo hành thích Dương Hạo lại dám theo cả vào thành Gi­ang châu, dưới mắt các quan viên mà dám công nhiên hành thích, càng đáng ghét là, hoàn toàn giống như trước đây, bọn chúng giết không được chính chủ mà luôn là người ở bên cạnh gặp tai ương. Vương Bảo Tài không có binh khí vừa tay hôm nay gặp phải thích khách có võ nghệ cao cường, dưới sự công kích liên thủ dũng cảm quên mình của hai tên thích khác, bị người ta một đao chém đứt cổ họng, táng mệnh tại đương trường.

Còn Công Tôn đại nhân không có sức hoàn thủ thì sau khi bị thích khách một quyền đánh bay, vì bận vây công Dương Hạo nên hắn mới nhặt lại được một cái mạng.

Dương Hạo bi phẫn ôm Vương ngu hậu chết không nhắm mắt này lên, hướng tới đám quan viên địa phương mặt cắt không còn giọt máu nào này mà khẳng khái nói: “Những thích khách này trong mắt không có vương pháp, thích sát mệnh quan triều đình, đúng là tội không thể tha, nhất định phải bắt bọn chúng hỏi tội, xử phạt theo mức cao nhất của pháp luật!”

Nói xong lại an ủi Tiêu tri phủ: “Những thích khách này súc mưu đã lâu, trên đường truy sát bản quan nhiều lần, không phải là vì địa phương Gi­ang châu không yên bình đâu, chuyện này không liên quan gì tới các vị đại nhân cả, bản thái úy sẽ thượng tấu lên triều đình, nói rõ chân tướng.”

“Vâng vâng vâng!”

Tiêu tri phủ cảm kích đến rơi nước mắt, nói: “Hạ quan lập tức điều động hương dũng binh đinh của châu phủ, truy bắt hung thủ, bảo hộ đại nhân, không thể dung thứ cho bọn thích khác tiếp tục theo chân đại nhân nữa.”

Dương Hạo cao giọng nói: “Đa tạ mỹ ý của Tiêu đại nhân, từ lúc bản thái úy rời khỏi Khai Phong, bọn thích khách giống như âm hồn bất tán theo mãi không buông, người mà bọn chúng muốn giết là bản quan, tất nhiên không muốn bản quan nhậm chức. Người nào mới không muốn để bản quan nhậm chức, cản trở đại kế của triều đình? Tất nhiên là gi­an nhân mang lòng bất chính, bản thái úy muốn phá vỡ âm mưu của bọn chúng, biện pháp tốt nhất chính là an toàn tới Lô châu, hoàn toàn sứ mạng mà quan gia gi­ao phó.”

Hắn cười lạnh một tiếng, dứt khoát nói: “Biết rõ núi có hổ, vẫn cứ lên núi, không ai có thể ngăn cản bước chân tây hành của bản quan được đâu. Tiêu tri phủ cứ phái đinh dũng hương dịch truy bắt hung thủ, còn bản thái úy ư, bản thái úy phải lập tức lên đường, ngày đêm kiêm trình tới Lô châu!”

Hắn nhét thi thể hai mắt trợn tròn của Vương Bảo Tài vòng lòng Tiêu tri phủ, dọa cho Tiêu tri phủ vội vàng đỡ lấy, chân tay mềm nhũn ra. May mà có châu phán đại nhân hay xử án bắt giặc thường thấy người chết, gan lớn hơn một chút, vội vàng bước lên nhận lấy thi thể.

Dương Hạo nói: “Thi thể của Vương tướng quân, tạm thời để lại nơi này, phiền Tiêu tri phủ an bài thoảng đáng giúp. Bản thái úy mang Công Tôn tuyên chỉ tới Lô châu, đợi khi việc công đã xong, Công Tôn tuyên chỉ trên đường quay về, sẽ đưa quan tài của Vương tướng quân về Biện Lương.”

Tiêu tri phủ nghe thấy vậy, vội vàng đáp ứng: “Vâng, vâng. Thái úy cứ yên tâm, chút chuyện nhỏ này, ti chức nhất định sẽ làm thật thỏa đáng…”

Trúc Vận đuổi theo thích khách đó ra tới tận ngoài thành, thích khách đó qua đường xuyên ngõ, thủy chung vẫn không thoát khỏi được Trúc Vận, thế là không đi qua cửa thành nữa mà xông về một chỗ tường thành. Gạch của tường thành bởi vì lâu năm nên đã phong hóa, dùng nhẫn đao có thể cắm vào được, hắn mượn vào vào trợ lực của nhẫn đao thuận lợi bay qua tường thành cao năm trượng.

Hắn vốn cho rằng như thế này là có thể thoát khỏi được Trúc Vận, nhưng không ngờ Trúc Vận cũng là cao thủ tinh thông “quải họa”

Quải họa chính là công phu vượt tường mà người sau gọi là bích hổ công, dựa vào những khe hở rất nhỏ của gạch tường thành, Trúc Vận cô nương giống như là thạc sùng bò trên tường, dễ dàng lao ra khỏi thành.

Hai người một chạy một đuổi, tên nhẫn giả đó giống như là một con hồ ly giảo hoạt, Trúc Vận thì giống như là một thợ săn có kinh nghiệm, có kiên nhẫn, hai người thi nhau thi triển thủ đoạn của mình, thủy chung không để tên nhẫn giả chạy thoát.

Tên nhẫn giả đó trốn trong một con kênh rạch, dùng đầu kia của vỏ kiếm có lỗ thủng thò ra khỏi mặt nước, mượn vào sự yểm hộ của cỏ dại mà hít thở, rốt cuộc cũng cảm thấy sự sợ hãi từ đánh lòng.

Hắn chính là tên thích khách hôm đó bị Hoàng lão đầu nhi bức cho phải ngâm mình trong con sông phía ngoài cửa sổ của Dương Hạo cả một đêm, hắn một mực nghĩ không thông, những người phe mình tuy rằng không phải là nhẫn giả xuất sắc nhất, nhưng hành tung tại sao lại dễ dàng bị người ta phát hiện như vậy, trên đường cùng Trúc vận công nương đấu trí đấu pháp, thi triển các loại thủ đoạn, hắn cuối cùng cũng tìm ra được chút manh mối: Nữ nhân này cũng tinh thông ngũ hành độn thuật.

Nhẫn thuật chính là từ ngũ hành thuật của trung thổ mà phát triển biến hóa thành, tuy phát triển ra rất nhiều biến hóa, nhưng trăm khoanh vẫn quanh một đốm, một cao thủ tinh thông ngũ hành thuật, muốn phá giải nhẫn thuật của hắn tất nhiên là không khó. Lần này, hắn còn có thể chạy đi đâu được nữa?

Mặc dù bảo trì tâm tình bình tĩnh, nhưng nhẫn giả vẫn chậm rãi thở một hơi dài, một hơi này vừa hít vào trong miệng, tiếp theo vỏ kiếm trên miệng hắn đột nhiên bị người ta đoạt mất, tên nhẫn giả đó hoảng hốt nhìn lấy, gợn sóng nổi lên trên mặt nước đã bị dòng nước lưu động nhanh chóng cuốn đi, xuyên qua nước kênh, chỉ thấy trời xanh thẳm, ánh dương xán lạn, còn đâu không còn gì nữa, vậy nàng ta… ở đâu?

Nhẫn giả vốn là sinh cũng vô danh, chết cũng vô danh, hắn đã dự cảm thấy mình rất nhanh sẽ phải chôn thây trong con kênh vô danh này, địch nhân đang lặng lẽ quan sát đang chờ hắn thở ra một hơi cuối cùng.



Bách Hoa ổ, Tùng Phong đường.

Gió thổi từng trận, khắp pòng mát mẻ.

Trên chiến bàn uống trà đặt một bình rượu Lương châu thuần túy, một con cá Hoàng Hà thơm ngon vàng dòn nặng gần hai mươi cân, mỹ tửu đều xếp đầy bàn, bọn trẻ con của Chiết gia ngồi ở hai bên, đang ngồi khoanh chân, đạo mạo trang nghiêm.

Chiết đại tướng quân nhất gia chi chủ ngồi ở cuối bàn dài, mặt như quả táo, hai con mắt xếch chéo lên, đôi lông may như dán hai con tằm, râu dài tới ngực, giống như là Quan Vũ Quan Vân Trường ngồi ở đó, đặc biệt là đôi mắt xếch hiếm có đó, nửa nhắm nửa mở, không chỉ hình dáng giống mà thần vận cũng giống.

Chiết Duy Xương tuổi còn khá nhỏ nuốt nước bọt, lén lút cầm đũa lên.

“Bốp!” Mu bàn tay lập tức bị tam ca Chiết Duy Tín gõ cho một cái, Chiết Duy Xương ủy khuất bĩu môi, lén lút nhìn phụ thân một cái. Chiết Ngự Huân mí máy hơi động đậy, nhưng lại vẫn không ngước lên.

Lúc này, cửa bình phong ở bên hông gi­an phòng được kéo lên, Chiết Tử Du giống như một đóa mâu trắng phiêu diêu bước vào.

Chiết Ngự Huân tinh thần rúng động, ngồi thẳng người lên, cao giọng nói: “Bắt đầu ăn, bắt đầu ăn, tiểu muội, nào nào nào, mau ngồi xuống đi.”

Chiết Tử Du ngồi xuống trước mặt hắn, hai mắt quét qua hai bên, mấy đứa cháu giống như là nhận được hiệu lệnh của tướng quân, lập tức cầm bát cơm ở trước mặt lên.

Chiết Tử Du hừ khẽ một tiếng, bưng cái bát cơm so với lòng bàn tay của nàng ta còn nhỏ hơn mấy phần ở tước mặt lên rồi gắp một hạt cơm trong suốt như ngọc do Trác châu cống tặng cho vào miệng rồi chậm rãi nhai.

Chiết Ngự Huân mặt mày tươi cười rót một chén rượu bồ đào cho mình, nâng chén lên nói: “Tiểu muội, có thể uống vài chén không?”

Chiết Tử Du rất thẳng thắn trả lời một tiếng: “Không uống.”

“Được, được, được.”

Chiết Tử Luân luôn miệng đáp ứng, tự mình rít một chén lớn, lông mày con tằm nhướn lên, gặp một khúc thịt cá béo ngậy cho vào miệng.

Mấy đứa cháu ở hai bên không thể thoải mái được như cha của chúng, gặp thức ăn, và cơm, động tác chỉnh tề, giống như là thực hành đúng theo giáo huấn ăn không nói chuyện, ngủ không lên tiếng của Khổng lão phu tử vậy.

Mấy huynh đệ nghe nói, nữ nhân mỗi tháng đều có một phần tư thời gi­an là dễ nóng giận, nhưng sau khi vị tiểu cô cô này của mình từ Trung Nguyên trở về, mỗi tháng chỉ có một phần tư thời gi­an lộ ra vẻ tươi cười đã là cám ơn trời đất rồi. Bốn huynh đệ chỉ sợ chọc giận nàng ta, cho nên khi ở trước mặt nàng ta một mực rất rụt rè cẩn thận.

Thế nhưng Chiết Tử Du lại phụ trách cơ cấu tình báo của Chiết gia, mỗi ngày làm việc ở phủ tiết soái, bọn họ muốn tránh cũng tránh không được, bữa cơm mỗi ngày trở thành thời gi­an khổ sai của bọn họ.

Chiết Ngự Huân gặp một miếng đầu cá lên cắn răng rắc. Chiết Tử Du nhíu mày, rất bực bội nhìn hắn, nói: “Ăn cơm không phát ra tiếng động lớn như vậy có được không? Dạy hư bọn trẻ con rồi!”

Mấy đứa cháu đứa năm nay tuổi lớn nhất thì còn lớn hơn cả nàng ta, đứa nhỏ nhất thỉ mười ba tuổi lập tức nhất loạt nhìn về phía phụ thân với ánh mắt khinh thường, cờ xí liên minh đứng ở bên cô cô.

Chiết Ngự Huân cười khan hai tiếng, cầm khăn lên lau miệng, ho khan một tiếng, nói: “À… triều đình vừa bổ nhiệm tri phủ Lô châu mới.”

“Hả?”

Chiết Tử Du nhướn mày, nói: “Trương Kế Tổ phải dời chức à? Tri phủ tân nhiệm chắc là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa phải không? Trương Kế Tổ vừa đi, Lô châu phải ứng phó với vị tri phủ tân nhiệm này, e rằng tạm thời phải thu liễm một chút.”

Chiết Ngự Huân nhìn lén nàng ta một cái, nói: “Vị tri phủ tân nhiệm này, so với Trương Kế Tổ thì rất không tầm thường, người này được triều đình gia phong là Hoành sơn tiết độ sứ, kiểm giáo thái úy, khai phủ nghi đồng tam ti, phán Lô châu phủ sự. Luận quan chức, so với Trịnh quốc công nhà ta cũng không thua một chút nào…

Chiết Tử Du cuối cùng cũng động dung, nói: “Lai lịch lớn vậy cơ à? Chẳng lẽ tân đế đăng cơ, lập tức muốn hạ thủ với tây bắc? Người tới là ai?”

Chiết Ngự Huân ho khan hai tiếng, nói: “Chính là tiền nhiệm Lô châu tri phủ, Dương Hạo.”

Chiết Tử Du ngây người, một lát sau, nàng ta đảo mắt lia lịa, thấy mấy đứa cháu đồng loạt quay đầu lại nhìn nàng ta, lập tức trừng mắt hạnh, quát: “Không ăn cơm đi nhìn cái gì mà nhìn.”

Mấy đứa cháu vội vàng câm như hến cúi đầu xuống, Chiết Tử Du thản nhiên như không có chuyện gì, nói: “Bất kể là Triệu Khuông Dận hay là Triệu Quang Nghĩa, đều không thể thả hổ về rừng được, trong đây ắt có nguyên do.”

Chiết Ngự Huân nói: “Đúng vậy, Dương Hạo lần này trở về, bất kể là xuất phát từ mưu kế của triều đình hay là hắn đã nổi dã tâm, đối chúng ta đều có ảnh hưởng rất lớn, đối với nhất cử nhất động của hắn chúng ta không thể không chú ý. Tiểu muội…”

“Hả?”

“Tiểu muội sau khi từ Trung Nguyên trở về, liền chỉ phụ trách tình báo về Thổ Phiên, Hồi Hột và Hạ châu Lý thị, nhưng hai phương diện Trung Nguyên và Lô châu, đối với phủ châu của ta cũng có ảnh hưởng cũng rất lớn. Cửu thúc tuổi già rồi, e rằng không chiếu ứng được, tiểu muội không ngại thì tiếp quản luôn chuyện của cả hai phương diện này đi. Cửu thúc vất vả cả đời rồi, cũng nên được hưởng an nhàn.”

“Cái gì…”

“Tiểu muội, dưới tay đại ca cũng không phải không có người, chỉ có điều người có thể nắm vững toàn cục lại có hạn, hơn nữa…nơi trọng yếu như thế này, luôn luôn là do tộc nhân của Thiết thị chúng ta đảm nhiệm, lại không tiện làm trái với quy củ của tổ tông, gi­ao cho người ngoài phụ trách. Trừ muội ra, đại ca thực sự không nghĩ ra được nhân tuyển thích hợp nào nữa.”

Chiết Tử Du do dự một lát rồi miễn cưỡng gật đầu: “Vậy được rồi, muội tiếp nhân là được chứ gì…”

Nàng ta lại tiếp tục ăn cơm, rồi đột nhiên bỏ bát cơm xuống khom lưng đứng dậy.

Chiết Ngự Huân giơ chén lên ngạc nhiên nói: “Tiểu muội đi đâu vậy?”

Chiết Tử Du mặt ngọc bình tĩnh không hề nổi lên một gợn sóng nào, hờ hững trả lời: “Muội ăn no rồi.”

Chiết Tử Du phiêu nhiên bỏ đi, đợi khi cửa bình phong được kéo xuống, bọn Chiết Duy Chính, Chiết Duy Tín, Chiết Hải vốn đang ngồi rất nghiêm trang lập tức ùa lại một chỗ.

Chiết Duy Chính kích động đến nỗi mặt đỏ bừng, nói năng lộn xộn: “Cứu tinh tới rồi, hết khổ rồi, huynh đệ chúng ta cuối cùng cũng thoát khỏi biển khổ rồi. Cha, hôm nay vô luận là như thế nào, cha cũng phải để huynh đệ chúng con uống một chút rượu ăn mừng.”

….

Lý Khánh Phong ghìm cương ngựa, nhìn về phía tòa thành bảo hiểm trở xây dựa vào núi ở phía trước, vui vẻ nói: “Thái úy đại nhân, phía trước chính là Phi Diên bảo, tiến vào địa giới Phủ châu rồi.”

“Hả?”

Dương Hạo vội vàng đút một tờ giấy vào trong ống trúc, dùng keo dán do “Phi Vũ” đặc chế đán lại, buộc lên chân ưng, tay rung một cái, con ưng đó lập tức tung cánh bay đi.

Dương Hạo bước ra khỏi khoang xe, nhìn tòa thành bảo hiểm trở ở phía trước, nói với Lý Khánh Phong: “Có thể mời vị Công Tôn đại nhân đó tỉnh lại không?”

“Vâng… Lý Khánh Phong trong mắt lộ ra tiếu ý, hắn phất tay về phía Trúc Vận, Trúc Vận liền nhảy xuống ngựa, tới chiếc xe ở phía sau vén rèm lên rồi chui vào. Công Tôn Khánh giống như là say rượu, nằm trong khoang xe ngủ rất ngon. Từ ngày ở Gi­ang châu bị thương ở đầu, Công Tôn đại nhân một mực ngủ mê mệt, thủy chung chưa từng tỉnh lại.

Dương Hạo cự tuyệt hảo ý giữ Công Tôn Khánh lại trị bệnh của Tiêu tri phủ, nói trong đội ngũ của hắn tự có danh y, rồi dẫn vị tuyên chỉ sứ này tiếp tục lên đường. Trên đường đi, mỗi ngày Trúc Vận đều đúng hạn cho Công Tôn đại nhân uống thuốc, kết quả uống thuốc chính là Công Tôn đại nhân cả ngày ngủ mê mang, thủy chung không tỉnh lại. Võ sĩ ở dưới trướng Vương Bảo Tài không biết nội tình, chỉ phụng mệnh hành sự, hai chủ quan một chết một hôn mê, bọn họ cũng ngoan ngoan nghe theo sự sắp xếp của Dương Hạo.

Được cho uống một bình thuốc, một lát sau, Công Tôn Khánh liền từ từ tỉnh lại, hôn mê nhiều ngày, thần chí của hắn có chút hồ đồ rồi, hai mắt nhìn chằm chằm vào Trúc Vận cô nương cả nửa ngày rồi ngu ngơ hỏi: “Ngươi là ai? Ta sao lại ở đây?”

Trúc Vận mỉm cười ngọt ngào, nói: “Cung hỉ đại nhân, hạ hỉ đại nhân, đại nhân không nhớ tiểu tỳ ư? Tiểu tỳ là nha hoàn trong phủ của Dương thái úy, ngày đó ở Tùy viên, đại nhân bị thích khách tập kích mà hôn mê, cho tới hôm nay mới tỉnh lại, thật sự là phúc lớn mạng lớn…”

“Ặc… ặc.. ặc…”

Công Tôn Khánh hơn khôi phục lại một chút thần chí: “Bản quan hôn mê bao lâu rồi? Hiện giờ vẫn ở Gi­ang châu ư?”

Trúc Vận rất nhanh liềm mỉm cười nói: “Đại nhân hôn mê đã bảy tám ngày rồi, hiện tại không còn ở Gi­ang châu nữa, chúng ta đã tới Phi Diên bảo của Phủ châu rồi.”

“Cái gì?”

Công Tôn Khánh giật nảy mình, đầu nặng chân nhẹ chui ra khỏi khoang xe, híp mắt nhìn về phía trước, thấy Dương Hạo đứng ở trên xe phía trước, đang chắp tay nhìn về phía trước, hắn cũng nhìn theo hướng mà Dương Hạo đang nhìn, một đám nhân mã đang từ phía Phi Diên bảo phi tới, Công Tôn Khánh trước mắt tối sầm, ngã cắm đầu xuống đất.

Quyển 10 : Tây Bắc lang yên

Chương 408: Thẳng thắn thành thật

Đã đến Phủ Châu thì không thể không đến Phủ Cốc. Dương Hạo đến thẳng Phủ Cốc với sự hộ tống của đoàn binh mã, Công Tôn Khánh đến lúc này cũng không còn kế gì khác. Hắn và người của hắn được binh mã Phủ Châu ” bảo vệ” nghiêm ngặt đến mức không thể cựa quậy. Đi suốt quãng đường này kẻ đau thương nhất chính là vị tuyên chỉ sử này.

Bốn việc thất ý nhất của đời người là: Sĩ tử thi rớt, tướng quân bị bắt, hậu phi thất sủng, quả phụ tử nhi. Công Tôn Khánh thấy hắn còn bi đát hơn 4 việc đó. Kẻ bi đát gặp việc bi đát, thế mà vẫn phải cười gượng, muốn giống Trình Tự Đức xưa kia mượn rượu giải sầu mà cũng không được. Công Tôn đại nhân chỉ có thể lấy gương về Văn Vương bị gi­am mà diễn Kinh Dịch, Trung Ni gặp nguy mà viết Xuân Thu, Tả Khâu bị mù mà viết Luận Ngữ, Khuất Nguyên bị đi đày mà phú Li Tao, Tôn Tử bị hình túc mà truyền lại cho đời sau những bài học Binh pháp để an ủi bản thân.

Đến Phủ Châu lần này, không giống như 2 lần trước, nhớ lần đầu tiên đến Phủ Châu vào 2 năm trước, đừng nói muốn gặp hoàng đế đất Phủ Châu Chiết Ngự Huân, đến người huynh đệ của hoàng đế tiết độ sứ Chiết Ngự Khanh cũng khó. Mà lần này Chiết Ngự Huân nghị trượng long trọng, phái Mã Tông Cường đi đón từ khi còn cách thành 10 dặm, hơn nữa lại cử Chiết Ngự Khanh, Nhậm Khanh Thư nghênh đón ở tận cửa thành, và còn đích thân đứng đón ở bách hoa ổ.

Vị đại sứ có đôi mắt phượng mày tằm,mặt đỏ phùng phừng và bộ râu dài nghiễm nhiên là Quan Vân Trường, đứng ở đầu cầu bách hoa ô, vừa nhìn thấy Dương Hạo đã mặt mày hớn hở, hai phía cười nói làm lễ, Quan nhị ca liền vịn vào cánh tay của Dương nhị ca vui mừng cùng bước vào cửa thành cao hiểm, nơi được mệnh danh là một người giữ nhưng vạn người khó vào của bách hoa ổ.

Còn về Công Tôn đại nhân sứ truyền chỉ, đã trực tiếp đi đến quán dịch vẽ một vòng tròn và rủa: Ồ……là “Văn Vương bị bắt mà diễn kinh dịch…….đi rồi…….”

“Dương Thái Uý thật sự rất phi phàm, là thiếu niên anh hùng, từ xưa đến nay trẻ tuổi mà được như vậy quả thật là không nhiều, hơn nữa phong thái lại nho nhã, thật xứng đáng được ghi vào sử sách”

Quan nhị ca cười dài mà nói: “Hôm nay đã qua Phủ Châu, Chiết mỗ với danh nghĩa chủ nhà, thái úy ở xa đến, mời thiếu úy ở lại thung lũng của chúng tôi nghỉ ngơi giây lát, uống chén trà, tôi đã cho người sắp xếp rượu thịt, mời thái úy dùng bữa.

“Vậy Dương Mỗ đã làm phiền các vị rồi.”

Dương Hạo vừa nói vừa nhìn xung quanh, cuối cùng cũng không thấy tiểu nha đầu mặc xiêm y màu đen, mặt mày tươi tỉnh đâu cả, trong lòng không tránh khỏi thất vọng. Bước đi tiếp, ngước đầu lên, Dương Hạo lặng lại, thật không ngờ trước mắt là Bạch Hổ lễ đường.

Bày trà mời khách tại sao lại ở Bạch Hổ lễ đường? Nói thẳng ra đây là bộ tư lệnh của Chiết Ngự Huân, nếu ko phải là việc đại sự, không thể ở đây, Chiết Ngự Huân……

Dương Hạo đưa mắt nhìn kĩ Chiết Ngự Huân một lúc, Chiết Ngự Huân cười đầy hàm ý, đưa tay về phía Dương Hạo: “Dương thái úy, mời”

“Phải đi thẳng vào vấn đề, như thế mới thoải mái” Dương Hạo nghĩ xong liền cười và nói: “Tiết soái, mời “

Trong lễ đường Bạch Hổ, hai người ngồi theo thứ cấp, tiểu giáo rót trà xong cũng lui, đến ngay như cả những người thân cận với Chiết Ngự Huân như Chiết Ngự Khanh, Nhậm Khanh Thư , Mã Vũ Cường cũng phải lui. Trong lễ đường chỉ còn lại Chiết Ngự Huân và Dương Hạo.

Chiết Ngự Huân mắt nhìn, miệng cười đầy ẩn ý: “Dương đại nhân với thân phận tiết độ Hoàng Sơn, thái úy Tiếu Giáo, công danh thật hiển hách . Sợ rằng trừ lễ điếu kinh Biện Lương ra, có lẽ không có phủ nào vinh dự bằng phủ này. Xem ra, quan gia rất coi trọng Lô Châu, không biết lần này đến đây quan gia có nhận xét gì không? “

Dương Hạo mỉm cười đáp: “Tiết sứ đã hỏi như thế thì bản quan cũng xin thành khẩn trả lời, quan gia cho phép tôi được nói thẳng, ta hy vọng có thể quật khởi từ Lô Châu, lập nên một đội quân lớn mạnh, thẳng tay dồn ép ý đồ của tiết soái, lấy đại quân của triều đình khởi binh vấn tội, ép tiết soái theo thế mạnh mà hàng. Không máu chảy đầu rơi mà vẫn chiếm được Phủ Châu.”

Chiết Ngự Huân lặng đi một lát, sau đó cười lớn mà đáp: “Thái úy nói đùa rồi, Phủ Châu vốn là đất Tống, Chiết mỗ vốn là thần của nước Tống, trung thành hết mực với triều đình, sống một lòng với triều đình. Triều đình hà tất phải khởi binh vấn tội? “

Dương Hạo nói: “Phủ Châu đã là đất Tống, tiết soái đã là thần nước Tống, tại sao chỉ có bách tính nạp phú tiết độ, còn các quan đều theo phủ tiết soái. Đây chẳng phải là khinh thường triều đình sao? “

Chiết Ngự Huân mặt biến sắc: “Tiên đế thay gi­ang sơn cho Sài thị, thời thiên hạ chưa định, Phủ Châu tiên phong sát nhập, tiên đế cảm kích, đã từng đứng trước mặt văn võ triều Mãn hứa hẹn: “Từ nay về sau con cháu đời đời cai quản công việc Phủ Châu, được dùng bộ khúc của nó, tự làm chủ dân chúng của mình và cha truyền con nối, chứ đâu có phải Phủ Châu chúng tôi dám trong mắt không có vua?”

Trong “Tức vị xá thiên hạ chế” cũng nói: Hèn lấy thần khí, gi­ao cho trùng nhân…….phàm làm việc gì, cũng cố gắng quy thằng, nương nhờ vào pháp độ, không dám làm phản, trước sau đều tuân theo tiên chỉ….làm sao dám bỏ lời ngoài tai, lại muốn nuốt lời đã hứa sao? “

Dương Hạo mỉm cười: “Nếu không phải vì lí do này, Dương Hạo hà tất phải quay lại Lô Châu, mà được cất nhắc thành một phương khiến tương, trong lòng tiết độ chẳng lẽ không có chút nghi ngờ? “

Chiết Ngự Huân mắt sáng lên, trầm ngâm nói : “Trong lòng ta vốn có hoài nghi, ta mới mời thái úy vào Bạch Hổ đường.”

Hắn đứng lên, đến trước mặt của Dương Hạo cao giọng nói: “Trong tiết đường này chỉ có ngài và tôi, bất kể nói gì, từ chính miệng ta nói ra và chỉ vào tai ngài, ta biết ngài biết, một khi bước ra khỏi căn phòng này, sẽ không còn bất cứ chứng cứ gì nữa nên xin thái úy cứ nói thẳng”

Dương Hạo sờ chóp mũi và nhìn ngó nghiêng xung quanh, cười mỉm nói: “Ý của tiết sư là, bất kể có nói những lời đại nghịch bất đạo như thế nào, ở nơi này, chúng ta cũng không bị phát hiện?”

Chiết Ngự Huân cười ha hả, hỏi lại một cách xảo quyệt: “Thái úy tuy rời Lô Châu đã lâu nhưng Lô Châu vẫn phong thái úy làm chủ, thái úy có lẽ nên biết, Lô Châu làm bao điều như vậy, Chiết mỗ còn muốn chuyện đại nghịch bất đạo sao?”

Dương Hạo cười: “Lô Châu và Phủ Châu là hàng xóm lại nhận được sự giúp đỡ nhiều phía của tiết soái, nếu nói tiết sư không cài người vào chỗ tôi thì mới thật là lạ. Nếu nói Lô Châu chúng tôi có hành động gì giấu diếm Chiết tướng quân, thì Chiết tướng quân đã sớm ngồi không yên vị trí làm chủ Phủ Châu của ngài rồi.”

Dương mỗ cho rằng, tiết sư hùng bá một phương, lại cũng không phải hạng thiện nam tín nữ, như Hạ Châu ốc không mang nổi mình ốc, Phủ Châu không thể khống chế, lấy thực lực của tiết sứ mà hy vọng mưu sự Lô Châu, chưa chắc đã không thuận lợi, vì sao tiết sư luôn án binh bất động, điều này khiến cho ta suy nghĩ trăm đường cũng không thể nào mà hiểu nổi.”

Chiết Ngự Huân cười lạnh nói : Nghĩ trăm đường cái nỗi gì? Lô Châu của thái úy tự hôm miếu thờ của triều đình không tha. Chương Kế Tổ tuy diễn đạt không lưu loát nhưng lại làm quan nhi của khâm mệnh triều đình. Chiết mỗ nếu dùng binh với Lô Châu các người, là đã cho triều đình mượn cái cớ, đất Lô Châu thế cao và hiểm yếu, là vùng đất có thế chiến tốt, được chi không tiếc, có chi cũng không hơn. Đặc biệt nghe đồn thuộc hạ của thái úy vẫn đang đóng ở Hạ Châu, cái này đối với Chiết mỗ càng có lợi. Chiết mỗ mưu đồ Lô Châu hà tất phải khổ thế này? Ta đây cũng chỉ mong muốn giữ được sự nghiệp mà tổ tông để lại thôi.”

Dương Hạo đột nhiên đứng dậy nói: “Nếu đã nói như thế này, vậy Dương mỗ và tướng quân đều có chung lợi ích, có thể bắt tay hợp tác rồi “

Chiết Ngự Huân vuốt ve chòm râu dài, mắt phượng lim dim, nhìn Dương Hạo một cách hoài nghi nói: “Triều đình đối với thái úy, không chút nghi ngờ. Hôm nay quan gia không những thả hổ về rừng mà lại thu nhận tiết độ ngài, cho ngài mở phủ đệ, thiết lập quan lại. Trong lòng ta thật không hiểu nổi, cho nên Chiết mỗ không thể yên tâm được”

Dương Hạo cười đau khổ nói : “Ta nói là phụng ý chỉ của triều đình để mưu sự Phủ Châu nhà ngươi, ngươi đã không tin, lại còn nghi ngờ chồng chất.”

Chiết Ngự Huân cười lạnh đáp: “Ta chỉ muốn nghe xem lí do thật sự của thái úy là gì?”

Dương Hạo thở dài một cái, đáp: “Lí do thật của nó, nói ra thật sự là 1 câu chuyện dài……..”

Chiết Ngự Huân ngồi xuống, nâng chén, trầm ngâm nói: “Bổn soái sẽ đợi để nghe, xin thái úy cứ nói ra hết sự tình……”

Câu chuyện nói mất hàng giờ, khi hai người lần nữa bước ra khỏi tiết đường, thì đã lại thân thiết như huynh đệ lâu năm.

Chiết Ngự Huân cười tươi “Ha ha, hôm nay Dương Hạo thái úy đến đất Tống, bổn soái bầy đại tiệc để đón tiếp thái úy, các vị tướng lĩnh hãy cùng chung vui, hôm nay chúng ta uống không say không về.”

Tướng lĩnh răm rắp nghe lệnh, Dương Hạo lại lo lắng nói: “Tôi có chuyện muốn hỏi tiết soái, Tử Du cô nương ở đó………”

Chiết Ngự Huân lại lim dim đôi mắt, vuốt ve chùm râu dài, lấy hết khí phách anh hùng của quan nhị ca, hùng uy như phong vũ mà đáp: “Theo người bên ta mới tính kế, ngày mai bổn soái sẽ phái người đến gặp Dương Sùng Ngọc, kể lại rõ chi tiết tình hình, sau đó 3 người chúng ta sẽ gặp nhau để nói về Tử Du, khỏi phải băn khoăn lo lắng về muội ấy, Dương lão đệ, Chiết gia chúng ta đời đời sống trong Vân Trung, đã hơn 300 năm rồi, nữ nhi của gia đình chúng ta được dạy giỗ nghiêm khắc, rất tôn trọng quy tắc, muội ấy đâu dám chen ngang nói bừa? Hơn nữa đây là việc của nam tử hán”

Chiết Ngự Huân vẻ mặt hào hứng, nói say mê đến mức nước bọt tung tóe, thì Mã Tông Cường đứng bên cạnh trộm kéo tay áo của Chiết Ngự Huân, Chiết Ngự Huân không nói mà nhìn hắn: ” Làm cái gì thế?”

Mã Tông Cường nhìn xuống khóm hoa bên cạnh giảu môi nhọn mỏ, Chiết Ngự Huân quay lại nhìn, bất giác hoảng hốt.

Chỉ nhìn thấy từ khóm hoa lặng lẽ bước ra 1 cô nương, áo trắng hơn cả tuyết, dài như thác nước,1 bàn tay nhỏ của nàng hướng lên trên, một con nai nhỏ đang liếm cành cây trên tay nàng, có vài con bướn ngũ sắc đang bay lượn xung quanh, nàng đẹp như trong tranh, đôi mắt đẹp yêu kiều nhìn hắn một cách lạnh lùng.

Chiết đại nhân đang nói huyên thuyên lập tức nhìn ngang nhìn dọc: “Bổn soái quên mất, trong lễ đường còn có 1 việc gấp chưa giải quyết được, thung lũng của ta phong cảnh tuyệt đẹp, thật biết làm người ta lưu luyến, thái úy xin mời dừng chân ngắm cảnh, bổn soái xin đi trước.”

Dương Hạo khi chưa gặp Tử Du thì trong lòng rất muốn gặp, khi gặp rồi lại bối rối chẳng biết phải nói gì, liền vội vã níu giữ Chiết Ngự Huân cầu cứu “Tiết soái……”

“Quan nhị ca” lật mặt không nhận người: “Đây là việc giữa nữ nhi và nam nhi, thái úy muốn kéo huynh đệ xuống nước, thì thật không trọng lễ nghĩa rồi.”

Dương Hạo bối rối không biết nói gì, nhìn thấy tướng quân làm bộ không biết rồi đi, lúc này mới lấy hết can đảm quay người lại.

Chiết Tử Du nhẹ nhàng xoa đầu con nai nhỏ, rẽ đôi khóm hoa bước tới chỗ hắn, con nai nhỏ cũng theo ngay sau chân nàng.

Người nàng như tỏa ra một ánh sáng làm mê mẩn lòng người, nhẹ nhàng và yêu kiều bước đến, đại tiểu thư họ Chiết trong dáng điệu thướt tha , giống như một bông hoa thùy mị mà rất đỗi nho nhã vậy.

Nhìn kĩ lại cô nương ấy đã gầy đi nhiều, cằm nhọn ra, chỉ có hai con mắt là vẫn sáng long lanh, đầy sức hấp dẫn. Đôi mắt đó cứ nhìn sâu thăm thẳm vào Dương Hạo,còn Dương Hạo có vẻ như tim đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực .

Hắn tiến lùi không được, bất giác ho lên một hơi dài, rồi lấy hết can đảm lên tiếng: “Đã lâu không gặp, cô nương ………..dường như gầy đi khá nhiều.”

Chương 409: Người thông minh

“Chúc mừng Dương đại nhân, mới chỉ vài ngày không gặp đã khiến người khác thay đổi cách nhìn,như địa vị công danh của ngài hôm nay đã có thể lưu danh sử sách” Chiết Tử Du nói.

“Quá khen, quá khen, công danh lợi lộc chẳng qua cũng chỉ là mây khói thoáng qua” Dương Hạo nói.

Ánh mắt Chiết Tử Du dừng lại trên chân Dương Hạo, cười nhạt mà nói: “Ta nghe nói chân của ngài hiện giờ không được thuận tiện lắm”

Dương Hạo trong lòng dao động, dường như đã tìm được sự đồng tình giữa hai phía rồi, bèn lập tức nâng chân phải, bước tập tễnh về phía trước, chán nản nói: “Đúng vậy, khi sang sứ Khế Đan, vừa đúng lúc Khế Đan đang có nội loạn, Dương mỗ gặp phải họa không ngờ, cái chân này…ai da…”

Mắt Chiết Tử Du lóe lên một tia sáng, khẽ nheo đôi mắt đẹp lại nói: “Sao ta lại nghe nói chân trái của ngài mới là chân bị tàn phế?”

“À…vậy sao?”

Dương Hạo vội vã đổi sang chân kia, cười ngượng: “Gặp cô nương, ta vui đến nỗi không còn nhớ gì cả, nhất thời quên mất là chân nào”

Chiết Tử Du thở dài khẽ nói: “Lẽ nào ngài không thể nói với ta một câu thật lòng sao?”

Trông thần sắc ngữ khí thì như thâm khuê oán phụ khiến Dương Hạo trong lòng bất giác bị lay động, lẽ nào nàng đã không còn tính toán đến chuyện khi ở nước Đường ta giả chết khiến nàng phải đau khổ sao?

Còn đang mải suy nghĩ, Chiết Tử Du đã than trách: “Ta biết, ngài giả chết cũng được, giả là phế nhân cũng được, đều là vì muốn thoát khỏi sự khống chế của triều đình, nhưng đã muốn diễn thì phải diễn cho giống. Bị bao vây tứ phía, khó có thể nói là không có tai mắt của triều đình, ngài lúc thì nói chân trái, lúc lại kêu chân phải, có thể không bị bại lộ sao?”

Dương Hạo vô cùng cảm kích, vội nói:”Tử Du, nàng đối với ta tình nghĩa sâu nặng như vậy mà ta lại cảnh giác với nàng, thật đáng hổ thẹn. Vốn dĩ trước đây ta chỉ muốn lui về ẩn cư, tìm sự yên bình, cho nên mới có những hành vi kì quái như vậy. Nhưng về sau nàng có thể yên tâm”

Chiết Tử Du nhẹ nhàng nói: “Ngài bây giờ mới hiểu ta đối với ngài như thế nào sao? Nếu ngài không muốn bị lộ thân phận, ta còn có cách giúp ngài”

Dương Hạo tự mình cũng đã có cách, dự định về đến Lô Châu sẽ rêu rao tìm một vị danh y đến nói đã chữa khỏi cái chân bị tàn phế, triều đình dù có nghi ngờ cũng chẳng thể làm gì được, nhưng Chiết Tử Du có thể coi là Gia Cát Lượng trong đám nữ nhi, hẳn cách của nàng phải cao minh hơn cách của mình nhiều. Nghĩ đến đó liền vội hỏi: “Cô nương có cách gì vậy?”

Chiết Tử Du từ từ rút từ trong tay áo ra một thanh đoản kiếm sáng loáng sắc nhọn, từ tốn nói: “Chính là đây, làm một chân của ngài bị tàn phế thật”

Dương Hạo vô cùng kinh ngạc, lập tức xua tay vội nói: “Đa tạ ý tốt của cô nương Tử Du, nhưng ta nghĩ chắc không cần nữa đâu”

Chiết Tử Du nửa cười nửa không nói: “Không cần khách khí, chỉ tốn chút công sức thôi”. Nói đoạn nàng liền cầm kiếm lao đến.

Dương Hạo thấy vậy không còn nghĩ gì đến việc giả què nữa, quay người bỏ chạy ra ngoài .Đôi mắt nâu to tròn của Chiết Tử Du nhìn chăm chú không chớp, quay người đuổi theo sau. Con nai phương Bắc thấy hai người chạy nhanh như vậy, chỉ nghĩ chủ nhân đang chơi đùa cùng vị khách đó, do vậy cũng vui vẻ đuổi theo sau. Một nam một nữ, hai người và một con hươu cùng nhau chạy điên cuồng trong bách hoa ổ.

Trong một ngôi đình cách đó rất xa, hai huynh đệ Chiết Ngự Huân ngồi trên đài sen nhìn theo một đôi nam nữ, phía sau là con nai nhỏ đang chạy nhảy vui vẻ trong khu vườn cây cối hoa cỏ xum xuê rậm rạp. Chiết Ngự Khanh thẳng thắn nói: “Đại ca, Dương Hạo ngày nay là tiết độ sứ . Theo tin từ Lô Châu truyền đến thì với thực lực hiện giờ của hắn, nếu quả thật hắn có thể giành Hạ Châu mà lên nắm quyền, vậy thì kẻ phi phàm bậc nhất Tây Bắc ngày nay còn ai khác ngoài hắn? Giờ hắn đã kết làm đồng minh với chúng ta, ngày ngày qua lại với nhau, nếu lỡ tiểu muội làm bị thương hắn, e rằng hai bên sẽ nảy sinh hiềm khích không hay”

“Hoàng đế chưa vội thái giám đã phải lo, đệ nghĩ tiểu muội thật sự nỡ đâm hắn sao?” Chiết Ngự Huân khẽ cười, vô cùng gi­an sảo nói.

“Tại sao? Hắn hết lần này đến lần khác làm tổn thương tiểu muội, lẽ nào tiểu muội còn có thể tha cho hắn?” Chiết Ngự Khanh vô cùng ngạc nhiên.

“Nếu tiểu muội có thể buông tha hắn thì đã chẳng làm cả nhà phải loạn cả lên, tiểu muội được lão gia và chúng ta nuông chiều quá rồi. Tính khí cao ngạo, coi trời bằng vung, biết bao kẻ gia cảnh xuất chúng đều không lọt vào mắt muội ấy, trước giờ chỉ có kẻ khác bị muội ấy sắp đặt theo ý mình, chứ đã có kẻ nào bắt nạt được muội ấy? Nếu như tên Dương Hạo này nỡ đắc tội với tiểu muội rồi lại trước sau nhún nhường nghênh đón, nói không chừng tiểu muội còn thật sự không để ý đến hắn, nhưng hiện giờ…” Chiết Ngự Huân than thở mà nói

Chiết Ngự Khanh chớp mắt, kinh ngạc cười lớn: “Ha­ha, đây thật sự như đậu phụ chấm nước tương vậy, cái này phải đi cùng cái kia.Tên Dương Hạo này cũng thật là kẻ ngốc, không nhận ra tâm ý của tiểu muội, nếu không đã đứng lại để tiểu muội đâm hắn, khi thấy tiểu muội không nhẫn tâm làm hắn bị thương, như vậy chẳng phải sẽ rõ cả rồi sao? Nữ nhi mà, phải biết dỗ dành nâng niu”.

Chiết Ngự Huân khinh thường nháy mắt nói:”Dừng lại sao? Lẽ nào đã rút đao ra mà không đạt được mục đích, dựa vào tính khí của tiểu muội, đệ có chắc muội ấy sẽ không ra tay? Chỉ e muội ấy lén nuốt nước mắt vào trong chứ cũng không để tên tiểu tử kia trốn mất. Tiểu muội vì hắn mà chịu uất ức, cứ để muội ấy đuổi theo, trút oán giận đi”.

“Đại ca trừ phi có ý muốn tác thành cho hỉ sự của hai người bọn họ? Không đúng, theo tin mật chúng ta nhận được, Dương Hạo chẳng phải đã có vợ cả rồi sao? Nếu tiểu muội quả thật bị gả cho hắn, chẳng lẽ đường đường là đại tiểu thư Chiết gia lại phải đi làm vợ lẽ?” Chiết Ngự Khanh hoài nghi hỏi.

Chiết Ngự Huân trừng mắt nhìn Ngự Khanh rồi nói: “Sao lại có thể thành được? Vậy thì danh tiếng Chiết gia nhà chúng ta sẽ thế nào? Lấy vợ cả vợ lẽ, mình không phụ kẻ khác thì kẻ khác cũng chẳng phạm đến mình, nhưng cũng không phải là chuyện gì may mắn. Trước mặt đệ, đại ca hãy thử nói xem “

Chuyện vợ cả vợ lẽ từ xưa đã có, điển tích Ngu Thuấn lấy Nga Hoàng, Nữ Anh đều được ghi chép lại trong sách “lễ chí”. Lấy hai người phụ nữ mà nói, bất thù đích đằng. Thời Xuân Thu chiến quốc, hợp tung liên hoành, chuyện lấy hai vợ bắt đầu ngày càng nhiều, đến thời Ngụy Tấn, cưới hai vợ bắt đầu tiếp diễn không ngừng. Thói đời, sớm đã thành lệ, Chiết Ngự Huân cứ thế mà áp dụng.

“Ta lại rất ủng hộ chuyện này, về lí mà nói, nếu có hôn ước với Lô Châu, đối với Chiết gia chúng ta vô cùng có lợi, Dương Hạo lại là ý trung nhân của tiểu muội, cũng không khiến muội ấy phải chịu ấm ức, nhưng đường đường là Hoành Sơn tiết độ, thái úy hiệu chuẩn, bị tiểu muội đuổi phải bỏ chạy, xem tình hình này, khó có thể giải quyết được ”. Chiết Ngự Khanh buồn bã nói。

“Vậy thì ta cũng chẳng có cách nào mà quản được”

“Tiểu muội của chúng ta vốn đã không dễ đối phó rồi, nếu có thể dỗ dành muội ấy hồi tâm chuyển ý, vậy thì xem ra hắn rất có bản lĩnh rồi. Ta để tiểu muội phụ trách tin mật thám giữa Lô Châu và trung nguyên, với Lô Châu Phi Vũ, không thể tránh khỏi phải qua lại. Phi Vũ lại chỉ có Dương Hạo một mình phụ trách, còn lo họ sau này không có cơ hội gặp mặt sao? Đại ca thử nói xem” . Chiết Ngự Huân phủi phủi quần áo rồi nhảy lên mặt đất

“Đi, chúng ta đến Bách Hoa đình đợi, đệ hãy dăn dò trước, lát nữa Dương Hạo đến, bất kể hắn có thảm hại thế nào, mọi người cũng phải coi như không có chuyện gì, đùng cười hắn, tránh cho hắn­ngại không ngóc đầu lên được”

Chiết Ngự Khanh vuốt chùm râu dài, dương dương tự đắc mà nói: “Người Sơn Tây chúng ta vốn trượng nghĩa, mà đại cữu ca Tây Sơn ta đây lại là người vô cùng trọng nghĩa khí”

Chiết Ngự Khanh giải quyết mọi việc quả thật rất trượng nghĩa khí, những tin nhắc đến chuyện thái úy đương triều bị đuổi giết ở Bách Hoa ổ chỉ lưu truyền trong nội bộ Bách Hoa ổ, nghe nói bên ngoài không một ai hay biết.

Nhưng sau khi Dương Hạo đến dự tiệc đón tiếp ở Bách Hoa đình, liền rời khỏi phủ châu ngay ngày hôm đó, khi hộ vệ của Mã Tông Cường đuổi theo đến Lô Châu thì đã đi rồi, nếu không đã chẳng thể diễn trò đuối giết ở Quán Dịch Trung, trở thành đề tài bàn tán của người dân phủ châu tại các quán trà. Ngày Dương Hạo rời đi, các mật thám thuộc khu tình báo “Tùy Phong” của Chiết gia nhận được chỉ thị tối cao của tân nhiệm chủ quản-đại tiểu thư Chiết gia: Quan sát chặt chẽ mọi động tĩnh ở Lô châu.

Đội xe đánh trận đã về đến Lô châu, vừa bước vào phạm vi Lô châu, Dương Hạo đã có cảm giác trở về nhà vô cùng thân thiết, bầu trời ở đây vô cùng trong xanh, cỏ vô cùng mềm mượt, gió thổi vi vu đều đem đến mùi vị của sự tự do tự tại. Nơi này do Dương Hạo một tay xây dựng nên, nếu nói từ trước đến giờ nơi nào khiến hắn khó quên nhất thì không nghi ngờ gì đó chính là Lô Châu

Khi nhìn thấy cánh cổng thành kiên cố cao lớn của thành Lô Châu từ đằng xa, không giống như khung cảnh đầy gió và tuyết trắng xóa khi hắn rời khỏi đó. Cổng thành tụ tập tất cả quan lại và rất nhiều người thân của binh lính, tình cảm của Dương Hạo bây giờ cũng không giống với khi vừa mới ra đi, hắn có một cảm giác lâu ngày được về lại cố hương.

Mã Tông Cường vô cùng mừng rỡ dắt đến một con ngựa. Dương Hạo lập tức nhảy lên ngựa, phóng về phía những người đang nghênh đón trước cổng thành.

Nơi yên bình này chính là gia đình của ta, nhà ta chính là ở phủ Lô châu này.

Những người đang ở trước mắt tuy đã lâu ngày không gặp nhưng vô cùng quen thuộc: Mộc Ân, Mộc Khôi, Điềm Tửu, Kha Trấn Ác, Mục Thanh Tuyền, Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ, Lý Ngọc Xương, còn có người nhà Dương Hạo: Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa. Mặc quan phục đứng ngay phía trước là Trương Kế Tổ Trương đại lão gia

Trương tri phủ vẫn giống như ngày trước, không giống như người vừa từ chức mà như vừa được thăng quan, trông vui mừng phấn khởi nhất trong đám người đứng đó. Nhìn thấy Dương Hạo một mình một ngựa từ xa phi đến, Trương tri phủ liền tiến lên phía trước nghênh đón, cười tươi như được thăng quan phát tài, nghiêng mình, vui mừng chào đón: “Hạ quan Trương Kế Tổ, thay mặt các quan lại và thân sĩ bách tính thành Lô Châu xin nghênh đón thái úy đại nhân. Thái úy đi đường vất vả. Chúc mừng thái úy đại nhân được thăng quan”

Dương Hạo nhìn lướt qua một loạt những khuôn mặt quen thuộc, khẽ nghiêng mình, vẫy vẫy tay với mọi người. Rồi đi theo Trương Kế Tổ trong tiếng hoan hô tưng bừng. Lúc trước, hắn thường không để ý, đều đi gặp bạn bè thân thích của mình trước tiên, giãi bày với họ tâm tình của mình khi phải li biệt, nhưng lần trở về này không giống như mọi lần, nhất định phải xử lí việc công trước rồi mới nghĩ đến việc tư, công tư phân minh.

Hai người nói với nhau vài câu, đội người ngựa đã đuổi đến nơi, do đó tất cả cùng quay về nha phủ. Các quan lại đều tiến vào đại đường. Dương Hạo liền cho người truyền chỉ sử Công Tôn Khanh vào.

Công Tôn Khanh run rẩy ngã cả ra đất đến nỗi đầu cũng bị chảy máu, trên đầu quấn một tấm vải trắng dày, mũ quan cũng không đội được, chỉ có thể đặt hơi nghiêng nghiêng trên đầu. Công Tôn Khanh đội lệch chiếc mũ quan, tay nâng thánh chỉ, tiến lên về phía trước một cách khó khăn, đứng trước mặt tất cả mọi ngừơi, như đang xướng hỉ nhạc tuyên đọc thánh chỉ một lượt.

Tuyên xong thánh chỉ, hắn liền giống như đồ phế thải bị mọi người ném sang một bên, không còn ai bận tâm đến nữa.

Chương 410: Giương oai

Trương Kế Tổ cười cúi mình với Dương Hạo rồi nói: “Mời đại nhân xem, đóng dấu ghi danh, nhiệm vụ được gi­ao phó, hạ quan đã sắp xếp ổn thỏa, tất cả đều xếp ở đây, xin đại nhân hãy nhận lấy”

“Việc này không cần phải vội. Bổn quan và Trương đại nhân gặp nhau rồi đều là đến đến đi đi. Lần này Trương đại nhân từ chức, cũng không cần đi vội, việc tiếp gi­ao này để đến mai vẫn chưa muộn” Dương Hạo cười nói

“Không giấu đại nhân, hạ quan từ xa đến Lô Châu nhậm chức, tất cả gia quyến đều không thể đi theo, suốt hai năm trời không được gặp mặt, con nhỏ cũng sắp được gần một tuổi rồi, vẫn chưa cho nó được biết mặt cha”.

“Trương đại nhân đã phải chịu nhiều vất vả rồi, à…” Dương Hạo cúi đầu nói.

Dương Hạo chợt cảm thấy có gì đó không ổn, mở to đôi mắt kinh ngạc, Trương Kế Tổ đã cảm động mà nói:”Ai! Làm quan ở xa, quả thật là không dễ dàng. Từ lúc được biết đại nhân trở về, hạ quan cũng mong mỏi nhanh chóng được về nhà nên sớm đã thu xếp xong hành lí, mong mỏi được sớm đoàn tụ với gia đình. Bây giờ ngựa xe đều đang chờ bên ngoài, mong đại nhân niệm tình cho hạ quan, nhanh chóng nhận bàn gi­ao để hạ quan có thể sớm lên đường về đoàn tụ với gia quyến”

Trương Kế Tổ vô cùng thành khẩn cầu xin, Dương Hạo cũng chẳng thể từ chối. Hai người liền cho lôi kẻ như là thứ đồ phế thải bị ném sang một bên Công Tôn Khanh đến làm chứng, tiến hành bàn gi­ao tất cả. Bàn gi­ao xong, Trương Kế Tổ lập tức xin cáo từ, Dương Hạo vô cùng quyến luyến. Trương Kế Tổ vội vã ra đi, do đó Dương Hạo vừa nhận chức lại dẫn các quan lại đi tiễn Trương Kế Tổ rời khỏi thành Lô Châu

“Trương An, mau đóng thêm yên ngựa đi suốt ngày đêm, nhanh chóng trở về Biện Lương” . Vừa bước lên xe, Trương Kế Tổ đã dặn dò.

Quay đầu nhìn Dương Hạo vẫn đang đứng trước cổng thành, Dương An lớn tiếng hỏi: “Thúc, chúng ta vội vàng như thế để làm gì?”

Trương Kế Tổ vội mắng:”Tên ngu xuẩn này, Dương Hạo vừa đến đây, người đến bất thiện. Nhanh chóng trở về kinh đô, nhanh chóng tự do ở bên ngoài. Cắt đứt quan hệ với Lô châu sớm ngày nào, thúc ngươi mới có thể kê cao gối mà ngủ ngon giấc”.

Trương Kế Tổ vội vã về nhà ôm đứa con trai đi, Công Tôn Khánh cùng nhóm thuộc hạ lại bị dao động vì lời “mời” vô cùng khách khí nên cũng đã an tâm. Những kẻ xung quanh giờ đã là thuộc là hạ của hắn, cho dù những kẻ này đến với hắn với những mục đích khác nhau, và chỉ có những hiểu biết nông cạn về con người hắn ta.

Dương Hạo nhìn theo chiếc xe chở Dương Kế Tổ khuất dần, đột nhiên hỏi : ” Sao không thấy Mộc Đoàn Luyện?”

Mộc Ân bước tới chắp tay bẩm báo : “Khởi bẩm đại nhân. Mộc đại nhân cơ thể bất an, nghe tin đại nhân giá đáo cũng muốn đích thân ra nghênh tiếp đại nhân nhưng bệnh tình ngày càng nặng hơn…”

Dương Hạo suy nghĩ rồi gật đầu ra lệnh : “Hãy dẫn ta tới gặp Môc đại nhân.”

Một đoàn binh lính hộ tống Dương Hạo tới nơi ở của Mộc đại nhân. Thân phận thực của Lý Quang Nghĩa và mối quan hệ giữa hắn ta với Dương Hạo vẫn còn là một điều bí mật, thuộc hạ bên cạnh hắn ta đa phần ít nhiều đều biết về Lô Châu Sở Đồ, còn mối quan hệ giữa hai người rất ít người biết, và càng có nhiều người không biết về nội tình bên trong. Vì vậy trong những lúc đông người, khi Dương Hạo và Mộc Ân nói về Lý Quang Sầm thì chỉ xưng là Mộc đại nhân.

Nơi ở của Lý Quang Sầm ở Khương Trại. Một đoàn binh lính đã đến trước lầu, Dương Hạo hạ giọng nói : ” Nơi ở của người bệnh không nên có nhiều người ra vào, các ngươi hãy đợi ta ở đây, bản quan sẽ tự lên.”

Dương Hạo theo lối cầu thang đi lên, một thiếu nữ đang sắc thuốc, mùi thuốc ngào ngạt theo gió thổi đến. Vừa nhìn thấy Dương Hạo, người thiếu nữ vội vàng buông quạt xuống, bước lên trước, cung kính hành lễ.

Thiếu nữ này chính là Mỗ Y Khả. Người ngoài không biết thân phận của Dương Hạo và Lý Quang Sầm nhưng những phu nhân của hắn đều biết. Tuy Diễm Diễm tính tình qua loa, đại khái nhưng không có nghĩa là nàng ta không hiểu thế sự, huống hồ Oa Oa và Diệu Diệu đều là những người tinh tế, Đông Nhi thì càng không cần phải nói, đều là những người có bản tính hiền lành, không hề có trù tính gì. Họ coi nghĩa phụ như cha đẻ của mình , nhưng với thân phận của mình, bọn họ không tiện đích thân tới chăm sóc nên đành phái Mỗ Y Khả tới chăm lo cho Lý Quang Sầm, thay mặt họ làm tròn đạo nghĩa.

“Được rồi…”

Mỗ Y Khả đứng dậy, vui mừng bật khóc.

Dương Hạo vỗ nhẹ vào vai nàng, nhìn lên lầu : “Nguyệt Nhi, lâu rồi không gặp, ngươi đi xem nồi thuốc thế nào đi, ta lên lầu thăm nghĩa phụ…”

“Dạ!”

Mỗ Y Khả vái lạy, khi nàng ngẩng đầu lên Dương Hạo đã đi vào trong.

Lý Quang Sầm đang nằm trên giường , mắt long lanh nhìn Dương Hạo, sắc mặt lộ rõ vẻ vui mừng, toan ngồi dậy, Dương Hạo vội vàng bước tới, nắm chặt hai tay, quỳ xuống phía dưới đầu giường, thấp giọng : “Nghĩa phụ, con đã về rồi”

Lý Quang Sầm hiện giờ không còn dũng mãnh cường tráng như khi xưa. Bệnh tình trầm trọng khiến hắn ngày càng tiều tụy, khuôn mặt hốc hác, khí sắc xấu đi, chỉ còn hai mắt là còn thần khí, Dương Hạo không ngờ rằng bệnh của nghĩa phụ lại trầm trọng như vậy, nước mắt trào ra không ngừng.

“Hạo Nhi, cuối cùng thì con đã về rồi!” Lý Quang Sầm nắm chặt tay Dương Hạo, cười hạnh phúc.

Dương Hạo nhìn thấy bình rượu bên cạnh giường liền chau mày nói : “Nghĩa phụ, bệnh như vậy mà người còn uống rượu ư?”

Lý Quang Sầm cười nói : “Không sao đâu, ta đã là con sâu rượu rồi, không được uống rượu còn khó chịu hơn là chịu đựng cái bệnh này. Nhưng con yên tâm, ta đã lâu rồi chưa uống rượu, những lúc thèm rượu ta chỉ ngửi mùi rượu thôi”

Dương Hạo nhấc bình rượu và mở nút ra xem, quả nhiên rượu trong bình đã hết nhưng vẫn còn mùi rượu, Lý Quang Sầm đưa bình rượu lên sát mũi, ngửi một hơi rồi lại lập tức đậy lại, cười nói : “Ta vốn mong muốn gia tộc ta có một nơi ở ổn định, được vậy cả đời này sẽ không còn mong muốn gì hơn, nhưng lòng người chưa nguyện… Thực ta vẫn còn muốn sống cho đến ngày đánh bại được thành Hạ Châu, giành lại được những gì vốn thuộc về gia tộc ta”

Hắn ta nắm chặt tay Dương Hạo nói : “Nghĩa phụ muốn đợi chính tay con trai giết chết Lý Quang Duệ, đăng cơ làm vua Hạ Châu, đợi được bế đứa cháu của ta, ta làm sao có thể chết bây giờ được.”

Lý Quang Sầm dù đã tiều tùy gầy rộc đi nhưng nhìn vẫn rất có uy, đột nhiên ngồi dậy vui vẻ nói: “Từ nhỏ ta đã bị coi là kẻ ngoại tộc, ngày nào cũng sống trong nỗi sợ hãi về cái chết, mười ba tuổi đã lưu lạc tới đất Thổ Phồn, mấy chục năm phiêu bạt khắp thiên hạ, có ngày nào ta được ngủ yên, cũng chẳng biết có sống được đến ngày mai không. Ha ha, nhưng lão phu ta chẳng phải vẫn sống được đến hôm nay sao? Tới bây giờ thì ta chỉ muốn được bế cháu, tận mắt nhìn thấy con trai ta làm rạng danh tổ tiên, Diêm Vương dám không nể mặt ta ư?”

Dương Hạo siết chặt tay cha, mỉn cười : “Ai dám không nể mặt cha thì chúng con sẽ bắt chúng phải nể mặt!”

Lý Quang Sầm lặng đi trong giây lát rồi cười lớn, vỗ mạnh vai Dương Hạo: ” Đây mới đúng là khí phách của con trai ta, ha ha………”

Hắn ta ho vài tiếng rồi bất giác nói: “Thân phận của cha con ta, người ngoài vẫn chưa biết, con nên cẩn thận.”

Dương Hạo nói : “Không sao cha ạ, quan lại Lô Châu đều ở bên ngoài, một lát nữa đi con sẽ cho họ biết là đã bái Mộc Đại nhân làm nghĩa phụ.”

Lý Quang Sầm ban đầu rất ngạc nhiên sau chợt ngộ ra và vui vẻ nói: “Con chuẩn bị làm đại sự ư?”

Dương Hạo mỉm cười : “Khi tâm chưa quyết thì cần phải suy nghĩ thật kĩ rồi mới hành động. Khi mà tâm đã quyết thì không cần nhìn trước ngó sau. Nếu như việc gì cũng giấu diếm thì bọn thuộc hạ sẽ chia bè phái, khó mà nhất tâm phục tùng ta, ngoài thân phận là chủ nhân của Thất Thị Đảng Hạng và thân phận thực của nghĩa phụ có ảnh hưởng đến việc đánh Hạ Châu không nên công bố, những việc khác ta nên cho họ biết.”

“Được , được” Lý Quang Sầm phấn khích nói : “Thu phục thiên hạ, cần phải có tấm lòng quang minh lỗi lạc, làm việc gì chỉ biết âm mưu thủ đoạn, sẽ chẳng có ai nguyện chết vì mình.”

Dương Hạo nói : “Hạo nhi cũng đã nghĩ tới những điều đó, nên mới nói hết lòng mình với các quan lại”.

Ngừng một lúc, hắn nói tiếp: “Cha hãy uống thuốc đều đặn, nghe lời thầy thuốc, an tâm dưỡng bệnh, con sẽ sớm cùng người trở lại thành Hạ Châu.”

Nói xong , Dương Hạo nhìn thần sắc Lý Quang Sầm đã kém đi, liền đưa ông về giường nằm nghỉ. Hắn đứng nhìn cha, không chợp mắt, chỉ lo cha đã kiệt sức. “Con còn có nhiều việc muốn bàn cùng nghĩa phụ, nhưng các quan đang đứng ngoài kia, không thể để họ đợi lâu được, giờ xin nghĩa phụ hãy nghỉ ngơi chút, làm xong những việc này con sẽ đến thăm nghĩa phụ.”

Dương Hạo nở một nụ cười nhẹ nhõm, hạ giọng nói : “Giờ Hạo nhi đã trở về, nhân cơ hội này con sẽ danh chính ngôn thuận xây dựng đại nghiệp của Lô Châu ta!”

Dương Hạo dời lầu xuống nhà, hắn nói là đã bái Mộc Đoàn Luyện làm nghĩa phụ, các quan lại không rõ chân tướng cũng biết mối quan hệ gi­ao tình cùng vào sinh ra tử giữa Dương Hạo và Mộc đại nhân. Hiện giờ đại nhân đã là quan thái thú, thế mà không những rất coi trọng người cũ, thấy hắn không có nơi nương tựa còn bái ngài làm nghĩa phụ, làm tròn đạo hiếu của người con, thật là cảm động!

Dương Hạo cũng không nói nhiều lời, dẫn đầu đoàn tùy tùng trở về nha phủ.

Ngồi vào vị trí quen thuộc, trước mặt vẫn là khuôn mặt quen thuộc ngày nào, đôi mắt vẫn chan chứa tình yêu thương, nó khác xa với ánh mặt của một vị quan đại thần của Lô Châu.

Giờ hắn đã trưởng thành, không còn là bày tôi tớ nhà Bá châu mà giờ đã ngồi lên ngai vàng, trở thành bậc anh hùng một phương. Hai năm trở lại đây, hắn chu du thiên hạ, văn võ song toàn, đã gặp không biết bao nhiêu loại người. Hắn cũng đi qua ba nước, đã từng được diện kiến qua ba vị vua, ba vị hoàng hậu, đã đấu trí đấu tài cùng bọn họ, tầm mắt được mở rộng, suy nghĩ thấu đáo hơn, và có nhiều điểm khác biệt.

Dương Hạo ngày xưa chỉ là một vị quan lục phẩm tri phủ bình thường, giờ ngồi ở đại từ đường này, chẳng khác gì như nhân nghĩa đại ca ngồi trong tụ nghĩa sảnh, sự thân tình thì có thừa nhưng khí thế lại không đủ. Ngay cả bộ quần áo xanh hắn mặc cũng không làm nổi bât vẻ uy nghiêm đó, nữa là làm cho các quan nể phục.

Giờ đây, hắn là tiết độ sứ Hoành Sơn, thái úy Kiểm Hiệu, là vị đại quan văn võ song toàn, cử chỉ hành động đều tỏ ra rất oai phong lẫm liệt, trên người luôn khoác chiếc bào phục vàng. Hắn như đã trở thành người khác, cử chỉ đều rất phong độ, mặc dù miệng nói cười nhưng luôn có một thế lực vô hình nào đó làm các tướng lĩnh quan quân luôn khiếp sợ hắn, nể phục.

Hai năm nay, họ đã làm rất nhiều việc, mọi việc đều làm vì Dương Hạo. Trong khi Dương Hạo lại không ở Lô Châu. Cho dù Lý Quang Sầm , Ninh Thừa Tông có giỏi thu phục lòng người, giỏi thu thập binh lực đến mức nào, mà người tin cậy không ở đó, thì đối với Dương Hạo điều đó thật là vô nghĩa, chỉ là hư ảo mà thôi.

Nhưng bây giờ, Dương Hạo đã trở lại rồi, viên đá thô trước kia đã được mài giũa thành một viên ngọc quý, đối với họ mà nói, tự nhiên có ý nghĩa trọng đại khác thường. Đó là điều mà bọn họ vô cùng mong chờ. Hai năm qua, tất cả mọi bí mật đều đợị Dương Hạo mở ra. Tương lai tốt đẹp của bọn họ đều chờ đợi ở Dương Hạo.Tất cả đều mong mỏi, chờ đợi . Điều bọn họ muốn nghe nhất đó chính là Dương Hạo đích thân nói ra những lời mà họ muốn nghe. Đó sẽ là những câu nói làm thay đổi vận mênh ở Lô Châu này.

Nhưng Dương Hạo lại là người bình tĩnh hơn bất cứ ai, hắn kể lại với mọi người về những việc hắn trải qua 2 năm vừa qua, nhưng những dự định ở Lô Châu sau này thì hắn một chữ cũng không hề nhắc đến, cũng không nói một chút về những việc bí mật đã làm hai năm qua ở Lô Châu. Điều đó làm cho quan quân Lô Châu thấp thỏm không yên.

Chương 411: Nghĩa nặng tình thâm (1).

Dương Hạo không hề để tâm tới phản ứng của quần thần, hắn tỏ ra như không biết chút gì hết. Thế còn chưa vững chắc và lực còn chưa hùng mạnh, hà cớ chi mà phải vội vã, từ khi sinh ra số mệnh hắn luôn bị sắp đặt, nhưng từ giờ trở đi, hắn sẽ nắm giữ số phận của chính mình, làm theo ý mình, từ việc xây dựng nha môn, liên kết các thế lực, đến thâu tóm quyền lực chính trị ngoại gi­ao. Một khi đã quyết thì sẽ thành.

Quan quân lùi về trong tâm trạng thất vọng và nghi ngờ. Bọn họ lũ lượt đi gặp Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ, Mộc Ân để tìm hiểu xem Dương Hạo đang nghĩ gì và cùng nhau thương lượng kế sách. Đại giáo đường bỗng trở nên vắng lặng.

Dương Hạo nhìn xuống, chau mày. Có một người mà hắn vẫn chưa nhìn thấy, người này ở Lô Châu có quyền lực rất lớn, tuyệt nhiên không phải là người vô danh, tại sao lại không ra mặt?. Hơn nữa Dù là Mộc Ân hay là nghĩa phụ, trong những lúc nói chuyện kín với nhau cũng không hề nhắc đến. Rốt cuộc là có chuyện gì đây?

Đinh Thừa Tông!

Suy nghĩ của Đinh thiếu gia, hắn là người rõ nhất. Hắn cũng biết, cả đất Lô Châu này không có ai có thể giúp hắn gây dựng cơ nghiệp tốt bằng Đinh Thừa Tông. Mọi ân oán giờ đã là mây khói. Huynh muội Đinh Thừa Tông đã bí mật giúp hắn rất nhiều việc. Chỉ mong xóa bỏ mọi thù hằn trước kia, vậy tại sao lại không muốn gặp mặt hắn?

Dương Hạo suy nghĩ rất nhiều lần nhưng vẫn không hiểu tại sao lại như vậy, hắn lắc đầu không hiểu: “Ngài đã bình tĩnh như vậy, thì ta sẽ không quan tâm nữa, nhưng ta không tin, giờ ta đã trở về Lô châu, ngài tránh không gặp mặt ta mà có thể giải tỏa được mọi nghi hoặc, và tiếp tục làm quân sư bí mật của ta.

Hắn phất áo toan đứng dậy, ngước nhìn đại sảnh, đột nhiên nhìn thấy hai con người đứng im lặng bất động, hóa ra là vợ chồng Kha Trấn Ác.

Dương Hạo cau mày, ngạc nhiên hỏi : ” Hiền Thù Lệ còn có việc gì nữa ư?”

Vợ chồng Kha Trân Ác nhìn nhau băn khoăn, Kha Trấn Ác quỳ xuống, Dương Hạo không hiểu gì nói : “Kha Đại nhân, như vậy là sao?”

Hắn lấy làm ngạc nhiên, hai bàn tay bám chặt vào thư án.

Kha trấn Ác chắp tay nói: “Kha mỗ…….xin thái úy tha tội”

Dương Hạo ngồi xuống, mỉm cười đáp: “Kha huynh nói gì vậy, Kha phu nhân với phu nhân Diễm Diễm của ta là bạn khuê môn. Kha huynh lại là người thân cận của ta, chúng ta đã đồng cam cộng khổ, nghĩa nặng tình thâm. Hơn nữa đã vì ta mà làm bao chuyện, công của huynh quả là rất lớn. Bản quan khi không có ở đây, Hiền Thù Lệ, Mộc Bổn và Mộc Ân đã giúp ta rèn luyện binh sĩ, giúp nhân dân Lô Châu tránh được loạn lạc của bốn phương, có thể nói là công lao quá lớn. Những gì mà ta làm cho nhân dân Lô Châu còn kém quá nhiều so với Hiền Thù Lệ, Hiền Thù Lệ công lớn hơn cả lỗi, hà tất có lỗi gì?”

Hắn nói vậy khiến cho Kha Trấn Ác không biết để mặt vào đâu, ấp úng nói không ra lời. Mục Thanh Hoàn lườm người chồng vô dụng của mình, bước nhanh lên phía trước, quỳ trước mặt Dương Hạo, lấy hết dũng khí nói: “Đại nhân, Mộc Thanh Hoàn xin được nói thẳng. Mộc Thanh Hoàn vốn ở Hạ Phủ Châu, luôn chịu sự quản chế của Phủ Cốc.

Tiểu đệ của Thanh Hoàn cũng phò giúp đại nhân, Mộc Kha Trại ta cũng một lòng phò giúp đại nhân, cũng có ý là để chăm sóc tiểu đệ. Nên vợ chồng ta mới đến Lô Châu, thật lòng rất muốn giúp đại nhân. Nhưng nhà của Thanh Hoàn vẫn ở Phủ Châu, người của Tùy Phong đường đã tìm thấy vợ chồng chúng ta, muốn chúng thông báo nhất cử nhất động ở Lô Châu. Song mẫu của vợ chồng ta vẫn đang ở trong tay họ, nên đâu dám từ chối, nên… nên…”

Kha Trấn Ác lấy hết dũng khí nói: “Nên vợ chồng chúng ta là tai mắt của Phủ Châu, hai năm qua bất kể chuyện gì lớn bé to nhỏ, chúng ta đều thông báo về Phủ Châu, vợ chồng ta đã phụ lòng tin của đại nhân, muốn chém muốn giết, xin đại nhân quyết định.”

Nói xong, Kha Trấn Ác rút đao ra, dâng hai tay đưa về phía trước.

Dương Hạo nhìn hắn hồi lâu, đột nhiên cười to, đứng dậy khỏi thư án, mặt mày tươi tỉnh nói: “Lô Châu từ trước đến giờ chưa bao giờ coi Phủ Châu là kẻ thù, có tin gì của Lô Châu mà không thể để cho Phủ Châu biết. Hai vợ chồng ngươi hai năm qua đã lập không ít công lao cho Lô Châu, công nhiều hơn tội, cũng là do người nhà bị khống chế, chứ không Kha ngươi cũng sẽ không bao giờ làm như vậy, ngươi có nỗi khổ riêng của ngươi, có thể nói thẳng với ta như thế này là ngươi đã coi ta như huynh đệ rồi, sao ta có thể giết ngươi được.”

Dương Hạo đưa tay ra đón lấy thanh kiếm của Kha Trấn Ác, tay của Kha Trấn Ác bỗng dưng nhẹ bỗng. “Keng”, thanh gươm lại được Dương Hạo cho vào bao đeo bên hông Kha Trấn Ác.

Dương Hạo đỡ hai vợ chồng họ dậy, thản nhiên đáp: “Phủ Châu đối với Lô Châu luôn là người đồng hành, nhưng về nguyên tắc để đề phòng , khi xuất hiện một con mãnh hổ, bất kể là thù hay bạn, phải phòng bị là điều tất nhiên. Kha huynh vì người nhà mà chịu thiệt, bị ép tiết lộ tin tức về Lô Châu, không thể nói là không có lỗi, nhưng ngươi công nhiều hơn tội, Dương mỗ sao dám trách tội ngươi. Nếu có tội thật, cũng là do Dương mỗ không suy nghĩ thấu đáo, khiến cho Kha huynh phải chịu tội, Dương mỗ cũng gánh một phần trách nhiệm.”

Kha Trấn Ác là một nam tử hán rất thẳng thắn, nghe được những lời này, cảm động đến tuôn trào nước mắt, ấp úng không biết nói gì mới có thể bày tỏ niềm xúc động của mình.

Dương Hạo cười tươi đáp: “Bản quan trên đường về, đã gặp Chiết đại tướng quân, và xây dựng đồng minh với Phủ Châu. Vài ngày nữa, Chiết đại nhân sẽ đích thân đến Lô Châu, khi đó ta sẽ xin với Chiết tướng quân cho gia quyến của Kha huynh và Kha phu nhân được chuyển đến Lô Châu, ha ha, đương nhiên nếu hai vị đây không muốn rời xa quê hương, Dương mỗ sẽ cho các vị về, tuyệt đối không níu kéo. Quyết định như thế nào là do các vị.”

Kha Trấn Ác vô cùng kinh ngạc, hắn ban đầu đi theo Dương Hạo là thành tâm thành ý, sau này do sắp đặt của người nhà nên không còn cách nào khác. Nhưng hắn vốn là kẻ quang minh lỗi lạc, làm một kẻ tiểu nhân đứng trong bóng tối khiến hắn luôn bị dày vò.

Vậy nên khi Tùy Phong ra mệnh lệnh, sai hắn đi nói hết với Dương Hạo, mặc dù biết lành ít dữ nhiều song Kha Trấn Ác vẫn không do dự mà nói thẳng hết, thật không ngờ Dương Hạo lại khoan dung như vậy.

Kha Trấn Ác trong lòng vô cùng cảm động, nhưng vẫn do dự không thể đưa ra quyết định: “Đại nhân rộng lượng như thế này, làm sao Kha mỗ dám không dốc sức dốc lực cho huynh. Nhưng tất cả những gì mà từ trước đến nay ta làm, đại nhân……….vẫn tin tưởng ta sao? Sao lại không lo lắng về ta?”

Dương Hạo cười lớn: “Dương Nghiệp Bảo vốn là nước Hán, khi Triệu quan gia phạt Hán gặp khó khăn cũng vẫn phải viện đến sự trợ giúp về người ngựa của Dương Sùng Ngọc ở Lô châu đó sao? Bọn họ vẫn là huynh đệ, đó chính là nghi người thì sẽ không dùng, đã dùng thì không nghi ngờ. Trong lòng Dương Hạo, Kha huynh luôn là một trang nam tử hán, đầu đội trời chân đạp đất, trước đây cũng thế, sau này cũng thế., Dương Hạo không những cần đến huynh mà còn không tính đến phân chia binh quyền địa vị, lập công thì được thưởng, luận theo công lớn nhỏ mà ban,tuyệt đối không nuốt lời”

Kẻ sĩ có thể chết vì người hiểu mình, nghe Dương Hạo nói xong những lời này, hai hàng nước mắt hắn giàn giụa, liền quỳ xuống nói: “Như vậy, Kha mỗ cả đời này sẽ hết lòng vì thái úy, đến chết cũng không hối hận”

Dương Hạo tiễn hai vợ chồng họ Kha ra tận cổng nha môn, nhìn bóng bọn họ rời xa , hắn liền nhau mày: “Nha đầu thối, ta vừa trở về đã đi nước cờ này sao? Vừa để thử lòng chân thành vừa để thăm dò. Nếu ta giết bọn họ, sẽ là không có thành ý với Phủ Châu, hơn nữa vừa trở về đã giết tướng quân, mà tội danh lại là nội gián,liệu cái đất Lô Châu còn đứng vững không?

Bọn họ là người của ta, làm những gì, đối với ta có bao nhiêu phần trung thành chẳng lẽ ta ko biết sao? Thật đáng coi thường những tên đàn ông như vậy! Bổn quan đây giơ cao đánh khẽ, như thế này ta lại có thêm được hai kẻ chân thành với ta, vậy chẳng phải các người đình đem rắc rối đến cho ta nhưng lại vô tình tặng ta món của hồi môn lớn sao? ha­ha……….”

Nghĩ đến hôm bị Chiết Tử Du truy sát dọc đường, cả dọc đường nói những lời khiến nàng đỏ mặt, Dương Hạo bỗng nhiên cười mỉm.

Hắn đã biết cách đối phó với cô nương Tử Du rồi, cô nương đó nhẹ không ưa, lại ưa nặng.

Cứng nhắc một chút là loại đàn ông mà cô nương ấy chưa bao giờ gặp, sẽ khiến cho nàng không có cách nào đối ứng; Mạnh bạo một chút cũng là cách mà nam tử hán không bao giờ dùng với những cô nương có tính cách kiêu kì cao sang như thế này, hai loại nam tử có tính cách này đều là những người mà Tử Du chưa gặp bao giờ, khoảng cách nảy sinh tình cảm, mới lạ thì sâu sắc, hậu nhân quả là không lừa ta.

Ha ha, nếu như môt người hiểu biết, thông minh như cô nương đứng trước một người như công tử đây văn võ song toàn, kiến thức sâu rộng mà biết được vị tiểu tiên nữ trong mắt họ, kì thực trong lòng thích những kẻ thô lỗ, vô lại một chút với họ thì không hiểu liệu những vương tôn công tử đó sẽ kinh ngạc đến mức như thế nào…….

Dương Hạo dường như cảm thấy địa vị, quyền lực và dã tâm ngày càng nhiều, hắn dần dần hiểu ra cách dùng tâm cơ, cũng bắt đầu có dã tâm hung hăng hơn, ngay cả dã tâm chinh phục con thiên nga cô độc xinh đẹp Chiết Tử Du.

Đấu với trời, với đất với Chiết Tử Du vô cùng hứng thú. Tiểu nương tử, còn chiêu gì, nàng mau thể hiện hết ra đi!

Dương Hạo đang suy nghĩ, đắc trí mãn nguyện quay đầu lại, chợt nhìn thấy Mục Vũ đang đứng ngay đằng sau, đang cảm kích nhìn hắn, là người tin cẩn của Dương Hạo, mọi hành động của Phương Tài và vợ chồng Kha Thị đều bị Mục Vũ theo sát.

Dương Hạo không nhắc lại chuyện vợ chồng Kha Thị nữa, hắn vỗ vai Mục Vũ, cười nói : “Giờ ta đã lấy lại được cơ đồ, hà cớ gì ngươi vẫn theo ta? Sư tỉ ngươi Mục Y Kha ở bên nghĩa phụ ta, hãy đi thăm nàng ta đi.

À, phải rồi, nhà người tiện đường đi tìm Lão Lâm, bảo hắn ta chuẩn bị cho ta.một chút, ngày mai ta sẽ lên chùa Khai Bảo, cầu phật Bát Thổ Hoat.

“Tuân chỉ” Mục Vũ đáp lại một tiếng, cúi đầu lui ra ngoài.

Dương Hạo vội đi ngay vào nhà sau, đến cửa Nguyệt Lượng đột nhiên đứng sững lại, phía trong hậu viện có bốn vị phu nhân, người nào mà có được bốn vị phu nhân xinh đẹp như vậy, có thể xem như có phúc lắm rồi, nhưng…Hậu viện lại bài bố không tốt, vậy thì nhà sẽ chẳng được yên. Oa Oa và Diệu Diệu đều là những người tính tình thùy mị nết na, thông minh lanh lợi. Trước đây thì bọn họ đều lần lượt sống cùng Đông Nhi và Diễm Diễm, cũng chẳng hề có xích mích gì. Nhưng giờ đây, đối diện với Đông Nhi và Diễm Diễm lại không thể tùy ý như trước nữa, cứ phải dòm trước sau, sợ ai đó lại không vui mà làm mất lòng người ta.

Dương Hạo nghĩ đi nghĩ lại, rốt cục vẫn chưa biết làm sao, trong chuyện trong nhà còn không lo huống hồ đi lo cho thiên hạ? Lo chuyện trong nhà trước đã”

Chương 411:Nghĩa nặng tình thâm (2).

Dương Hạo nhẹ bước theo lối vào hoa viên, ngồi yên lặng một lúc, rồi gọi to : “Người đâu, mời phu nhân ra hoa viên.”

Trong lúc đó, người đầy tớ mang một ấm trà nóng đi tới, Dương Khiết nói, âm thanh giòn giã : “Mấy vị phu nhân đang bận tay rồi, bây giờ mời đại nhân uống chén trà trước, rồi xin hãy ngồi đây đợi “.

Dương Hạo ngồi trong phòng, uống no một bụng nước vậy mà bốn vị phu nhân vẫn không xuất hiện, không chịu nổi nữa, liền quay ra hỏi Hạnh Nhi: “Mấy vị phu nhân hiện ở đâu?”

Hạnh Nhi mặt tươi cười nhìn hắn nói: “Lão gia cứ yên tâm. Nhất phu nhân, nhị phu nhân, tam phu nhân, tứ phu nhân chút nữa thôi sẽ ra yết kiến lão gia.

Dương Hạo nghe xong toát mồ hôi, may mà không có ngũ phu nhân, nếu thêm Tiểu Phan, chắc hắn đã thành đại nhân Tây Môn rồi. Hắn vội vàng hỏi: “Cái gì mà nhất, nhị, tam, tứ phu nhân, cái này là do ai sắp xếp vậy?”

Hạnh Nhi chớp chớp mắt nói: “Là mấy vị phu nhân tự thương lượng ạ”

Dương Hạo nghi ngờ hỏi: “Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Miêu Miêu, thứ tự như thế, đúng ko?”

Hạnh Nhi vỗ tay cười tươi: “Lão gia thật anh minh, ngài đoán đúng rồi ạ”

Dương Hạo thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Phá bỏ quan niệm gi­ai cấp phong kiến, gánh nặng đường xa đây”

Hắn đứng dậy, vẫy tay nói: “Đi, đưa ta đi gặp bọn họ”

Hạnh Nhi khó xử đáp” “Lão gia, các phu nhân đã dặn dò, muốn lão gia..”

Dương Hạo trừng mắt nói: “Các nàng ấy dặn dò ngươi chứ không phải dặn dò ta. Ngươi mau đi trước dẫn đường đi, nếu không mai ta sẽ gả ngươi cho tên Mộc Ân thô lỗ đó.”

Hạnh Nhi chớp chớp mắt, đáp: “Người mà lão gia nói là Mộc Đoàn Luyện sao? Nô tì nếu được gả cho một vị tướng quân, quả là phúc mấy đời của tiểu nhân.”

Dương Hạo mặc nhiên đáp: “Mộc Đoàn Luyện rất thích đánh vợ, hắn đã đánh chết bốn người, đánh đuổi ba người, nếu ngươi đồng ý, ngày mai ta sẽ nói với người nhà ngươi, hy vọng ngươi có thể kiên trì đến lúc chết.”

“Hả?” Hạnh Nhi vội vàng xua tay: “Nô tì nghĩ rồi, nô tì muốn hầu hạ lão gia cả đời, không muốn lấy chồng.”

Dương Hạo cười to: “Còn không mau dẫn đường?”

Hai người cười nói thật thật giả giả, đi ra khỏi phòng khách, đi qua chỗ ngoặt hành lang, vòng qua hòn non bộ, đi qua vườn hoa, liền đến phòng bếp Tây Sương, từ đằng xa đã ngửi thấy mùi thơm nức mũi, Dương Hạo liền hỏi: “Phu nhân đang bày tiệc rượu sao?”

Hạnh Nhi bĩu môi đáp: “Dạ vâng, phu nhân muốn cho lão gia ngạc nhiên nên dặn nô tì không được nói ra, nhưng lão gia cứ nhất định muốn xem.”

Trong nhà có người trên kẻ dưới, có tôn ti trật tự, dường như rất thích hợp với một gia đình thời đại này, rõ ràng thê thiếp đủ cả, còn muốn bình đẳng với nhau nữa, chẳng phải ta tự mình chuốc khổ ư?

Nhìn thấy cảnh tượng đầm ấm sung túc trong bếp, suy nghĩ của Dương Hạo có phần bị lay động. Hắn đi vào trong bếp, bốn vị phu nhân đang tập trung chăm chú không ai để ý hắn đang bước vào. Bỗng có người reo lên một tiếng: ” Đại nhân, ngài về rồi sao?”

Dương Hạo nhìn kĩ thì nhận ra đó là Diệp Đại Thiếu và Diệp Chi Toàn ngồi đó, ba mặt nhìn nhau. Trong góc bếp chất hai đống củi lớn, họ vừa vứt thêm củi vào bếp, mặt nhễ nhại cuốn đầy bụi khói bếp.

“Quan nhân.” Đông Nhi vội vàng lau tay đứng dậy, Oa Oa đỡ lấy chiếc môi cơm cho nàng, vừa nhanh tay đảo thức ăn vừa ngoài đầu vui vẻ cười với Dương Hạo.

Đông Nhi nói trách móc : “Các tỉ muội nói phải tự tay làm một bữa tiệc thịnh soạn tiếp đại nhân trở về, còn đặc biệt dặn dò Hạnh Nhi nếu đại nhân có trở lại từ đường thì hãy mời ra ngoài hoa viên nói chuyện, sao đại nhân lại tới đây?”

Dương Hạo hít một hơi rồi cười nói : “Quân tử sao lại không được vào bếp? Ha ha, đại nhân nhà các nàng há không phải là quân tử ư? Đông Nhi, nàng đang mang thai, sao lại làm việc vất vả như vậy?”

Đông Nhi cười nói : ” Cũng không có gì ạ” vừa nói nàng vừa xoa tay vào bụng, trên mặt rạng rỡ nét hạnh phúc của người mẹ. Nhẹ nhàng nói: “Thiếp lúc ở Khiết Đan được nhìn thấy những người phụ nữ nơi đây mang thai vẫn cưỡi ngựa săn bắn. Thiếp mới được một tháng, chỉ làm một số việc vặt, không có gì là mệt cả, thưa đại nhân.”

Dương Hạo nhìn sắc mặt nàng, quả nhiên khí sắc rất tốt, vừa cười vừa nói : “Vậy thì tốt, nhiều người mang thai chỉ ngửi chút mùi dầu mỡ là đã không chịu được, không giống như nàng, đứa con trai này của ta nhất định sẽ rất gan dạ.”

Đông Nhi nghi ngờ nhìn Dương Hạo : “Quan nhân làm sao biết được đó là con trai, không chừng lại là con gái đấy.”

Dương Hạo nói : “Con gái thì đã sao, đều là cốt nhục của Dương Gia, dù là con trai hay con gái đều tốt cả mà”

Oa Oa và Diễm Diễm ngưỡng mộ nhìn Đông Nhi ngưỡng mộ rồi lại nhìn Dương Hạo, nhìn đến nỗi hắn thấy nổi da gà, bụng nghĩ mấy nha đầu này chắc đang mong được sinh con cho hắn, phu quân đây vất vả cực nhọc thật không uổng phí, nhưng bụng các nàng chưa phình ra thì đó là do các nàng, nhìn ta làm cái gì?”

Dương Hạo bước tới và ngắm nhìn bàn ăn được bày biện đẹp đẽ, liền tiện tay gắp thử một miếng, từ từ nhai và cảm nhận hương vị của nó, xong hỏi : “Đây là món gì vậy?”

Đông Nhi hai má ửng hồng nói : “Đây là Bát Thao Điểu, đây là tay thiếp làm nhưng do Oa Oa nghĩ ra đấy ạ.”

Oa Oa khẽ liếc nhìn Dương Hạo, hỏi : “Có hợp khẩu vị quan nhân không ạ?”

Dương Hạo lập tức gật đầu : ” Tay nghề cừ đó, rất ngon”

Ngài bước về phía Oa Oa mỉm cười nói lớn : “Vậy thì có đi có lại, lần này là nàng mời ta, lần sau ta sẽ mời nàng.”

” Dạ?” Oa Oa ngớ ra một lúc, rồi lập tức hiểu ra, hai má nàng đỏ lên, mím môi, đầy tính ý nói : ” Bữa tối nay như vậy là tốt rồi, đại nhân hãy nhớ lời hứa đấy.”

Dương Hạo lập tức nói : ” Đây không phải là trò đùa, ta sẽ không bao giờ gạt nàng đâu”

Diệu Diệu liền cảnh giác nói : “Đại nhân nói gì ạ?”

Dương Hạo ho lên một tiếng, nhìn bàn đầy thức ăn rồi nói: “Nương tử chuẩn bị món ăn gì cho ta vậy?”

Đông Nhi hớn hở nói : ” Hôm nay thiếp đã chuẩn bị Bách Điểu Yến, mời đại nhân thử nhìn xem, đây là bồ câu hầm ngũ vị hạnh, thịt thú rừng hầm cay, canh long phi… đều rất tươi ngon đấy ạ.”

Các món ăn làm từ phi điểu một món ăn được người Tống rất yêu quý, và chúng cũng rất đắt. Đây là những món ăn được làm từ những loài chim rất hiếm”. Dương Hạo nghĩ tới tấm chân tình của các vị phu nhân, cảm động nói : ” Để làm được những món như này phải tốn nhiều công sức lắm phải không?”

Diễm Diễm nói : “Không có gì là vất lắm đâu ạ, biết đại nhân trở về, tỉ muội thiếp rất vui mừng, nghĩ rất lâu mới có được những món ăn này tiếp đãi đại nhân. Đây là chút tấm lòng mà thôi”

Diệp Chi Toàn nhăn mặt nói : “Đương nhiên phu nhân không vất vả gì, lũ chim này đều do thuộc hạ vất vả tìm kiếm, mấy vị phu nhân còn làm tội nô tài, bắt nô tài nấu. Đại nhân, từ trước nô tài chưa từng làm những món này bao giờ.”

Đường Diễm Diễm nhìn hắn ta chằm chằm : “Chẳng phải do Lão Lưu Lỗ ốm hay sao? Chưa từng làm thì cũng sợ gì chứ? Mà chẳng phải ngươi đã làm rất tốt sao? Cho thêm ít củi vào, lửa nhỏ quá.”

Diệp Chi Toàn nhìn nàng, chẳng nói được gì nữa, lại ngoan ngoan cho củi vào bếp.

Dương Hạo nhìn ông lão, đột nhiên lại nhớ tới Bích Túc liền hỏi : ” Bích Túc đâu rồi? Chẳng phải ta đã sai ngươi và hắn cùng trở lại cơ mà?

Diệp Chi Toàn ngẩn ra một lúc : ” Đại nhân vẫn chưa nhìn thấy hắn ư? Ồ, thưa đại nhân có lẽ hắn ta đang sau núi luyện khí công, tên tiểu tử này giờ như một kẻ điên vậy, hễ cứ ai có món nghề gì là hắn lại luyện mỗi ngày mà chẳng thèm bận tâm tới chuyện gì, ắt hẳn hắn chưa biết ngài đã trở về Lô Châu.”

Dương Hạo trong lòng lắng xuống :”Bích Túc giờ ra sao rồi?” nghĩ vậy bèn vội nói :”Đi, đưa ta đi, chúng ta cùng đến thăm Bích Túc”.

Diệp Đại Thiếu vừa nghe thấy vậy đã nhảy lên vì vui mừng. Dương Hạo nhìn sang phía những hiền thê của mình nhẹ nhàng nói: ” Ta đi một lát rồi sẽ quay lại”

Các nàng đừng giận ta nữa, chúng ta còn cả một tương lai dài sống cùng nhau.”. Đứng trước mặt Diệp Đại Thiếu, Dương Hạo bỗng nói ra những câu nói đầy tình ý như thế làm cho những người có da mặt dày như Oa Oa cũng phải đỏ lên. Cứ nghĩ đến câu ” cả tương lai còn dài sống cạnh nhau” làm cho người còn trẻ như Đông Nhi cũng phải nghĩ đến nhiều chuyện linh tinh.

Sau núi Khương Trại chính là nơi người Lô Châu bí mật chế tạo vũ khí, cửa vào ở sau núi chính là nơi tộc người nhà Lý Quang Sầm sinh sống. Ngay cả người Khương ở những vùng có núi che chắn khác cũng không có cách nào vào sâu được huống hồ là nhưng lão bá tánh người Hán bình thường. Vì thế nơi bí ẩn này trước nay không có người nào biết. Nhưng khi đi ngang qua Khương Trại, tiến sâu vào trong núi sẽ nhìn thấy một con đường khá bằng phẳng đã được làm từ rất lâu rồi. Đá được xếp thành hàng rất thuận tiện cho việc vận chuyển vũ khí và nguyên liệu.

Trong khe núi người Khương Trại đã cử người canh gác lối ra vào, Diệp Chi Toàn rất thông thạo việc đi lại ở nơi này, hắn ta dẫn Dương Hạo lên núi, chỉ về phía tay trái nói: “Đây là nơi Bích Túc thường luyện võ, bây giờ hắn ta quá si mê võ học đã dựng nhà dưới gốc cổ tùng để ở, không gi­ao du với mọi người, mỗi ngày ba bữa đều do các binh lính trong núi mang tới, hắn ta chỉ ở đó luyện võ, không màng tới thế sự.

Dương Hạo thở dài nói: ” Bích Túc vốn là một tên trộm phiêu bạt khắp nơi, không ngờ tình cảm lại sâu đạm như vậy, chỉ là bây giờ trái tim hắn ta chứa đầy thù hận, nếu Thủy Nguyệt trên trời có linh chắc cũng không muốn hắn ta như vậy”

Diệp Chi Toàn gượng cười nói: ” Cũng chẳng còn cách nào ta cũng đã nhiều lần khuyên răn nhưng hắn ta chỉ để ngoài tai”

Hai người vừa đi vừa nói đã lên tới chỗ đất có địa hình bằng phẳng, nơi này cây cối thưa thớt chỉ còn một cây tùng lây năm, cỏ mọc phía trên đã bị dẫm ngả về một bên. Trước mặt có một lán gỗ. Phải chặt một cây tùng to khoảng 6 đến 7 người ôm mới dựng được cái lán này.Chiếc lán vừa nhỏ vừa thấp chỉ đủ để che mưa gió, cửa vẫn mở nhưng không có ai ở trong cả.

Diệp Chi Toàn ngạc nhiên nói: “Kì lạ hắn ta đi đâu rồi từ trước tới nay đều không hề rời khỏi đây mà

Dương Hạo bỗng nhiên vỗ vào vai Diệp Chi Toàn, hắn ta liền quay đầu lại thì nhìn thấy Dương Hạo đang ngước lên phía trên, hắn ta cũng ngửng đầu lên liền mở to mắt kinh ngạc. Ở độ cao khoảng hơn mươi trượng có hai mươi mấy cột trúc dài đặt xen kẽ với những hàng cột nhỏ và ở giữa có vài cây gỗ lớn, có thể thấy rất rõ những cây cột trúc đó rất trong và mịn nhưng lại không có gì trói buộc. một người mặc bộ y phục màu xám có sọc lớn, trong tay cầm một chiếc cung dài đang không ngừng bắn tên ngang dọc lên các cây cột.

Cột trúc rung lên, lúc đó gió thổi làm cột trúc lệch khỏi vị trí, dưới chân hắn ta cũng bị lung lay. Người hắn gầy gò đi đôi giày vải giống như một con vượn đeo con thoi, lúc đó không một chút sợ hãi. Ở độ cao như vậy nếu có sảy chân ngã xuống nhất định sẽ bị tan xương nát thịt. Hai người đứng dưới gốc cây tùng vì thế không dám gọi to chỉ sợ là hắn ta giật mình ngã xuống.Người đó đi trên cây cột như đi trên đường bằng phẳng. Đi lại một hồi lâu rồi bỗng nhiên hắn dừng lại, rồi rất nhanh đưa tên lên bắn. Chiếc tên bay xuyên qua nhiều cây rồi trúng thẳng vào một cây to ở đằng xa, cái cây đó bị mất một miếng vỏ khá to và chảy ra rất nhiều nhựa.

Chương 412:Đòn cảnh tỉnh.

Dương Hạo lúc này mới thở phào cất tiếng gọi Bích Túc.

Người đó đi lại trong không trung nhảy lên những cây tùng trượt xuống đất, chỉ một lát đã leo đến hàng cây thứ hai. Diệp Chi Toàn càng mở to đôi mắt kinh ngạc nói: “Hắn ta, đó là công phu gì vậy, là thuật ẩn thân sao.”

Dương Hạo thật không tin được trên thế gi­an lại có loại công phu vậy, trên đường tới đây hắn đã gặp nhiều người với các đạo thần khác nhau biết được các ảo thuật ẩn thân và đã có tìm hiểu về nó. Nhưng trên đường tới đây một người bị hắn ta và Trúc Vận cô nương truy đuổi, hắn ném trả một viên đạn khói rồi chạy về hướng cây to đằng trước, rồi thần bí biến mất, nhưng cuối cùng vẫn bị Trúc Vận cô nương bắt được. Cách mà người đó chạy chốn có vẻ thần kì nhưng thực ra cũng không có gì là kỳ bí, trước khi ám sát, người đó đã sớm tạo cho mình một lối thoát. Chỗ cái cây đó lợi dụng địa hình địa vật, dưới gốc cây đã đào một cái hang động bên trên lấp đầy cỏ, bên dưới cũng phủ một lớp cỏ. Khi người đó ném đạn khói lợi dụng khói thu hút sự chú ý của quan binh đã nhanh chóng chui vào trong động; sau đó dùng cỏ dại đã chuẩn bị trước phủ lên mặt không để lại dấu vết gì, trong mắt người khác thì người đó thực sự đã biến mất bằng cách ẩn thân.

Dương Hạo tin rằng cách mà Bích Túc sử dụng cũng giống như vậy. Hắn mặc bộ y phục màu xám có những đường sọc lại thêm màu sắc của thân cây càng giống và dễ nhầm lẫn. Vì thế khi nhìn nơi hắn biến mất có thể tìm ra một số khe hở. Lúc này hắn đột nhiên cảm thấy như bị phát hiện lập tức quay người tránh đi, chỉ nhìn thấy đằng sau Bích Túc có một chiếc cung lớn.

Bích Túc lúc này mặt mũi bẩn thỉu, tóc tai bù xù lại gầy gò giống như người rừng. Nhìn thấy Dương Hạo hắn ta vui vẻ nói: “Đại nhân, cuối cùng người đã trở về, ta đã đợi người từ rất lâu rồi. Bao giờ thì chúng ta đi giết Triệu Quang Nghĩa?”

Dương Hạo nhìn hắn ta nghiêm mặt nói: “Bích Túc, người có chắc mình vẫn bình thường đấy chứ.”

Bích Túc lấy làm lạ hỏi lại: “Chỗ nào không bình thường chứ?

Dương Hạo cười lạnh lùng nói: “Ngươi xem vua một nước là kẻ trông coi việc chăn nuôi gia súc hay một người nơi thôn quê hay sao? Thị vệ đại nội hoàng cung đều được bố trí canh gác nghiêm ngặt có thể để ngươi tự do bay nhảy như vậy sao, có thể hành thích hoàng đế thì tuyệt đối không phải là một tên thích khách bình thường. Hãy đợi thuật ẩn thân cuả người luyện thành thục, cung tên ám khí sử dụng thuần thục hãy nói tới,còn nếu không thì chỉ là đi nộp mạng vô ích mà thôi”

“Triệu Quang Nghĩa đáng giết không phải vì hắn đưa binh đánh Gi­ang Châu. Chỉ mới bắt đầu cuộc chiến mà xương cốt binh sĩ đã chất thành đống vậy nói chi đến nhân nghĩa, nói đấu tranh để bảo vệ lão bá tánh, chỉ làm liên lụy đến những người vô tội mà thôi, những kẻ như hắn trong thiên hạ nhiều vô số nếu giết thì cũng không thể giết hết được. Hắn đáng chết là ở chỗ không nên nơi không cần dùng vũ lực thì hắn lại dùng vũ lực.”

Gi­ang Châu là căn cứ cuối cùng dựng cờ khởi nghĩa ở Gi­ang Nam, thành đã mất, Gi­ang Nam cuối cùng cũng đã thất thủ. Dù là muốn đánh nhanh hay là chỉ để khuếch trương thanh thế khiến quân Gi­ang Nam phải khiếp sợ thì không nhất thiết phải thảm sát lão bá tánh vô tội, những người trong tay không tấc sắt phòng thân. Hắn chỉ vì xả tư hận mà làm vậy, chúng ta dĩ nhiên cũng có thể trả tư thù. Nhưng phủ doãn Nam nha ngày xưa nay đã là hoang đế trung nguyên, ắt phải tính đến hậu quả, hắn ta không thể hành động lỗ mãng như vậy.”

Bích Túc tức giận nói: “Lẽ nào muốn giết hắn cũng phải đợi ngày hoàng đạo sao? Hắn dù có phòng thế nào thì cũng không thể phòng mãi được.Ta không tin là không có cơ hội giết chết hắn”

Dương Hạo cũng phẫn lộ nói: “Ngươi hãy nghĩ đi,nếu thất bại chẳng phải là có biết bao huynh đệ của ta và cả chinh ngươi nữa cũng sẽ phải bỏ mạng vô ích, làm vô số người phải chết như vậy để lại tái diễn một thảm kịch tàn khốc ư ? Ngươi vì tư thù mà cũng không từ bất kỳ thủ đoạn nào há chẳng phải cũng đê tiện như hắn sao? Thủy Nguyệt trên trời có linh nhìn thấy ngươi mất đi lí trí trở thành con người hèn hạ như Lý Quang Sầm liệu có đau lòng ? Ngươi tưởng chỉ luyện được một chút võ công như vậy là có thể giết được hoàng đế ư? Thuật ẩn thân của ngươi học của ai hãy kêu người đó tới gặp ta để ta xem người có thể thao tung được sinh tử của hoàng đế rốt cục là người như thế nào? Hà tất phải ẩn mình nơi hoang sơ cùng tận như vậy.”

Hắn ta nói tới đây rồi đưa tay rút một mũi tên từ sau vai Bích Túc, lấy tên làm kiếm rồi nắm chắc đuôi kiếm đâm về phía sau. Bóng người gần đó vội bay lên để tránh. Dương Hạo đuổi theo cứ thế người chạy người đuổi. Đến trước một cây tùng cổ, người đó thi triển thân pháp đu người rồi hướng sang bên cạnh để tránh. Dương Hạo chỉ cần vặn cổ tay mũi tên đã nằm gọn trên ngực của người đó.

Lúc này Dương Hạo mới quay đầu lại nhìn ngạc nhiên thất giọng nói: “Là cô nương”.

Người đó chính là Trúc Vận, nàng ta đang vận bộ thanh y. Lúc này mũi tên đang nhằm thẳng vào nơi cao nhất bên ngực trái của nàng, mũi tên đâm hơi sâu. Nếu đây không phải là một mũi tên sắc nhọn thì khung cảnh này sẽ rất dễ làm người ta siêu lòng.

Lúc này gương mắt thanh tú của Trúc Vận hơi tái đi vừa xấu hổ vừa giận dữ nói: “Đại nhân cả chặng đường người giả ngây dại quả nhiên chỉ là để ẩn mình, nếu sớm biết người kiến thức tinh thông, thân thủ phi phàm như vậy thì ta cần chi phải vất vả như thế chứ?”

Dương Hạo mỉm cười thu tay lại rồi đẩy mũi tên đâm thẳng về phía cây tùng :”Thì ra là Trúc Vận cô nương, võ công của cô nương là võ công đạo gia, ân sư Dương Mỗ cũng là chân nhân đạo gia. Ân sư chưa từng tu luyện kỳ môn Đôn Giáp và thuật ngũ hành lại càng không phải là người ngoại đạo, mà công phu của phật giáo và đạo giáo đều rất chú trọng tới việc tu luyện “lục thức” , công phu của cô nương vẫn chưa đủ để qua mắt ta”

Trúc Vận cô nương tất nhiên đã biết sư phụ của hắn ta là ai, mắt mở to và nói: “Lệnh sư là đại thánh đạo gia, dám múa rìu qua mắt thợ, Trúc Vận thật không biết trời đất gì.”

Dương Hạo liếc sang phía Bích Túc rồi quay lại hỏi: “Công phu này là cô nương dạy hắn ư?”

Trúc Vận trả lời: “Tiểu nữ từ Biện Gi­ang tới để hộ tống đại nhân trên đường đi, lại không hiểu gi về thuật ẩn thân cả làm sao có thể dạy cho hắn chứ”.

Trúc Vận liếc về phía Bích Túc rồi nói: “Đó là cha ta cùng với Lý Thính Phong đại nhân khi hộ tống Tôn đại nhân về Lô Châu đã nhận ông ấy làm đồ đệ , hôm nay ta chỉ thay mặt cho cha đến để thỉnh giáo chút võ nghệ của sư đệ mà thôi”

Dương Hạo tới bên cạnh Bích Túc nói: “Trong người Triệu Quang Nghĩa lúc nào cũng chứa đầy đại chí, tuy những năm gần đây hắn ở Nam Nha nhưng võ nghệ không hề bị giảm sút chỉ là không thể hiện ra bên ngoài mà thôi, võ công của hắn không hề thua kém ta. Nếu có cơ hội hành thích hắn thì đó sẽ là cơ hội duy nhất không có cơ hội thứ hai nữa.”

Bích Túc hai tay nắm chặt tức giận nói: “Không lẽ chỉ vì hắn đã là hoàng đế có quân lính bảo vệ nhiều mà ta phải từ bỏ việc báo thù hay sao?”

Dương Hạo giơ tay vỗ mạnh vào vai hắn ta rồi nói: “Thiên tử một khi phẫn lộ thì máu chảy thành sông. Triệu Quang Nghĩa đáng chết nhưng phải đợi cơ hội chín muồi mới có thể hạ thủ, Thủy Nguyệt trên trời cao đang theo dõi người, cô ấy không muốn ngươi tự làm mình khổ như vậy đâu, hãy kiên nhẫn một chút cơ hội chắc chắn sẽ tới.”

Bích Túc nhìn Dương Hạo rồi bình tĩnh trở lại, gật mạnh đầu: “Được , đại nhân chưa bao giờ lừa ta , ta tin tưởng người, sẽ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín muồi”

Dương Hạo vui mừng cười nói: “Ngày mai ta sẽ đi khai bảo thiền viện bái Đạt Thố Hoạt Phật, ngươi đi cùng ta chứ?”

“Không, ta phải ở lại đây” Bích Túc nói.

Dương Hạo ngắt lời hắn ta: “Ta nghe nói Đạt Thố Hoạt Phật là cao nhân phái mật tông, rất tinh thông thuật “đại thủ ấn”.

Nghe nói vậy hai mắt Bích Túc sáng lên liền nói : “Vậy ta sẽ đi”

Dương Hạo mỉm cười nói : “Vậy được sáng sớm ngày mai ta sẽ tới phủ của ngươi”. Hắn nhìn trên dưới Bích Túc một lượt nói : “Phải sửa lại đầu tóc, tắm rửa, thay y phục gọn gàng một chút vì Hoạt Phật là người rất coi trọng lễ nghĩa đấy.”

Trúc Vận đứng bên cạnh Bích Túc ánh mắt thể hiện cảm thông, vì sau khi tới Lô Châu nàng đã được nghe cha kể về thân thế của vị tiểu đệ này. Vì vậy nàng đã không ngại khổ cực nhanh chóng lên núi thay cha dạy võ công cho hắn, giúp hắn sớm hoàn thành tâm nguyện.

Dương Hạo dùng võ thuật để dụ dỗ hắn, dù không có ý định bắt hắn phải thay đổi môn phái nhưng Trúc Vận vẫn cảm thấy không vui. Nhưng khi nhìn thấy hình thù Bích Túc giống như một người hoang vậy, nàng đã thay đổi chủ ý , hãy để hắn ta đến điện đường phật gia nghe giáo huấn, như vậy sẽ giúp hắn hóa giải đi thù hận trong lòng.

Nàng bước nhẹ lên phía trước, nhẹ nhàng nói với Bích Túc: “Dù những ngày tiếp theo có như thế nào, đệ cũng không nên tự giày vò mình như thế. Dương thái úy lần này tới đây, trên đường đi bị nhẫn giả Đông Doanh truy sát, nhẫn thuật của bọn chúng tuy không ở mức cao siêu nhưng sử dụng vũ khí và thủ đoạn rất linh hoạt. Trên đường gi­ao thủ với bọn chúng sư tỉ đã lấy được một số vũ khí, cũng có biết đôi chút về cách sư dụng, tỉ sẽ dạy lại cho đệ, sau này đệ sẽ có thể sử dụng chúng thành thạo.”

Sáng sớm hôm đó , Dương Hạo mặc bộ thường phục có ống tay rộng nhưng rất vừa người,búi tóc và cài chiếc trâm bồ ngọc bích, tinh thần phấn chấn bước ra khỏi phủ.

Sau bữa tiệc đặc biệt “bách điểu yến” ngày hôm qua, không biết Dương đại nhân có mở pháp hội công khai không nhưng ngài đã cùng mấy vị hiền thê mở “đại điểu yến” như bữa tiệc để tiếp đãi những nhân sĩ đã bôn ba hàng nghìn dặm khắp tam quốc. Tiếp mấy vị hiền thê ăn uống no, say thỏa mãn việc tư phòng, điều này không thể để cho người ngoài biết được. Tóm lại cô dương bất trường cô âm bất sinh nhìn Dương thái úy khí sắc hồng hào, đầy khí khái ắt nghĩ tối qua ngài đã “nghỉ ngơi” rất tốt.

Bá quan văn võ Lô Châu mặc thường phục, dáng vẻ có chút e ngại đang đứng ngoài cửa phủ, Dương Hạo trông thấy bọn liền tiến tới cùng họ bộ hành hướng về phía khai bảo thiền viện, được xây dựng trên ngọn tháp cao nhất của Lô Châu.

Dương Hạo biết người hôm nay gặp chính là lãnh tụ tông giáo, người có đức cao vọng trọng. Ở vùng Tây Bắc thế lực tông giáo rất mạnh, bọn họ dựa vào chính quyền vì thế việc truyền bá tông giáo rất thuận lợi, đồng thời có thể sử dụng khả năng kêu gọi sự ủng hộ của vô số tín chúng cho công việc chính quyền.

Ở Tây Bắc thế lực tông giáo tuy không bằng của cơ đốc giáo ở phương Tây là có thể vượt qua hoàng quyền nhưng về lực lượng thì ngang bằng nhau. Nếu có được sự nhìn nhận của bọn thì có được lòng dân Tây Bắc, xây dựng căn cứ ở Tạp Hồ. Nhiều dân tộc và thế lực muốn tập trung họ lại nhưng bất kể dựa vào vũ lực hay là cùng chung một mục đích thì đều không thực hiện được điều đó nhưng tôn giáo thì có thể. Đây là ngày thứ hai Dương Hạo về tới Lô Châu. Vì vẫn chưa xây dựng nha khai phủ nên hắn đã đi bái kiến Đạt Thố Hoạt Phật trước.

Chương 413 (C 6): Thời thế tạo anh hùng (1).

Dương Hạo xuống xe bộ hành lên núi.khi cách ngọc tháp không xa, hắn mở to mắt vô cùng ngạc nhiên.trước đó hắn đã từng được nghe qua việc ngọc tháp được xây dựng lại thành một ngôi miếu nhưng không thể ngờ rằng nó lại to lớn như thế.

Trước kia khi lấy danh nghĩa tu bổ lại ngọn tháp, Dương Hạo làm công trình thổ mộc đã san bằng đỉnh núi, bây giờ nhìn lại cả đỉnh núi đã được san bằng thành sân sau của ngôi miếu, nhiều công trình lộng lẫy, nguy nga được xây dựng sát dựa váo núi. Nhìn từ xa sau núi giống như có rất nhiều ngôi miếu nhỏ, tại đây vẫn đang thi công liên tục. Vì phải làm công trình thổ mộc nên khó tránh cậu của Đường Diễm Diễm là Lý Ngọc Xương ở đây mà rất khó gặp.Thì ra ngọc tháp ở trung tâm đỉnh núi đã trở thành hậu viện ngôi đền.

Phạm Tư Kỳ nói : “Đại nhân, phủ đệ của hoạt phật gọi là nang khiêm. Các nang khiêm này căn cứ vào vị trí cao thấp của hoạt phật mà chia thành to nhỏ khác nhau; còn phải tính toán xem giáo đồ nhiều hay ít, của cải vật chất có dư dật hay không. Nang khiêm lớn nhất vốn ở trong Thổ Phồn cảnh, nhưng ở đây chiến tranh xảy ra liên tục, ngay cả nang khiêm của hoạt phật cũng bị tàn phá, đợi ngôi miếu sau núi xây xong thì nang khiêm Lô Châu của ta sẽ là ngôi chùa lớn nhất ở vùng Tây Bắc này.

Dương Hạo mỉm cười gật đầu nói: “Kế này thật hay, cao tăng phật môn vốn không ham tiền tài tửu sắc, lại lấy việc truyền bá kinh đạo làm nhiệm vụ chính, vô cùng coi trọng danh tiếng。 Những việc này chắc chắn sẽ tốn nhiều tiền của nếu không thì Hoạt Phật đã không phải dời nhà như vậy. Việc xây dựng ngôi chùa mật tông lớn nhất thiên hạ đã biến Lô Châu trở thành vùng đất thánh phật giáo, thu hút vô số tín đồ quy tâm, chỗ tiền này bỏ ra cũng rất đáng.”

Phạm Tư Kỳ cười nói: “Lô Châu chúng ta cũng không phải đóng góp gì nhiều, khi tin sắp xây dựng ngôi chùa lớn nhất được truyền đi thì lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn và vùng quản hạt khương Trại lần lượt tới cúng tiến. Họ nói chỉ là quyên chút ít dầu hương cúng tiến lên hoạt phật, để cầu mong được hưởng phú quý thái bình.bây giờ họ quyên góp toàn bộ, đặt hết hy vọng lên Lô Châu chúng ta dùng kim quang bảo vệ của phật giáo để che trở cho hàng vạn tín đồ. Hai năm trở lại đây, Lô Châu với Tạp Hồ Chư Khương luôn bình yên không có chiến loạn, một mặt là do trước đây đại nhân đã dùng tâm huyết để tạo lập binh uy, sau đó Lô Châu lại diễn tập binh võ uy hiếp Thổ Phồn và nguyên nhân nữa chính là sự việc trên.”

Dương Hạo nhớn lông mày nói: “Kế sách thật lợi hại, ta đã biến Lô Châu trở thành một trung tâm thương nghiệp của tam phiên, thương nhân từ khắp nơi đổ về họ đã biến Lô Châu trở thành thành thánh. Vùng Tây Bắc của nhất thể chính giáo nhanh chóng tạo lập được địa vị thống trị to lớn. Hây! Lẽ nào lại là chủ ý của hắn ta”. Hắn ta vẫn chưa lộ diện mà, rốt cuộc còn chịu đựng đến lúc nào đây?”

“Ngươi không xuất hiện nhưng hãy để xem ai hơn ai.” Dương hạo mỉm cười.

Lúc này Thái Nhiên nói: “Vào thôi, chúng ta vào lễ phật”

Nang khiêm của Đạt thố Hoạt phật được chia ra là thượng viện , trung viện và hạ viện, quy mô rất lớn đẹp lộng lẫy. Chỉ ở thượng viện đã có tam tiến viện lạc, điện vũ thì vô số. Dương Hạo vừa bước vào thượng viện đã được một vị thượng sư đứng ở đó từ lâu dẫn đường theo lối đi giữa hai bên tường của cung điện hướng về phía hậu viện, còn các vị quan viên vẫn đứng ở bên ngoài cửa núi đợi.

ở chính giữa hậu viện của chính điện cung Ung Đức là con đường thông ra phía trung viện , trái phải mỗ bên đều có hai khoa viện, giữa mỗi khoa viện đều có một lầu gỗ hai tầng, phía bên trái của khoa viện là Hạ Gi­ang của Hoạt Phật, phía bên phải là đông cung của người. Tùy thuộc vào thời tiết các mùa hạ đông mà ở những nơi khác nhau.

Vị thượng sư đó dẫn Dương Hạo leo lên lầu bên trái, bước vào phòng chính của lầu hai chỉ thấy trong phòng bầy đầy những bức bình phong được chạm khắc bằng gỗ cây thanh đàn, trên bình phong vẽ nhiều hình họa về câu chuyện phật giáo, còn có ghế ngồi, cơ án làm bằng gỗ cây thanh đàn và gỗ hoa lê. Một người đã già mặc tăng y màu đỏ đang ngồi phia sau cơ án, nhìn dáng vẻ đã ngoài lục tuần, thân hình cao lớn, mặt mũi hồng hào, nhìn thấy Dương Hạo đi vào liền mỉm cười đưa tay ra vẫy rồi nói: “Thái úy , mời ngồi’

Dương Hạo hành lễ sau đó ngồi xuống chỗ dành cho khách, vị thượng sư hành lễ với Hoạt Phật, cúi lạy rồi từ từ lui ra ngoài. Một người rón rén bước vào, bưng hai ly trà mời Hoạt Phật và Dương Hạo, rồi lại nhẹ nhàng đi ra.

Đạt Thố Hoạt Phật mở cửa nhìn về phía núi rồi nói: “Bổn tọa từ khi chủ trì ngọc tự đã nghe danh tháu úy từ lâu, hôm nay lần đầu gặp mặt mà có cảm giác như đã quen từ lâu. Từ trước tới nay Tây Bắc chiến sự liên miên không thể sinh sống ổn định như chiến tranh giữa Thổ Phồn với Hồi Hất, giữa Thổ Phồn, Hồi Hất với Đảng Hạng, giữa Đảng Hạng với Đảng Hạng rồi giữa Phủ Châu với Lân Châu cứ liên tiếp không ngừng khiến lão bá tánh lưu lạc không chốn nương thân, người xuất gia như chúng ta thực không thể yên lòng. Bổn tọa hưởng hương hỏa của lão bá tánh,s ao có thể chịu được cảnh lão bá tánh Tây Bắc rơi vào biển khổ như vậy. Thái úy có lòng từ bi hãy lấy đại uy đức của mình để thống nhất tây vực , bình định chiến loạn. Bổn tọa muốn biết nếu có một ngày thái úy trở thành quân chủ các dân tộc tây bắc thì thái úy sẽ làm gì?’

Dương Hạo lúc này hơi bối rối nhưng nhanh chóng lấy lại tinh thần nói: “nếu các bộ tộc tây bắc có thể thống nhất đươc, diệt trừ được chiến loạn thì lão bá tánh ắt có thể an cư lạc nghiệp.Đây chính là công đức vô thượng. Hoạt Phật với công đức to lớn của người cùng với sự tương trợ của bản quan chắc chắn Tây Bắc sẽ trở thành vùng Tây vực của Hoạt Phật, thống nhất mật giáo, càng tạo điều kiện cho việc truyền bá phật pháp, lúc đó hoạt phật có tấm lòng từ bi, tín đồ khắp thiên hạ sẽ chịu ơn huệ to lớn của người.

Ánh mắt Hoạt Phật vẫn mở nhỏ không hề thay đổi sắc thái.

Khi đó mật giáo thịnh hành khắp thiên hạ, Gi­ang Nam Lý Dục cũng rất sung bái mật giáo, hắn ta mỗi hôm sau khi bế triều đều cùng tiểu chu hậu thay tăng y, lấy đồ để lễ bái phật. Ngô Việt Quốc Vương cũng cho xây dựng đạo trường, mời đại sư mật giáo vào ở. Trong biên giới Tống quốc có không ít cao tăng mật giáo, Tống quốc vẫn thực hiện theo lễ cũ của nhà Đường để thưởng cho cao tăng mật giáo cửu đỉnh đức cao vọng trọng; còn ở Khiết Đan và vùng Tây Bắc thì việc truyền bá đạo giáo lại càng không cần phải nói đến, có điều tín đồ mật giáo lực lượng rất lớn nhưng liên kết lại rời rạc. Lúc này lãnh tụ của mật giáo là các Hoạt Phật, giữa những Hoạt Phật này không có phụ thuộc gì, giới quy giới luật, phật pháp mật tông cũng có sự khác nhau, nếu có thể trở thành hoạt phật thống nhất mật tông, điều đó đối với một tăng nhân mà nói thì đó quả là công đức và vinh dự vô cùng to lớn, nhưng điều đó cũng không hề khiến Đạt Thố Hoạt Phật động lòng.

Dương Hạo lại nói : “Nếu bản quan có thể thống nhất tây vực, sẽ ủng hộ hoạt phật phát triển phật pháp, bổn quan sẽ cho xây dựng kinh dịch viện để dịch mật kinh, xuất bản kinh trường,khiến người dân ai nấy đều nhất loạt tôn trọng mật tăng,tạo điều kiện thuận lợi nhất để truyền bá đạo giáo. Nhưng nay vì chiến loạn, vấn đề về lương thực vẫn là quan trọng nhất nên việc truyền bá đạo giáo gặp nhiều khó khăn, nếu có thể thống nhất tây bắc, bổn quan sẽ chú trọng mở rộng phát triển thương nghiệp. Khi đó mật giáo trung thổ ta sẽ theo con đường này mà truyền bá sang tây phương, phát triển khắp thiên hạ, không biết hoạt phật thấy thế nào?”

Đạt Thố Hoạt Phật nét mặt có chút thay đổi, ông nhắm mắt lại một lúc rồi mở ra mỉm cười nói: “Thái úy có chí nguyện to lớn, nhưng đạo giáo chúng ta chỉ tôn đạo pháp ma­ha­gi­ala, mãkha­bala.

Thần hộ pháp tối cao của mật tông là Đại Hắc Thiên,đó cũng là ma­ha­gi­ala , mãkha­gi­ala.Mật giáo thấy rằng hắn ta chính là phần phẫn lộ trong tâm từ bi được hóa sinh từ chữ “kiện” trong lục tự chân ngôn trong tâm quan thế âm bồ tát. ánh sáng xanh đen bao quanh cơ thể trông rất đáng sợ vì vậy gọi là Đại Hắc Thiên. Hắn ta là người được kính trọng nhất trong số những thần hộ pháp của mật giáo. Hình tượng tuy rất hung dữ nhưng là tam bảo để bảo vệ ngũ chúng. Theo truyền thuyết nếu cúng tế vị thần này sẽ có được thêm uy đức , hành sự thuận lợi, đồng thời hắn ta còn là thần thi phúc có thể mang lại phú quý cho thế gi­an, thậm chí là cả quan vị và bổng lộc…

Đạt Thố Hoạt Phật đã gọi hắn ta là Đại Hắc Thiên vì thứ nhất hắn ta là thần hộ pháp,thứ 2 nếu cúng tế vị thần này sẽ có được uy đức , làm ăn thuận lợi, thứ 3 là vị thần này có thể mang lại phú quý , quan vị và bổng lộc cho thế gi­an.

Đáng tiếc là Dương Hạo chỉ hiểu được một phần ba trong số những gi hắn ta nói chỉ hiểu được chí tôn hộ pháp. Biết được mình đã có được sự chấp nhận của Hoạt Phật, lấy đó làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ đồng minh giữa hai người. Hắn nói :”Dương Hạo nguyện cùng với Hoạt Phật cùng tôn cùng vinh xây dựng đại nghiệp”

Hoạt Phật mỉm cười bưng ly trà lên :”Thái úy, mời”

Hoạt Phật là chủ trì của tự, vì vậy về y, thực hay lễ nghĩa nghênh tiếp hàng ngày cũng đều rất nghiêm. Hoạt Phật thăng tọa cũng là một sự kiện vô cùng quan trọng. Khi tiếng hiệu trống chiêng vang lên thì các tín đồ đang tập trung trong đại điện lập tức yên lặng, bọn họ đến từ nhiều nơi khác nhau với đây để bái phật. Có thể đứng ở đây vào thời khắc này đều là những nhân vật có máu mặt, nhưng ở đây họ chỉ là những tín đồ trung thành; tiếng chiêng vừa vang lên thì đều thành tâm nhất loạt quỳ xuống.

Dương Hạo lại ra trước cửa cung Ung Đức, được thượng sư dẫn đường hướng về phía thượng viện, bước vào chính điện cung Ung Đức, ở giữa chính điện là một bảo tọa cao 3 thước rộng 4 thước, toàn bộ đều làm bằng đồng vàng; 4 mặt đều có 9 con rồng vàng, bên trên đều trạm rất nhiều hoa , rồng, sư tử bằng bạc; trên tọa có trưng bày pháp y, pháp khí bên phải , trái của bảo tọa đều có những cây cột lớn bên trên có khắc 4 con rồng vàng, phía dưới là 8 con sư tử bằng đồng trông giống như thật. Trên điện có treo bộ đèn màu kích thước to nhỏ khác nhau, lung linh huyền ảo, bốn bên đều treo tranh thêu nhiều màu sắc, tổng có khoảng hơn 200 pho tượng phật bằng đồng vàng, phong cách có khác biệt với phật giáo đại thừa trung nguyên.

Đạt Thố Hoạt Phật, đội ngũ tăng, mặc y tăng ngồi trên bảo tọa, nhìn về phía Dương Hạo. Dương Hạo không đợi người chỉ dẫn liền bước lên dọc 6 chữ nguyền rủa Đại Minh.

Đạt Thố Hoạt Phật ngồi trên bảo tọa thân thái vững trãi như núi. Dương Hạo bước tới trước mặt, chắp tay cúi lưng quì xuống bái lạy Hoạt Phật 3 lễ.

Mộc Vũ lúc này đang đứng trước cửa điện, nhìn thấy như vậy 2 bên lông mày đang cong hình kiếm bỗng thẳng ra, giơ tay rút đao, Diệp Đại Thiếu đứng bên cạnh nhìn thấy vậy liền giữ chặt tay hắn nói nhẹ :”Người muốn làm gì vậy?”.

Mộc Vũ từ trước tới nay đền ở bên cạnh Dương Hạo, đặc biệt tối qua Dương Hạo còn tha cho tỉ tỉ và tỉ phu của hắn ta, không những không phạt tội cũng không tước đi binh quyền, Mộc Vũ vô cùng cảm kích xem hắn ta như cha mẹ của mình vậy.Nhìn đại nhân phải hành lễ trước hòa thượng Tây vực thấy vô cùng tức giận, mặt đỏ tưng bừng, phẫn nộ nói :”Con lừa hói này vô lễ, đại nhân của chúng ta là Tiết độ Hằng Sơn, là thái úy đương triều, đến ngay cả khi gặp hoàng thượng cũng không cần phải hành lễ như vậy. Đại nhân bái hắn ta thì hắn cũng phải bái lạy đại nhân, đằng này lại ngông ngênh nhận của đại nhân ta 3 lễ, để ta đi lấy cái đầu chó của hắn, xem hắn còn dám ngông ngênh như vậy không.”

Chương 413 (C 6): Thời thế tạo anh hùng (2).

Bích Túc ăn vận gọn gàng đang đứng ở bên cạnh nói :” Người đại nhân bái lạy không phải là hắn”

Mục Vũ hỏi lại :”Thế là thế nào?”

Mộc Bằng Vũ từ từ nói :”Đại nhân bái lạy phật có quyền thế trí cao vô thượng, là tấm lòng của mấy mươi vận lão bá tánh Hồi Hất, Thổ phồn, Hán, Khương Tây Bắc”

Mục Vũ không hiểu được hết, chỉ hiểu rằng đại nhân làm như vậy là có dụng ý, chắc không phải chịu thiệt, vì thế dần dần nuốt cơn tức và cất dao đi.

Dương Hạo hành lễ xong đứng dậy, lập tức có người dâng lên Cáp Đạt. Dương Hạo đưa hai tay ra nhận lấy, đưa lên qua đỉnh đầu rồi cúi lưng xuống đi về phía Đạt Thố Hoạt Phật.

Khuôn mặt vốn gầy guộc của Hoạt Phật lúc này mới hơi tươi tỉnh, người đưa tay ra nhận Cáp Đạt mà Dương Hạo dâng lên rồi đứng dậy. Từ bên trái bảo tọa bước xuống năm bậc, từ từ tiến về phía Dương Hạo, hai tay bê Cáp Đạt đưa lại cho Dương Hạo.

Dương Hạo sớm biết lễ nghĩa liền cúi xuống nhận lễ, tiếp nhận Cáp Đạt. Hoạt Phật để Cáp Đạt lên trên cổ Dương Hạo, cười nói :” Đi theo ta”. Nói xong Hoạt Phật liền quay người về phía bảo tọa, Dương Hạo chắp hai tay từng bước từng bước theo sau. Chúng cao tăng thượng sư trong điện và quan lại ở Lô Châu đều vô cùng kinh ngạc, còn nhiều tín đồ thì càng lo sợ hơn không biết vì sao, chỉ thấy hai người vai sát vai ngồi trên bảo tọa, Đạt Thố Hoạt Phật liền hướng về phía cao tăng tín đồ nói :”Bổn tọa nhận thấy, Dương thái úy tài vật vô số, chuẩn thế linh thần, giáo pháp ta chỉ tôn hộ pháp Ma­ha­gi­ala, Maxkha­bala phổ độ chúng sinh, cứu thế hồng trần. Tính phật căn linh không mất đi, tìm tới trước xa giá của bổn tọa khiến bổn tọa nhận Dương thái úy làm môn đồ, tự hiệu là Cụ Bá , chỉ là hộ pháp phủ đỉnh khai chí, chỉ ra những sai lầm. Bổn tọa tu luyện là lai thể pháp, còn Dương thái úy tu luyện là thần gi­an pháp có thể nói là khác đường đi nhưng cùng chung một đích. Đó đều là phật pháp vô thượng, tu hành thành quả, không cao không thấp, có thể coi là thượng sư của nhau không phải hành lễ đệ tử”

Dưới điện bỗng ồn ào

“Cương kim cống bảo quả nhiên là cương kim cống bảo chuyển thế linh”

“makha­gi­ala…”

“makha­bala…”

“Hoạt Phật Tây Vực ta có đến hơn trăm người, cương kim cống bảo chuyển thế linh thân chỉ tìm đến Đạt Thố Hoạt Phật để học hỏi mở mang trí tuệ, quả nhiên Đạt Thố Hoạt Phật thần thông quảng đại, đaọ hành thâm hậu”

Thượng sư cao tăng, tín đồ khắp nơi đều lần lượt bái lạy. Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ cùng nhiều người khác thở phào nhẹ nhõm cũng cúi xuống bái lễ

Tin Dương Hạo Lô Châu là kim cương cống bảo chuyển thế được truyền đi như gió. Có tầm ảnh hưởng vô cùng to lớn. Chẳng bao lâu Lô Châu đã là một nơi vô cùng quan trọng trong lòng hàng vạn lão bá tánh Tây Bắc. Điều này có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao vị thế chính trị của Lô Châu.

Dương Hạo đã giành được cái khó giành nhất của đất Tạp Hồ Tây Bắc này, đó là lòng dân. Nhưng cũng không thể phá vỡ cái cơ sở không tốt để đưa mật giáo vượt lên trên chính quyền, phải tranh thủ khi lực lượng của mật giáo đang hùng hậu mạnh mẽ, nhưng Hoạt Phật mật tông không có cách nào để thống nhất chế ngự được lực lượng to lớn như vậy. Vì thế nhu cầu cấp thiết là phải có được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền, cùng tạo dựng đồng minh với Đạt Thố Hoạt Phật, chính quyền và giáo quyền cần có sự tách biệt rõ ràng. Lợi dụng uy thế đó trong khi lòng người vẫn đang ủng hộ, nha phủ Lô Châu lại được thăng cấp đã cho xây dựng Tiết Lập phủ.

Công Tôn Khánh được mời ra nghe tuyên đọc chiếu mệnh ban thưởng hai tinh nhị tiết, có được tinh tiết này là có được chuyên quyền quân sự. Phía trước nha phủ dựng lên lục cán đai mâu, ở phía Tây lại dựng Bạch Hổ tiết đường uy thế rất hùng mạnh.

Tiết độ sứ tập trung quân, dân, tài ba quyền chính trong tay, toàn quyền nắm giữ bộ hạ. Có thể điều động binh lính bất cứ lúc nào không cần đến lệnh của triều đình. Trong nội hạt có thể nhận được cung ứng về tiền của và lương thực, khống chế thuế. Vốn dĩ những việc này thuộc về quản lí dân sự mà chính phủ trung ương nhận mệnh, quan lại tài chính vì thế trở thành người dưới quyền mà hắn có thể tự bổ nhiệm. Tiết độ sứ chỉ nắm binh quyền điều đó không đáng sợ, vấn đề quan trọng là hắn ta có thể khống chế được dân chính và tài chính của cả nội hạt. Chính hai điều này đã giúp tiết độ sứ nắm chắc được binh quyền, có thể không ngừng mở rộng quân binh

Từ khi thái tổ kế vị để cắt bổ đi quyền vây binh và nhiều tệ nạn khác đã sử dụng nhiều chính sách linh hoạt để làm giảm đi quân quyền, chính quyền, tài quyền của tiết độ sứ. Càn Đức năm thứ 3 Triệu Khuông Dận hạ lệnh tăng cường quyền lực cho chuyển vận sứ, tiền thuế thu được ở các địa phương ngoài việc sử dụng cho quân phí hằng ngày thì toàn bộ đều chuyển về trung ương, tước bỏ đi quyền tự sử lí tiền thuế của tiết độ sứ. Cũng trong năm đó lệnh cho Châu phủ phải phái hết tinh binh lên trung ương giảm bớt binh quyền ở địa phương.

Sau khi bình định Kinh Hồ người đã hạ lệnh các châu phủ Kinh Hồ thuộc về triều đình chứ không thuộc về tiết độ sứ nữa, đồng thời rất nhiều quan lại được bổ nhiệm khiến tiết độ sứ không được phái ra ngoài mà chỉ ở lại kinh sư hoặc giả có được phái ra ngoài thì cũng chỉ ở những vùng nội hạt, những địa phương lân cận thuộc về triều đình hay những nơi mà Triệu Khuông Dận có quyền uy tối cao mà thôi. Vì thế tiết độ ở các địa phương ắt sẽ không dám lạm quyền. Phương pháp tập quyền mà Triệu Khuông Dận sử dụng rất ôn hòa và tiệm tiến.

Trên danh nghĩa thì tiết độ sứ vẫn giữ quyền lực rất lớn, chỉ có điều bọn họ sẽ không có cơ hội để thực sự được nắm giữ quyền lực này, tiết độ sứ cuối cùng trở thành hư danh. Trên danh vận cũng không còn nắm quyền lực về quân, chính, tài quyền nữa.

Sau khi Triệu Quang Nghĩa kế vị tròn một năm hạ lệnh tất cả quân binh và thuộc hạ của tiết độ sứ đều thuộc về triều đình lấy thần triều bổ nhiệm tri châu tri phủ.

Giờ đây Dương Hạo đã dành được phần lớn ưu thế Lô Châu cách Lân Châu hai châu, trời ở trên cao, hoàng đế thì ở xa, lại không chịu sự quản chế của bất kì châu phủ nào, vì thế có thể nắm giữ được quyền lực trên cả thực tế và danh nghĩa. Chiến loạn khắp nơi, trong thời thế loạn lạc, anh hùng xuất hiện khắp tứ phương. Trong đó có Thảo Đầu Vương, hắn ta là tiết độ một phương cũng là hoàng đế trên nước đó rồi.

Quan lại của tiết độ sứ có phó sứ, chi sứ, hành quân tư mã, phán quan, thôi quan…Tướng tá gồm: át nha, ngu hầu, binh mã sứ, tiết độ sứ, phó đại sứ biết rõ từng người tiết độ sự, hành quân tư mã, phán quan, chi sứ, thôi quan, tuần quan, nha chùy.Tiết độ phó sứ có mười người, quán dịch tuần quan bốn người, phủ viện pháp trực quan, yếu tịch, trục yếu thân sự mỗi chức vụ một người, tùy quân bốn người.

Về căn bản Triệu Quang Nghĩa chưa thực hiện kế hoạch để Dương Hạo sống sót trở về Tây Bắc. Vì vậy hắn ta không những khảng khái rộng lượng mà ngay cả quan sát sứ, chi độ sứ cũng không hề phái đi chỉ là trên chiếu thư nói một câu do hắn ta biết phủ châu sự. Lúc này Dương Hạo có thể chọn ra một tiết độ sứ trong số những thuộc hạ của mình, nhưng vì vừa mới nhận chức nên không dám lạm quyền chỉ có thể xin chỉ thị từ triều đình. Dương Hạo lần này trở về không muốn chịu sự khống chế của Triệu Quang Nghĩa nữa mà tự mình kiêm quan sát sứ và chỉ độ sứ, lại lập doanh điền, chiêu quá, khiển vận phán quan, tuần quan mỗi chức một người. Lúc này trên danh phận lẫn luật pháp hắn ta đều hợp lí để nắm toàn bộ đại quyền của đất Lô Châu trong tay, trên địa vị ngang bằng với Triết thị ở phủ châu, Dương thị ở Lân Châu, Lí thị ở Hạ Châu trấn giữ một phương.

Dương Hạo giành được tiên cơ, đoàng hoàng trở thành tiết soái, thuộc hạ đều có định chế, nhưng từ đó quan lại thuộc hạ của hắn ta có hạn. Từ một phủ nha đã có thể trở thành một tiết trấn, rất nhiều chức quan vẫn còn trống nhưng Dương Hạo không vội bổ sung thêm, chi bằng cứ để trống một số chức quan, Lô Châu bé như vậy cũng không cần quá nhiều quan lại. Tiếp đó hắn ta tạo dựng thế lực mạnh hơn nữa cho đến khi có được Ngân Châu có thế ngang bằng với Tây Bắc tam phiên, có những chức quan trống như thế này còn sợ gì tướng sĩ không tận tâm tận lực.

Còn Công Tôn Khánh vì đã hết giá trị lợi dụng nên Dương Hạo đã sai trở về Dịch Châu tiếp nhận tướng ngu hầu phò tá quan trùy Mộc Tắc phu. Lần này từ Phan về kinh , thiên uy của hắn ta khó có thể đoán trước được. Nhưng Công Tôn Quyền vốn là thư sinh bất lực phản kháng, gia tộc lại ở Biện Lương cũng không dám phản kháng chỉ biết lấy đầu ra để tiếp nhận, số mệnh không thể đoán trước được.

Còn Dương Hạo từ khi là cương kim cống bảo chuyển thế linh thân, makha­gi­ala hộ pháp tái thế, tiết độ Hằng Sơn tiến hành khai nha kiếm phủ tập trung vào quyền thế, tiếp tục nghênh tiếp hắn ta còn có phủ cốc Chiết Ngự Huân, Lân Châu Dương Sùng đích thân đến Lô Châu bái kiến chúc mừng. Hai vị tiết độ sứ này chỉ tới đất Minh thôi đã làm cho 4 phương phải chấn động, Tây Bắc vốn có tam thuộc quốc giờ lại có thêm một Dương Hạo nữa. Dương Hạo vừa khai nha kiếm phủ thì trong số tam thuộc quốc đã có hai vị đích thân đến để chúc mừng, điều đó có ý nghĩa gì? Điều đó cho thấy chỉ trong một thời gi­an ngắn Dương Hạo đã định vị được địa vị của mình ở Tây Bắc, tin tức này đã nhanh chóng được truyền tới Hạ Châu và Biện Lương. Triệu Quang Nghĩa ở Biện Lương không biết sẽ cảm thấy chấn động như thế nào, ít nhất đối với Hạ Châu bốn bề đều là địch mà nói thì Dương Hạo bỗng nhiên nổi lên như thế cũng chẳng phải tốt lành gì

Tới hội kiến Dương Hạo còn có tiết độ hai châu, Lân Phủ, Thất thị Đảng Hạng cũng bí mật phái tín sứ đến, Đạt Thố Hoạt Phật còn phái đệ tử là Xích Bang Tùng tặng Dương Hạo lễ vật lớn. Xích Bang Tùng là người đứng đầu bộ lạc lớn nhất trong số những bộ lạc ở Thổ Phồn, Thổ Phồn ngày nay đã khác xa nhiều với khi xưa rồi nhưng rải rác trở thành nhiều bộ lạc riêng rẽ với nhau, võ lực của họ vẫn rất mạnh.

Còn người đã lâu chưa lộ mặt Đinh Thừa Tông khi đó cũng mang 2 món lễ vật bí mật, xuất hiện ở Lỗ Vĩ cách phủ Lô Châu đến trăm dặm.

Chương 414 (C 7): Lễ vật (1).

Trong Bạch Hổ tiết đường vô cùng đông đúc, quan văn có Phạm Tư Kì, Lâm Bằng Vũ; quan võ có Lý Quang Sầm, Mộc Ân, Mục Qùy, Kha Trấn Ác. Hôm nay là lần đầu tiên Dương Hạo lấy tư cách tiết độ sứ để triệu tập binh tướng, Lý Quang Sầm dù thế nào cũng phải thể hiện vai trò tiết độ phó cho nên đã gắng gượng để đến, trên người còn khoác bộ giáp trụ, có điều do cơ thể đang bị suy nhược nên Dương Hạo đặc cách ban cho được ngồi.

Phủ Châu Chiết Ngự Huân, Lân Châu Dương Tông Huấn cũng đến cùng nhau. Hôm nay triệu tập tướng sĩ, vừa là lần đầu từ khi Dương Hạo nhận lệnh đến xây dựng phủ nha các quan lại đến tấn kiến, cũng là để thuận tiện trong việc nghênh đón hai vị chư hầu hùng bá hai phương ấy.

Vừa mới sáng sớm tinh mơ, nghe tiếng trống thăng đường, mọi người liền vội lần lượt đứng dậy, sau khi gặp chủ soái, không khí náo nhiệt mới dần dần yên tĩnh trở lại. Lâm Bằng Vũ vui mừng nói: “Lô Châu là vùng đất nổi dậy từ tứ chiến Tây Bắc, thương nhân các phương đến buôn bán đều được hoan nghênh chào đón, lại nhận được sự giúp đỡ của hai châu Lân phủ, các tầng lớp sĩ, nông, công, thương dần dần xuất hiện, chỉ trong hai năm đã có được cục diện như ngày hôm nay. Việc tiết độ sứ thăng chức…theo suy đoán, chắc chắn sẽ được ủng hộ. Xây dựng nha phủ, lấy song tinh song tiết để trở thành tiết độ sứ của triều đình, lại còn đảm nhiệm chức mật tông hộ giáo pháp quan. Trong chốc lát được lòng nhân dân Tây Bắc, thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều đủ cả. Lão già cổ hủ này khi theo tiết soái đến nơi này, quả thực không nghĩ đến sẽ có ngày hôm nay. Tiết soái sau này có dự định gì, nhân lúc bá quan văn võ đều có mặt ở đây, xin tiết soái cứ nói với mọi người”.

Lão quan hôm nay có chút xúc động, lão cũng từng trải qua thời thanh niên, cũng có năm tháng chỉ tay định gi­ang sơn, chí hướng bay bổng, chỉ là do sinh ra không gặp thời, không có được cơ hội như thế, cũng chẳng có được bản lĩnh như thế, chí lớn vì đó cũng dần dần bị mai một, tuy đã giữ một chức quan nhỏ nhưng cũng không còn tham vọng lớn như trước nữa. Thật sự không ngờ rằng đến tuổi xế chiều lại có cơ hội gặp được một vị minh chủ, gây dựng bá nghiệp một phương, cũng coi như ở nơi hẻo lánh Tây Bắc này, tuy không tránh khỏi việc thân phận nhỏ bé một chút nhưng nam tử hán, thà làm ngọc vỡ còn hơn làm ngói lành, đây cũng là một phần gi­ang sơn gấm vóc, ai lại không muốn trở thành khai quốc công thần, lưu danh thiên cổ chứ.

Văn võ bá quan cũng đều có chung suy nghĩ với ông, tuy hiện giờ họ đều biết Lô Châu vẫn cần tiếp tục giương lá cờ nước Tống làm những việc chỉ có thể biết để mà làm chứ không thể nói rõ, nhưng mọi người vẫn nuôi hi vọng Dương Hạo có thể đem chí hướng của họ đến với bách tính trăm họ, rốt cục, suy cho cùng đây cũng chỉ là suy nghĩ nông cạn của bản thân, chỉ có thể giữ trong lòng, vì người mà họ dốc sức phù trợ nếu không cùng chung chí hướng thì trong lòng họ cũng có chút không thỏa đáng

Dương Hạo vốn là vị quan lên trên ngựa nắm tài thao lược điều binh khiển tướng, xuống lưng ngựa hết lòng tận tụy chăm lo coi sóc nhân dân, thế nhưng khi khoác trên người bộ áo giáp oai phong đứng trong Bạch Hổ đường, tay cầm ấn soái, trong lòng cũng có chút thấp thỏm không yên. Lâm Bằng Ninh không ngờ sẽ có ngày hôm nay, lẽ nào hắn không có ngày như vậy? Hai năm trước, khi hắn nằm tranh luận trên đống cỏ khô trong phủ Đinh gia, mong ước của hắn cũng chỉ là sau này nhà có ba mẫu ruộng, một gi­an nhà ngói, lấy một người vợ, phụng dưỡng mẹ già, yên ổn sống qua ngày, vậy mà trong khi đó tên huynh đệ đáng chết ấy còn đang bối bối bứt rứt vì không biết giữa việc ngủ với phụ nữ và ăn thịt mỡ cái nào đáng để nói hơn, chẳng ai có thể ngờ được rằng, hai năm sau, con heo chỉ biết thịt mỡ thơm ấy lại trở thành tiểu bang chủ bang Biện Phong, lại có được một cô nương thông minh xinh đẹp, còn hắn, lẽ nào vẫn trông coi ấn phù, trở thành một tên chư hầu?

Đời người thật là khó đoán, thế nhưng đó cũng chính là sức mê hoặc của nó.

Dương Hạo khẳng khái nói: “Bổn soái vốn là một thường dân ở Bá châu , bị gi­an tế mưu hại nhờ trời phù hộ, may vẫn giữ được mạng sống, khi đầu quân cho triều đình, đã vô số lần vào sinh ra tử, tuy chẳng có tài cán gì nhưng được chư vị phù trợ, mới có được ngày hôm nay. Mẫu thân ta còn phải vì ta chịu liên lụy, lại thêm đau ốm mà chết. Ta hãy còn nhớ, khi chôn cất mẫu thân trên núi Kê Minh, ngay cả đến một chiếc quan tài gỗ cho người cũng không có”.

Trong mắt hắn lấp lánh những giọt nước mắt. Nhớ lại những kí ức đó khiến trong lòng hắn đau như bị đâm vào tim: “Khi Dương mỗ ra đi, đã từng thề với trời, lần li biệt đau khổ này nhất định phải đi lang bạt gi­ang hồ, gây dựng sự nghiệp, làm nên được công trạng lớn rồi khi đó ta sẽ trở lại Bá châu, an táng mẫu thân tử tế”

Hắn cười nhạt rồi nói tiếp: “Khi đó Dương mỗ tuổi trẻ ngông cuồng, đã từng thề rằng, sau này sẽ sửa mộ xây lăng, xây cho mẫu thân một phần mộ thật lớn. Bây giờ nghĩ lại, chẳng qua cũng chỉ là những lời lẽ ngông cuồng trong cơn uất hận, khi đó Dương mỗ tài sản, địa vị đều bị tước đoạt, làm sao có thể nghĩ sẽ có được địa vị như ngày hôm nay, không biết chừng mẫu thân ta trên trời đã phù hộ cho ta trở thành một thống soái trấn giữ biên cương”.

Dương Hạo thở dài rồi nói tiếp: “Giờ đây ta đã là tiết độ sứ Lô Châu, được ăn bổng lộc triều đình, trấn giữ một phương, bảo vệ sự bình yên cho bách tính trăm họ . Vì tranh giành lợi lộc, Ngân châu đang bị quân phản loạn Khiết Đan chiếm đóng, nơi đó cũng chỉ cách Lô châu trong gang tấc, nếu để chúng đứng chắc chân, chiếm đánh xuống phía Nam, Lô châu của chúng ta cũng sẽ gặp nguy hiểm, bổn soái khai phủ giữ ấn là một việc lớn, chính là để liên minh với phủ Lân, trước tiên là loại trừ tận gốc quân địch ở Ngân châu, liên kết Lô Kiện với Ngân châu lại với nhau. Có như thế mới có thể đúng với danh nghĩa một tiết độ sứ Hoành Sơn.”

Văn võ quan lại nghe xong đều xôn xao, ai ai cũng đều vui mừng hớn hở, đại soái cần giương cao ngọn cờ đại Tống bảo vệ lãnh thổ và cuộc sống an bình cho nhân dân, chuẩn bị nâng cao thế lực sức mạnh của mình. Nếu có ngày tiết soái trở thành tiết sứ một vùng thì họ cũng được ra làm quan, có điều địa bàn khống chế thực chất rộng lớn từng nào? Chẳng qua chỉ là vùng Lô châu bốn bên toàn núi bao phủ cách biệt mà thôi. Chỉ có mở rộng lãnh thổ, không ngừng mở rộng địa bàn, khí thế, sức mạnh của họ mới ngày càng lớn mạnh. Ở nơi này chỉ có huấn luyện xây dựng quân đội mới có thể bảo đảm tiền đồ chắc chắn cho bọn họ, mũi tên này của Dương Hạo một khi đã bắn ra thì nhất định sẽ trúng.

“Đợi đến khi đã bình định được Ngân châu, bổn soái sẽ xây cho mẫu thân một phần mộ, đưa phần mộ của mẫu thân ta rời đến Lô châu này” Dương Hạo nói tiếp.

Quan lại nghe xong càng vui mừng, rời phần mộ của mẫu thân hắn đến Lô châu? Tiết độ sứ của nhà Tống cũng là một chức quan phải luân chuyển, hoàng đế điều đi thì không thể không đi, khi lên nhậm chức tất nhiên có thể đưa gia quyến theo cùng, nhưng chẳng có lí do gì để phải chuyển cả phần mộ của tổ tông theo. Dương Hạo muốn rời mộ mẫu thân đến đây, tâm ý chẳng phải đã rõ cả rồi sao? Hắn nhận chiếu đến nhưng sẽ không nhận chiếu rời đi, hắn coi Lô châu là nhà, coi đây là đất của tổ tông nhà hắn

Lâm Bằng Vũ học rộng hiểu nhiều vẫn cảm thấy có chỗ chưa được thỏa đáng…tiểu sinh nha thấy vậy bèn quyết truy hỏi đến cùng: “Điểm khác biệt của mộ phần với lăng, chùng đó là thứ bậc. Mộ là nơi an táng của bậc thánh nhân, chưa cần tính đến điều đó thì vẫn còn bốn quy tắc xây dựng mộ phần, trong đó phần là nơi an táng như dân thường. Tiết độ quyền cao chức trọng, theo quy tắc, lão phu nhân được hưởng chùng táng. Tiết độ đã có ý muốn di rời phần mộ cho lão phu nhân, xin hãy sớm thỉnh cầu với triều đình lệnh phong, bỉ chức phụ trách nội vụ Lô châu sẽ lập tức chọn nơi sông núi hữu tình an táng cho lão phu nhân”

Dương Hạo nói: “Sao có thể phiền đến Lâm đại nhân. Bổn soái sẽ tìm thời cơ đích thân về Bá châu để lo bốc mộ mẫu thân, còn về việc sau khi rời về Lô châu…” mắt Dương Hạo lóe lên ý nghĩ, chầm chậm nói tiếp: “Đợi khi xương cốt mẫu thân được chuyển về, tạm thời đem gửi vào Khai Bảo tự. Còn về quy định xây phần mộ thế nào sau đó sẽ bàn thêm vậy”

Là tướng đương triều, theo quy tắc mẫu thân thân sinh ra có thể xin lệnh phong, đây là một vinh dự, còn gì mà phải bàn bạc nữa? Lâm Bằng Vũ đã đưa ra ý kiến về việc phải xây chùng, hắn vẫn thoái thác không đồng ý, cũng không chịu xin triều đình lệnh phong. Vậy rốt cuộc hắn muốn xây cho thân mẫu mộ phần theo quy tắc gì?

Các quan lại nghe ra ý của hắn thì vui mừng không sao kể xiết nhưng phản ứng của những quan như Lâm Bằng Vũ, Tần Gi­ang, Lô Vũ Hiên, Tịch Sơ Vân đã gặp phải sự ngáng trở phía trước: “Tiết độ sứ thân phận cao quý, luôn hết mình cho bá tánh Lô châu, không màng đến bản thân xông pha vào nơi nguy hiểm, việc này tiện chức có thể thay ngài lo liệu, tiết độ sứ không cần phải tự mình đứng ra”

Dương Hạo là trọng thần nhà Tống, hắn muốn xây mộ phần cho mẫu thân trong lãnh thổ Tống thì có gì là nguy hiểm? Chỉ câu nói này cũng đã vạch trần tâm địa của quan lại Lô châu rồi, chẳng qua ở đây đều là người tâm phúc, ngay cả đến một viên quan xuất thân từ triều đình cũng không có. Vô ý để lộ ra cũng chẳng cần phải lo lắng.

“Bốc mộ đương nhiên phải do con cháu đích thân lo liệu, ta không đi thì ai có thể đi thay? Chư vị yên tâm, bổn soái sẽ không khinh xuất hành sự. Việc này nhất định giải quyết chu toàn, cẩn thận xử lý” Dương Hạo nói

Hắn vừa nói đến đấy, có tiếng nói nhỏ ở cửa lễ đường: “Chu toàn thế nào thì cũng sẽ phải mạo hiểm, tiết soái là gốc rễ của Lô châu này, không thể rời đi dễ dàng, người ngoài cũng không thể làm thay, nhưng ta thì có thể”

Quan lại đưa mắt tìm kiếm xung quanh, hướng về phía cửa chờ đợi, Dương Hạo cũng ngạc nhiên ngẩng đầu lên, trên mặt tràn đầy sự hoài nghi. Chỉ thấy trước cửa xuất hiện hai người, trên mình đều mặc đồ tang. Người đứng ở đó dáng vẻ yêu kiều như hàn mai trong tuyết, đẹp mà thoát tục, chính là muội muội của hắn Đinh Ngọc Lạc. Còn người ngồi trên chiếc ghế gỗ có bánh xe kéo trước muội hắn chính là người đã lâu chưa xuất đầu lộ diện Đinh Thừa Tông.

Việc Đinh Ngọc Lạc trở về cũng vừa đúng với dự kiến của Dương Hạo , Ngụy vương Đức Thiệu lần đầu dẫn quân, trong quân không hề có vai trò thực sự của hắn, căn bản không thể chỉ huy binh hùng tướng mạnh, cho nên Dương Hạo cũng không cần phải làm gì để đối phó,chỉ cần trực tiếp tiến về phía Tây là được. Khi đó hắn đang cùng Công Tôn Khánh, Vương Ngọc Tài đấu pháp, Đinh Ngọc Lạc nếu giữ bên cạnh thì sẽ rất nguy hiểm, bèn nghĩ cách để mình tiểu muội trở về Lô châu, nhưng đúng lúc hắn nghĩ ra một việc quan trọng, do vậy bèn để Đinh Ngọc Lạc trở về Biện Lương một chuyến trước, xử lí ổn thỏa mọi việc rồi thì quay lại Lô châu. Dương Hạo sau khi về đến Lô châu thì không thấy Đinh Ngọc Lạc, vẫn cho rằng Đinh Ngọc Lạc chưa trở về, không ngờ muội ấy lại một mình một ngựa, nhanh chóng quay lại, không những đuổi lên phía trước mình mà còn xuất hiện cùng Đinh Thừa Tông.

Chương 414 (C 7): Lễ vật (2).

Đinh Ngọc Lạc chầm chậm đẩy chiếc ghế của Đinh Thừa Tông tiến vào bên trong, Đinh Thừa Tông ngồi trên ghế, trong lòng ôm chiếc hũ đá, cung kính nói: “Hiếu tử Thừa Tông, hiếu nữ Ngọc Lạc bình thành cổ lễ, đã bốc xương cốt mẫu thân rời đến Lô châu rồi”

Đinh Ngọc Lạc hướng về phía Dương Hạo nói nhỏ: “Nhị ca, điều đại ca canh cánh trong lòng chính là chuyện di cốt của mẫu thân”

Dương Hạo rời khỏi soái đường, bước vội về phía trước. Hắn đi đến trước mặt Đinh Thừa Tông, nhìn như mất trí vào chiếc hũ đá mà Đinh Thừa Tông ôm bằng hai tay, nghĩ đến cuộc đời bất hạnh của mẫu thân, bỗng nhiên quỳ xuống, hai tay nhận chiếc hũ đá, than khóc không ngừng.

Trong hoa đình, Dương Hạo bình tĩnh đánh giá Đinh Thừa Tông.

Thành Tông bây giờ thật là thay đổi quá nhiều so với dáng vẻ trước đây, dường như phân đôi thành hai người vậy.

Đinh Thừa Tông khi trước tinh thần sáng suốt, uy nghi oai phong lẫm liệt, trong nhà mọi người từ trên xuống dưới đều có chút sợ hắn, là một vị thiếu chủ, huynh trưởng của Đinh gia, hắn đảm nhận những trọng trách lớn trong nhà, tính cách lại điềm tĩnh chín chắn khác với mọi người.

Đinh Thừa Tông sau nhiều đêm mê man bất tỉnh cuối cùng cũng tỉnh lại, tuy uy phong vẫn như trước song hai má trũng xuống, sắc mặt trắng bệch, giống như người bị bệnh nặng chỉ cần đẩy nhẹ đã lăn ra, vậy mà Đinh Thừa Tông ngày hôm nay, sức khỏe dần dần hồi phục, tuy đôi chân bị chặt đứt, chỉ có thể ngồi trên xe lăn, nhưng lưng vẫn vươn thẳng, khiến kẻ khác không thể xem thường. Chỉ có điều hắn đã già đi rất nhiều, mới hơn ba tuổi đầu, hai bên thái dương đã toàn là tóc bạc, dung mạo vẫn kiên nghị như trước, nhưng đôi lúc lộ ra những vết nhăn chứa đựng sự thăng trầm.

Đối với Đinh Thừa Tông, thì có liên quan đến thân thế của Dương Hạo rồi. Đinh Thừa Tông là con trưởng nhà họ Đinh, chỉ có hắn mới có quyền thừa nhận thân thế của Dương thị, đưa bà lên làm nhị phu nhân, thừa nhận bà là nữ chủ nhân của Đinh gia. Việc này đối với Dương Hạo tất nhiên có ý nghĩa quan trọng.

Thân là hộ giáo pháp vương của Cương Kim Công Bảo chuyển thế, Hoành sơn tiết độ sứ, thái úy đương triều, nếu là con riêng của một tì nữ, đối với hắn mà nói sẽ là vết dao chí mạng, tin tức một khi đã truyền ra ngoài, rất khó có thể giành được sự kính trọng của danh môn vọng tộc, con cháu thế gia ở Tây Bắc này, hơn nữa còn bị kẻ thù lợi dụng thân phận để đạt được mục đích của mình.

Từ cổ chí kim, những người đã lên làm hoàng đế đều phải hao tâm tổn chí, diệt khẩu… hung tổ tông cùng các vị thánh hiền đều có mối quan hệ nhất định, huống hồ Dương Hạo cần phải xây dựng nghiệp đồ, muốn thống trị những danh gia thị tộc tự cao tự đại đó thì xuất thân của hắn cho dù không vô cùng cao quý cũng nhất định phải nâng cao địa vị của mình bằng mọi cách, cho nên văn võ quan lại Lô châu đối với việc huynh đệ hắn vô cùng quan trọng.

Mấy vị ái thê của Dương Hạo cũng hết sức tán thành, việc Đinh Thừa Tông thanh toán hết sạch mọi ân oán thù hận với Dương Hạo họ đều để tâm. Đặc biệt là quan hệ qua lại giữa họ và tiểu muội nhà họ Đinh, Đinh Vương Ngọc rất tốt đẹp, một đứa trẻ khiến người khác phải động lòng thương như vậy đã cầu xin, Đông Nhi, Diễm Diễm sao có thể nỡ khiến huynh đệ Dương Hạo mất đi hòa khí, làm khó dễ cho Đinh muội, ngày ngày nước mắt đầm đìa.

Thực ra đối với Dương Hạo, cứ cho là không có đám Lâm Bằng Lâm thống thiết khẩn cầu, La Đông Nhi và mấy ái thê ca thán bên tai thì trong lòng hắn cũng đã sớm tiêu tan mọi hận thù. Chuyện thế gi­an, nhiều việc không thể theo ý mình, Dương Hạo đã có lĩnh hội sâu sắc. Đứng trên lập trường của Đinh Thừa Tông, đã không có người nào có thể làm tốt hơn được. Hôm nay hắn phong cho Dương thị là nhị phu nhân của Đinh gia, lấy thân phận là hiếu tử đi bốc mộ mẫu thân, trong thời đại vô cùng coi trọng hoàn cảnh xuất thân này, Đại thiếu gia Đinh gia đi tới bước đường này còn lí do gì để có thể trách cứ hắn đây?

Cởi bộ đồ tang ra khỏi người, bên trong là chiếc áo cà sa, Dương Hạo ngạc nhiên nhìn hắn, cuối cùng không nhịn nổi nữa bèn hỏi: “Ngươi xuất gia rồi sao?”

Đinh Thừa Tông cười nhạt mà nói: “Ta đã bái Phật Đạt Thố Hoạt làm thầy, theo người tu luyện Phật pháp, cho nên duyên trần đã hết, chư chính thức cạo đầu nên hiện giờ chỉ là một thiền sinh” (cư sĩ của mật giáo)

Dương Hạo nhất thời im lặng, lại hỏi: “Vương Lạc đã nói với ngươi về thân thế của ta?”

Đinh Thừa Tông khẽ gật gật đầu : “Ta cũng không ngờ. Thì ra chính là vì nguyên nhân này, Nhạn Cửu thật sự có thể nhẫn nhịn, cũng thật sự đã giành được”.

Đinh Thừa Tông nói, nghĩ đến nhà mình bị Nhạn Cửu hãm hại đến mức thê thảm thế này, không cầm được nước mắt, Dương Hạo trong lòng cũng xót xa, không nhịn được bèn nói: “Đại huynh, chuyện cũ đã qua, nhắc lại cũng chẳng để làm gì”.

Đinh Thừa Tông toàn thân run lên, đột nhiên ngẩng đầu, vui mừng nhìn Dương Hạo, run rẩy nói: “Đệ, đệ cuối cùng cũng chịu gọi ta một tiếng đại huynh rồi sao?”

Dương Hạo trong mắt cũng lấp lánh: “Đại huynh, huynh đệ chúng ta cũng đều là người bị kẻ khác âm mưu hãm hại, giữa chúng ta có vài hiểu lầm, nhưng chúng ta nên bỏ qua hết, thực ra đệ sớm đã coi huynh là huynh đệ của mình, là đại huynh của đệ”.

Đinh Thừa Tông nghi ngờ hỏi: “Từ sớm à?”

“Đúng vậy, chính là từ khi huynh bị hôn mê bất tỉnh, đệ đến chỗ huynh để cáo từ, từ lúc đó đệ đã coi huynh là huynh đệ của mình”.

“Nhưng mà…”

“Nhưng mà huynh đệ cũng phải có cãi vã đúng không?”

“Đúng, đương nhiên là vậy”.

Đinh Thừa Tông vịn chặt vào tay chiếc xe lăn, hai dòng lệ cứ thế tuôn dài, lần này là những giọt nước mắt của hạnh phúc.

Trong lòng đã bình tĩnh lại, Đinh Thừa Tông vui mừng nói: “Nhị đệ, đại ca lần này trở về, ngoài việc đem di cốt của mẫu thân đến còn đem đến cho đệ một vi khách quý. Người này vô cùng quan trọng đối với đại nghiệp của đệ, vì thân thế của người này là chuyện cơ mật, cho dù là quan lại lớn nhỏ ở Lô châu, tất cả những kẻ thân tín đều không được biết, vậy nên ta không thể đưa người ấy đến đây gặp đệ”.

“Người nào lại quan trọng đến vậy?” Dương Hạo sốt ruột hỏi.

“Ngọc Lạc” Đinh Thừa Tông không đáp, quay ra cửa gọi lớn.

Đinh Ngọc Lạc đột nhiên xuất hiện,vui mừng nói: “Đại ca, nhị ca, hai người đã hóa giải hết mọi hiểu lầm rồi sao?”

Đinh Thừa Tông khẽ gật đầu, Dương Hạo bèn nói: “Tiểu muội, gia đình chúng ta, trong lòng có nhiều đau khổ nhất chính là muội, nhị ca thật đã làm khó muội rồi”.

Đinh Ngọc Lạc vui mừng đến nỗi không kìm được nước mắt, má ngọc còn vương những giọt nước mắt long lanh, cô nhẹ nhàng lấy tay lau nước mắt, mỉm cười mà nói: “Không sao, chỉ cần cả nhà chúng ta có thể xóa bỏ hết mọi ân oán hận thù, thì đó chính là điều khiến muội hạnh phúc nhất rồi. Cho nên dù phải chịu bao nhiêu đau khổ muội cũng cam lòng”.

“Đám người phiền phức đó đều đã đuổi đi hết rồi chứ?” Đinh Thừa Tông cười hỏi.

“Vâng, trong vườn ngòai muội ra không còn ai khác” Ngọc Lạc đáp.

“Tốt, muội hãy đưa người ấy đến đây” Đinh Thừa Tông gật đầu nói.

Đinh Ngọc Lạc vâng dạ, thoáng cái đã biến mất, Dương Hạo trong lòng thấp thỏm, vô cùng hiếu kì. Không hiểu Đinh Thừa Tông ngoài việc đem di cốt mẫu thân đến còn đưa đến lễ vật nào nằm ngoài dự đoán đây.

Một lúc sau, trong vườn có tiếng bước chân, Đinh Ngọc Lạc đã quay lại, nói: “Đại ca, nhị ca, khách quý đã đến rồi” rồi quay lại vừa định gọi người đó vào thì người đó đã tự mình bước vào hoa đình.

Người này mắt mũi hùm beo, toàn thân tỏa ra sự hoang dã tàn bạo, trên giữa đỉnh đầu cạo trọc một nửa, ánh sáng chiếu vào lấp lánh, tóc xung quanh tết thành những bím nhỏ rủ xuống, khuôn mặt vuông vuông, miệng rộng lông mày sâu róm, bộ râu hai bên má như rồng uốn lượn, đó quả là một nam tử Hán có phần uy phong hết mực như vậy. Hai bên tai hắn còn đeo đôi bông tai lớn làm bằng vàng lấp lánh.

Thời tiết vào tháng 7, người này lại khoác trên mình bộ áo lông thú, trên tay áo choàng được thêu bằng lông sói thể hiện thân phận cao quý tôn nghiêm. Trên hông người này còn đeo một thanh đao lớn, xem ra sát khí ngút trời, vô cùng lỗ mãng.

Dương Hạo vừa nhìn đã nhảy dựng lên. Vừa lúc đang mặc bộ áo giáp, bèn đưa tay tìm bảo kiếm, ngón tay cái đã chạm được đến chuôi thanh kiếm, thì mới phát hiện ra đây là lần đầu tiên gặp người này ở Tây Bắc, bề ngoài giống như tiết độ sứ định nan quân Lý Quang Duệ, nhưng so với thượng thư bộ công, chỉ huy sứ do triều đình sắc phong Lý Kế Quân thì chỉ có bảy, tám phần tương tự, không hoàn toàn giống nhau. Thấy vậy không kiềm chế được bèn hỏi: “Ngươi là ai?”

Người đó vừa đến đã dùng đôi mắt lang sói đầy vẻ hiểm ác nhìn Dương Hạo từ đầu đến chân, đôi lông mày khẽ chau lại, vừa lúc người đó cũng mở miệng ra hỏi: “Ngài chính là Dương thái úy?”

Đinh Thừa Tông đẩy chiếc xe lăn đến giữa hai người, mỉm cười nói: “Thái úy, vị này là Hạ Châu Thác Bát Hào Phong đại nhân, Thác Bát đại nhân,vị này chính là Hoành sơn tiết độ sứ Dương thái úy.”

Dương Hạo trong lòng dao động, ở vùng Tây Bắc, đại nhân không nhất thiết để chỉ quan lại triều đình, người này dường như cũng không giống quan lại trong triều, vậy chắc chắn là người đứng đầu bộ lạc hoặc tầng lớp quý tộc cao qúy, người này lại là họ Thác Bát ở Hạ châu, vậy chắc có quan hệ mật thiết với bộ lạc Đảng Hạng của người Khương, Đinh Thừa Tông sao có thể liên hệ với người của Lý gia ở Hạ châu?

Kì thực người này cũng có một chức quan trong triều, mỗi một thủ lĩnh của bộ lạc lớn được coi trọng ở Hạ châu thì đều được triều đình nhà Tống ban cho chức quan, trên người vị này đeo quan hàm của chỉ huy sứ, cho dù gia tộc không phải nhân vật quan trọng của Lý gia ở Hạ châu thì gia phụ cũng giữ chức phòng ngự sứ ở Hạ châu, vì gia phụ làm quan ở Hạ châu nên vị tộc trưởng dân tộc thiểu số này chắc là chỉ huy thức sự của bộ lạc.

Thác Bát Hào Phong nhìn Dương Hạo một lượt như để đánh giá, chép miệng, có ý khinh miệt mà nói: “Đinh tiên sinh, người này…chính là nghĩa tử của Lý Quang đại nhân, Hoành sơn tiết độ sứ sao? ở chỗ chúng ta, phải thực sự có bản lĩnh mới có thể khiến người khác tâm phục, chỉ dựa vào phong thưởng của triều đình, thật không xứng với danh hào kiệt Tây Bắc”.

Người này tính khí nóng như lửa, lời vừa dứt đã rút đao ra khỏi bao, hét lớn: “Tiếp đao của ta đây”.

Ánh đao như chớp hướng về phía Dương Hạo. Dương Hạo vốn đã nắm sẵn kiếm trong tay, kinh ngạc nhìn người đó rút đao, sát khí đao mạnh mẽ không chút nể nang, bất giác thầm kinh ngạc, không cần suy nghĩ đã rút kiếm đâm lại.

Sức mạnh trong lưỡi đao của Thác Bát Hào Phong đủ để chem người ta ra làm đôi, nhưng hắn giương đao lên đao lại chém xuống các động tác tuy nhanh nhẹn song rốt cuộc không thể bì được với tốc độ kiếm của Dương Hạo, đao của hắn vừa chém xuống, lưỡi kiếm của Dương Hạo đã chạm vào yết hầu hắn, Thác Bát Hào Phong vô cùng sửng sốt, cứng người lại trước mũi kiếm, hai cánh tay dùng lực quá sức, gân xanh trên trán cũng nổi hết lên.

“Đường kiếm thật là nhanh” Thác Bát Hào Phong kêu lên.

Đinh Thừa Tông cũng bị những đường đao tỉ thí mạnh mẽ ấy làm cho hoảng sợ, đợi Dương Hạo đánh trả lại mới bình tĩnh trở lại, mỉm cười nói: “Nghe nói Thác Bát đại nhân cùng Lý Kế Quân tỉ thí võ nghệ, đã từng bại dưới tay ông ấy, còn Lý Kế Quân lại là bại tướng dưới tay thái úy của chúng ta, thái úy nhà chúng ta đã từng theo danh sư luyện kiếm, võ công đạt đến được cảnh giới như ngày hôm nay không thể nói trong một hai ngày, Thác Bát đại nhân bại dưới tay thái úy nhà chúng ta cũng không thể coi là chuyện mất mặt…”

“Ấy, thua thì vẫn là thua, võ công không bằng người mà thôi, có gì mà phải mất mặt”.

Thác Bát Hào Phong lại vô cùng sảng khoái, tra đao vào vỏ, cười lớn mà nói rằng: “Ngài thắng được Lý Kế Quân, vậy thì chính là một anh hùng, Lý Quang Mục đại nhân quả nhiên nhận được nghĩa tử tốt, Thác Bát Hào Phong tâm phục khẩu phục rồi”.

Chương 415: Thác Bát Hào Phong

Dương Hạo thấy người đó thu đao bèn tra kiếm vào vỏ, khi đó Thác Bát Hào Phong đột nhiên xông đến trước một bước, Dương Hạo chỉ nghĩ người này gi­an trá, miệng nói nhận thua lại vẫn muốn đánh lén mình. Nhưng nếu luận đến công phu đánh quyền cước thì Dương Hạo không bằng một đứa trẻ lăn lộn chịu trận, Thác Bát Hào Phong tinh thông công phu đấu vật, huống hồ đánh mất thời cơ rồi, rốt cuộc bị hắn dùng đôi tay to lớn giữ chặt lấy hai vai.

Dương Hạo thầm nghĩ trong đầu, đang định dùng chiêu “cua lột xác” để thoát khỏi sự khống chế thì Thác Bát Hào Phong đã vô cùng xúc động nói :”Thái úy đại nhân, ngài là nghĩa tử của Lý Quang Mục đại nhân, tính ra thì ta và ngài có thể coi là huynh đệ một nhà, huống hồ còn có quan hệ với Nạp Bố Y Nhĩ, hai ta càng thân thiết hơn, hôm nay Thác Bát Hào Phong nguyện quy thuận theo đại nhân, tùy đại nhân định đoạt, dốc sức vì đại nhân, mối thù lớn của tại hạ đại nhân nhất định phải giúp đỡ mới thành.”

Dương Hạo nghe xong mới buông lỏng hai vai, nhìn hắn mà hỏi :”Cái gì mà Nạp Bố Y Nhĩ , thân càng thêm thân, ồ…, đó là người con gái của ngươi? Cô nương ấy làm sao?”

Thác Bát Hào Phong cắn chặt răng, căm hận mà nói :”Nạp Bố Y Nhĩ vốn là người con gái của tại hạ, lại bị lão già khốn khiếp Lý Quang Duệ đó cướp mất, người Đảng Hạng tại hạ có ân tất trả, có thù phải báo, thù giết phụ thân, hận cướp thê tử, phàm là nam nhân đại trượng phu đều không thể nhẫn nhục mà bỏ qua, để rửa sạch mối hận này, tại hạ mới nghe theo lời khuyên của Đinh tiên sinh, bí mật đến đây bái kiến đại nhân, xin được theo đại nhân.”

Dương Hạo vô thức nghe mối thù không đội trời chung của hắn bèn truy hỏi :”Nhưng Nạp Bố Y Nhĩ đó có quan hệ gì với ta? Sao lại nói thân càng thêm thân?”

Thác Bát Hào Phong vẫn căn chặt răng, nghe đến câu này bèn lớn tiếng cười ha ha, đấm vào vai Dương Hạo một quyền khá mạnh cười mà nói :”Thác Bát Hào Phong hôm nay xuất hiện ở đây chính là thành tâm quy thuận đại nhân, đại nhân cần gì phải giấu diếm? Nạp Bố Y Nhĩ là chị của Nhĩ Mã Y Nạp, Nhĩ Mã Y Nạp là nguời phải được gả cho thái úy đại nhân, theo bên Lý Quang đại nhân mà nói, ta phải gọi ngài một tiếng em rể, ha ha ha, đây không phải là thân càng thêm thân sao?”

Thác Bát Hào Phong cười lớn một cách sảng khoái, Dương Hạo cũng cười theo vài tiếng, quay lại phía Đinh Thành Tông hỏi :”Thác Bát Hào Phong đang nói gì vậy?”

Thác Bát Hào Phong vuốt bộ râu lớn, nói với Đinh Thành Tông một cách khó khăn :”Phải chăng tiếng Hán của ta nói rất khó nghe?”

Đinh Thành Tông vội nói :”Nạp Bố Y Nhĩ và Nhĩ Mã Y Nạp là con gái của tộc trưởng Ngũ Liễu Thư tộc Tế Phong Thị, ngoại trừ gia tộc họ Lý ở Hạ châu ra thì đó là bộ lạc giàu có nhất trong tám thị tộc của người Đảng Hạng. Họ có thể coi là hai viên minh châu của thảo nguyên, Nạp Bố Y Nhĩ từ nhỏ đã được gả cho con trai tộc trưởng tộc Vãng Lợi, nhưng người Nạp Bố Y Nhĩ thật sự yêu lại là Thác Bát Hào Phong”

Thác Bát Hào Phong ưỡn ngực, nghiến chặt răng mà nói :”Đúng, tộc Tế Phong có thể trở thành tộc giàu có nhất, lớn mạnh nhất ngoài gia tộc họ Lý ở Hạ châu chính là vì có được sự giúp đỡ của bộ lạc ta. Ta vốn định mời phụ thân đứng ra xin được kết thân với Ngũ Liễu Thư đại nhân, tuy Nạp Bố Y Nhĩ đã có hôn ước, theo quy tắc trên thảo nguyên, là kẻ mạnh ta có thể cướp thê tử, huống hồ với sự giúp đỡ của bộ lạc ta cho tộc Tế Phong, Ngũ Liễu Thư đại nhân không thể không hủy hôn tái giá, nhưng… Lý Quang Duệ không biết từ đâu nghe được tin đồn về dung nhan mĩ miều của Nạp Bố Y Nhĩ, liền ra lệnh cho bộ lạc Tế Phong phải dâng hiến mĩ nữ, chính là chọn Nạp Bố Y Nhĩ.”

Đinh Thành Tổ vội phụ họa theo :”Lý Quang Duệ là người cai trị ở Hạ châu, những người đứng đầu các tộc ai dám tạo phản? Haiz, chỉ tiếc cho đôi trẻ, do vậy mà…”

Nói đến đây mặt Thác Bát Hào Phong đã đỏ phừng phừng, nghiến răng nghiến lợi đòi báo thù cho phụ thân, hận cướp thê tử, là nỗi nhục không thể nhẫn nhịn của một nam tử, huống hồ truyền thống từ xưa đến nay của người Khương là coi trọng việc có thù tất phải báo, nhưng muốn hắn giết chết tên vua hữu thực vô danh Lý Quang Duệ thì quả thật hắn không có cái bản lĩnh ấy, cho dù có được thời cơ như thế thì hắn cũng phải suy nghĩ đến hậu quả sau này, mạng sống của phụ mẫu huynh đệ, vô số người trong tộc hắn luôn nghĩ đến, tuy hắn rất yêu Nạp Bố Y Nhĩ, lại không dám liều lĩnh, người mình yêu ngày ngày mua vui cho tên béo đen xấu xí Lý Quang Duệ, tim hắn đau như bị nhúng vào chảo lửa, không lúc nào là không phải chịu đựng sự đau đớn ấy.

Đám nội thám mật giám mà Đinh Thành Tổ phái đến Hạ châu lợi dụng các thân phận khác nhau để theo hầu bên cạnh các vị đại nhân Hạ châu, có người giúp chúng vui chơi sa đọa, có người lại giúp tăng thêm ảnh hưởng, không ngừng truyền bá tư tưởng Lý thị không xứng đáng đứng đầu, lại có người gây ra hỏa hoạn ở khắp nơi, lan truyền các tin đồn. Rất nhanh, họ đã chú ý đến Thác Bát Hào Phong.

Các tin tức lần lượt gửi về Lô châu, Đinh Thành Tổ sau khi phân tích nghiên cứu, lập tức coi hắn là tâm điểm, là đối tượng để lôi kéo, Thác Bát Hào Phong vốn có thù với Lý gia ở Hạ châu, Đinh Thành Tổ lại vạch ra tiểu kế, khiến hắn và Lý Kế Quân kết thành thù hận, như thế Thác Bát Hào Phong càng kiên định với phe phản Lý. Đinh Thành Tổ nhiều lần thăm dò,sau khi xác định tâm ý người này mới xin đến bái kiến, cuối cùng dựa vào ba tấc lưỡi của mình mà thuyết phục được Thác Bát Hào Phong, lôi kéo hắn về phía mình.

Trong tổ chức của chính quyền Lý gia ở Hạ châu, bộ lạc của Thác Bát Hào Phong có thể coi là bộ lạc lớn mạnh nhất, mà tác dụng quan trọng nhất của việc lôi kéo được người này chính là lợi dụng người ngựa cuả bộ tộc này để làm phản, phối hợp trong ngoài với Lô châu, lợi dụng thân phận đạc biệt của hắn để có thể hạn chế được tối đa những sự bất mãn phát sinh từ những người trong đẳng cấp quý tộc do trách nhiệm không thể thoái thác của họ trong chính quyền Lý gia.

Lý gia lấy thân phận là đời sau của hoàng tộc Bắc Ngụy trở thành thủ lĩnh cảu tám bộ tộc Đảng Hạngngng, cai trị Hạ châu nhiều năm, rễ bám sâu vào đất, thực lực lớn mạnh, vậy mà Hạ châu ngày nay trong lo ngoài loạn, lại có sự chống đối của 7 thị tộc Đảng Hạng, trước sau gì cũng không thể trụ vững, nhưng nếu tầng lớp quý tộc đứng đầu ở Hạ châu lên tiếng thì việc truất ngôi sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với Nạp Bố Y Nhĩ?” Dương Hạo tiếp tục hỏi.

Đinh Thành Tông hắng giọng rồi nói :”Là thế này, một năm trước thái úy đến thăm tộc Tế Phong, liên minh bảy bộ lạc, cô nương Nhĩ Mã Y Nạp vừa gặp đã nảy sinh tình cảm với thái úy, Ngũ Liễu Thư đại nhân cũng có ý muốn kết thân với thái úy, ý này…đã từng nhắc qua với thái úy rồi, thái úy lại không có ý kiến phản đối, chỉ là cách đó không lâu,thái úy rời vệ làm quan ở Biện Lương, việc này đành phải tạm gác lại…,nhưng tin đồn mà, đã nhanh chóng bị truyền ra ngoài rồi…”

Nghe câu nói này, Dương Hạo đột nhiên nhớ ra tình cảnh trong tối hôm tổ chức đại lễ của tộc Tế Phong, có rất nhiều mĩ nữ người Khương nhảy múa ca hát trước mặt họ. Giữa các thiếu nữ, có một tiểu cô nương nổi bật nhất, mặc bộ trang phục ngắn, thắt chiếc đai có hoa ván ở ống quần, để lộ sự khỏe khoắn đẹp đẽ, tấm lưng ong tròn lẳn và đôi chân đẹp như màu lúa mạch, chiếc cằm nhọn và chiếc mũi thẳng rất đẹp, trên đầu đội tấm vải hoa xanh rất đặc biệt, trước ngực đeo đồ trang sức bằng bạc nhảy mua hết sức vui vẻ, đôi chân nhỏ trơn láng mềm mại nhảy múa uyển chuyển theo tiết tấu, như một chú ngựa nhỏ đang phóng đi trên thảo nguyên…

Người Khương là đời sau của người Nhung, người Nhung từ thời Xuân Thu chiến quốc đã sản sinh ra nhiều “hồ li tinh”, Nhĩ Mã Y Nạp của buổi tối hôm đó chính là một tiểu hồ li tinh, tuy tuổi còn nhỏ đã có dung mạo xinh đẹp khác thường. Tối đó có rất nhiều thiếu niên Đảng Hạngngng tỉ thí võ nghệ chính là vì nàng mà ghen tức nhau. Cũng chính buổi tối hôm đó, tự mình Dương Hạo giành được sự tương trợ của Cung Động binh, theo học được công phu của một vị thánh nhân Đạo gia, cũng phải đến hai năm rồi không gặp lại, chắc vị tiểu cô nương đó đã khác trước nhiều.

Dương Hạo tỉnh lại từ trong hội ức, dùng ánh mắt nghiêm nghị nhìn Đinh Thành Tông, rồi mới quay sang Thác Bát Hào Phong mỉm cười nói :”Người mà Thác Bát huynh yêu say đắm lại bị kẻ khác cướp mất, vì hồng nhan mà chịu uất hận, Dương mỗ đây có thể lí giải, có điều…nhiều năm như vậy rồi, Thác Bát huynh vẫn ôm hận không giải, rõ ràng là có sự kiêng kị đối với Lý Quang Duệ nếu không đã chẳng đợi đến ngày hôm nay để đối phó với hắn? Huynh tin ta có khả năng đơi phó với hắn? Huynh định làm thế nào để giúp ta?”

Đinh Thành Tông thấy Dương Hạo nghiêm nghị nhìn mình nên không dám tham gia vào câu chuyện nữa, bất giác khẽ thở dài.

Sau khi hắn đến Lô châu, thấy hiện nay Dương Hạo đã gây dựng được ở đây tiềm lực sức mạnh to lớn như vậy, cũng như đã mở ra một thiên hạ mới, rất nhanh hắn đã cảm thấy bất kể giành được phần tài sản lớn hơn đi nữa cũng không nhất thiết phải đánh động đến Dương Hạo, nhưng nếu giúp Dương Hạo xây dựng sự nghiệp thì nhất định có thể khiến Dương Hạo hồi tâm chuyển ý, mà con trai Đinh gia đã không gây dựng được gia nghiệp thì vĩnh viễn chỉ đơn giản là có lớp vỏ bề ngoài giàu có mà thôi, do đó bèn toàn tâm toàn ý giúp đỡ Dương Hạo gây dựng danh tiếng, phát triển thực lực, không tiếc sức mình để lôi kéo những kẻ có thể lôi kéo.

Đến khi hắn đã được bách tính Lô châu đón nhận, cử làm quân sư, hắn sẽ bắt đầu từ những thông tin bí mật lấy được từ chính miệng Lý Quang, chẳng có đạo lí nào là không thể lợi dụng, cứ nói Nhĩ Mã Y Nạp được ca ngợi là con chim bách linh trên thảo nguyên, vô cùng xinh đẹp mĩ miều, thì cho dù cô nương ấy có xấu xí thế nào thì vì đại nghiệp trước mắt hắn cũng sẽ không tiếc công sức tác thành chuyện này, thu được món hời nhất chính là nguyên tắc làm việc của hắn, cái gì mà tâm đầu ý hợp mới có thể kết thành phu thê, đối với hắn mà nói chẳng có ý nghĩa gì cả, Ngũ Liễu Thư cũng là một lão hồ li già, hai bên kết thành phu thê, chuyện vốn dĩ không thể có như thế này chẳng phải đã trở thành hiển nhiên như chuyện phải có mắt và mũi sao.

Thác Bát Hào Phong lớn tiếng nói :”Thực lực Lý Quang Duệ lớn mạnh nhất trong vùng Tây Bắc trù phú, đừng nói Thác Bát Hào Phong ta, nhìn về Tây Bắc ai có thể thắng được hắn? Nhưng hắn lại tự mình tạo dựng nghiệp chướng, gây thù chuốc họa với vô số người, trong tình cảnh như vậy, dân tộc ta Thổ Phiên còn giữ được gì như thuở ban đầu đây? Nhớ lại lúc đầu, dân tộc Thổ Phiên đánh bại hàng trăm ngàn quân Đường, chiếm được bốn trấn Quy Từ, Du Khuất, Yên Giả, Sơ Lặc, hưng thịnh một thời, hùng bá Tây Bắc, kết quả chúng lại đi gây thù chuốc oán khắp nơi, phía Tây gi­ao tranh với đế quốc Đại Thực, phía Bắc thù địch với nước Hồi Nhiễm, phía Nam khiêu chiến với nước Nam Thiệu, còn phía Đông bế quan tỏa cảng với Đại Đường, không gi­ao lưu với bên ngoài, trong ngoài Thổ Phiên khó khăn liên tiếp, chuyển sang suy tàn, cuối cùng trở nên thê thảm như ngày hôm nay.”

Cha con Lý Quang Duệ cướp đoạt ngôi vị, ngông cuồng ngang ngược, phía Đông gây hiềm khích với Phủ châu, Lân châu, phía Nam đối địch với Thổ Phiên, Hồi Hất, phía Tây cự tuyệt buôn bán với Ba Tư, Thiên Ta và Đại Thực, gây thù oán khắp nơi, hoàn toàn bị cô lập. cứ nhìn những gì người Thổ Phiên đã phải chịu thì sớm muộn gì tộc Thác Bát ta cũng bị chúng dồn đến bước đường cùng, những người đứng đầu các bộ lạc cũng vì thế mà lo lắng bất an, tiếc là không có ai có đủ tư cách để lên thay thế, vừa đúng lúc đó thì nghe tin nói về tin tức của Lý Quang Bổn đại nhân”

Thác Bát Hào Phong nhìn Dương Hạo,nói một cách thân thiết :”nếu biết người thảo phạt được Lý Quang Duệ là Lý Quang Giới đại nhân, tại hạ đã kêu gọi thủ lĩnh các bộ lạc bất mãn ở Hạ châu không xuất binh, khiến họ đứng một bên, chờ sự việc qua rồi thì cũng không bị làm khó dễ, thuyết khách thích hợp nhất để liên hệ với các bộ lạc về chuyện này không ai khác ngoài Thác Bát Hào Phong ta đây, chỉ có điều…thái úy đại nhân phải làm cho họ phải tâm phục khẩu phục tại hạ, còn phải thể hiện được vũ lực của Lô châu, ngài ở đây càng uy phong, tại hạ càng dễ nói những lời hoa mĩ”.

Dương Hạo nghe xong chợt cười lớn :”Diễu võ dương oai sao? Ha ha, cái này thì chẳng có gì khó, trong vòng nửa tháng, ta sẽ cho các người thấy uy lực của Lô châu mạnh đến mức nào, nào đến đây, đến đây, ngồi xuống rồi chúng ta tiếp tục bàn bạc cẩn thận”.

Dương Hạo thân mật cầm tay Thác Bát Hào Phong đưa đến chỗ ngồi, có ý lãnh đạm với Đinh Thành Tổ, coi như đó là một sự dạy dỗ nho nhỏ cho hắn. Đinh Thành Tổ cũng không cho đó là hiềm khích vẫn khẽ mỉm cười, tự mình đẩy chiếc xe lăn đi về phía sau Dương Hạo, đứng vào vị trí quân sư phò tá chính là vào lúc này. Bên ngoài hoa viên hình như có động tĩnh, Đinh Ngọc Lạc vội chạy ra xem, trong tích tắc đã quay trở lại, vội vã báo :”Nhị ca, Lân phủ lưỡng châu Dương đô đốc tướng quân đã đến bên ngoài thành rồi, các quan lại đang cho người đi tìm đại nhân để ra nghênh đón”.

Dương Hạo nghe xong bèn quay sang nói với Thác Bát Hào Phong :”Không đón tiếp chu đáo Thác Bát huynh, thật là quả thất lễ, chỉ có điều với thân phận của huynh không tiện xuất đầu lộ diện trong ngày hôm nay. Ngọc Lạc, mau đưa Thác Bát đại nhân vào nội viện nghỉ ngơi, cử người tâm phúc nhất đến hầu hạ, bổn quan ra trước để nghênh đón hai vị khách quý”.

Chương 416: Kết nghĩa

Đại môn động mở ra. Dương Hạo cùng Chiết Ngự Huân và Dương Sùng cùng nhau bước vào.

Bước vào trong thành Ngự Huân và Dương Sùng thầm kinh ngạc. Trong thành vốn dĩ rất yên tĩnh, nhưng không ai có thể ngờ được rằng vừ vào bên trong đã trông thấy đội binh mã hùng dũng đã đứng nghiêm trang ở đó từ trước. Hàng ngàn người ai nấy cũng đều khí thế ngút trời, khí thế mạnh mẽ như bức tường sắt kiên cố khiến hai vị đại soái cả đời theo binh nghiệp cũng không thể tránh khỏi có chút kinh động trong lòng.

Chiết Ngự Huân và Dương Sùng mỗi người đều đem theo khoảng ba trăm thị vệ và một đám liêu thuộc, tất cả lần lượt tiến vào thành, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt không thể tránh khỏi có những lời xì xào nho nhỏ.

Nhân việc hai thủ lĩnh vùng Tây Bắc đến thăm, Dương Hạo lần đầu để lộ ra thực lực thật sự của mình, giờ đây hắn không còn là một con côn trùng đáng thương phải tiếp tục luồn lách để thỉnh cầu giữ được mạng sống, cũng chẳng cần phải giả bộ là hảo hán không tranh giành thị phi với đời, hắn nhất định phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự tin cậy tín nhiệm của quân dân Lô châu, sự tin cậy tín nhiệm của các thương hội như Tác Cổ và Kế Tự đường, phô diễn hết thực lực thật sự của mình mới có thể giành được sự ủng hộ lớn nhất của hai bên Chiết Dương.

Lý Thính Phong đứng bên ngoài một con hầm giữa núi, vuốt râu quan sát đội quân chỉnh tề, chỉ xuống mà nói :”Trường đao mà đội quân đó cầm chẳng phải chính là mạch đao đã từng bị thất truyền từ lâu rồi sao?”

Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ cười nói :”Nói thanh đao này không phải mạch đao cũng đúng, nói là mạch đao cũng không sai, có điều nếu đem so sánh với thanh mạch đao nhà Đường, thì đao này còn lợi hại hơn nhiều lần. Thanh mạch đao triều nhà Đường vì kĩ thuật luyện sắt có hạn, trình độ rèn cũng không cao, do đó mỗi thanh mạch đao cán gần năm cân trở lên, còn thanh mạch đao này chất gang tinh luyện rất tốt, thân đao kiên cố, lưỡi đao sắc bén, uy lực không sao kể xiết, nhưng quan trọng là chỉ nặng bằng một nửa thanh mạch đao nhà Đường mà thôi”.

“Nếu đã như vậy, Dương Hạo phải chăng sớm đã có dã tâm hùng bá một phương? Nếu không sao hắn có thể mời được thợ rèn danh tiếng đến luyện đao trong một thời gi­an ngắn như vậy? Từ đó đến nay không biết đã luyện được bao nhiêu binh khí?”

Ánh mắt Tùy Đại Lang khẽ dao động, lắc đầu cười nói :”Đó là cơ mật tối cao của Lô châu, ngay cả ta cũng không biết, nhưng theo động tĩnh của hắn, nếu hắn thực sự có dã tâm không để lộ ra ngoài thì đó chẳng phải là điều càng có lợi cho ta sao?”

Lý Thính Phong gật gật đầu nói :”Từ trước đến nay, bộ kì binh lợi. Những thứ như kình mã bân xung, cường nỗ cự chi lại gần trong chốc lát , cũng khiến kẻ sai lầm gặp phải họa sát thân, duy có đội quân này vẫn là khắc tinh của kỵ binh, nhưng sức mạnh uy lực nhất chính là thanh đại đao này, hàng nghìn lưỡi đao sắc nhọn như bức tường thành kiên cố, trên chém người dưới chặt đứt ngựa, nếu kỵ binh quân địch đánh áp sát, bất kể là vượt qua chân quân ta, giày xéo lên bộ túy của ta, chỉ cần có đại đao này chắn ở phía trước thì tất cả đều như tự mình tìm vào chỗ chết. Ta hãy còn nhớ, từ khi thanh mạch đao này được tạo ra, phàm là trận nào dùng mạch đao trận cũng không phát huy được hết tác dụng to lớn”.

“Dùng binh là ở mưu kế. Pháp quý thiện biến, tác dụng của kỵ binh chỉ ở chỗ xông pha trận mạc, chỉ dựa vào một đội quân dùng mạch đao trận đó đương nhiên không thể trở thành vô địch thiên hạ được, nhưng có được đội quân này kỵ binh của kẻ địch mà cận chiến nhất định sẽ chuốc lấy đau khổ, tác dụng của mạch đao chủ yếu là khống chế kỵ binh địch cận chiến, tác dụng của cung tên chủ yếu là để khống chế kỵ binh địch viễn chiến, ngươi hãy nhìn đội cung tên đối diện với đội quân dùng mạch đao xem, mạch đao và cung tên phối hợp với nhau đúng thật là khắc tinh của kỵ binh..”

“Xem ra Lô châu không những sớm đã có sự chuẩn bị mà còn bước đầu đã xây dựng được quân đội để đối phó với đối thủ có đội quân chiến mã ở Tây Bắc, đối thủ như vậy còn có thể là ai? Dĩ nhiên là Lý đại nhân của Hạ châu rồi. Từ xưa đến nay anh hùng sinh ra nhờ gặp vận, thời thế sinh anh hùng, anh hùng dễ gặp thời thế, Tây Bắc có thể thay thời đổi vận trong tay hắn hay không, chúng ta cứ từ từ chờ đợi rồi sẽ rõ”.

Đùng! Đùng! Đùng!

Ba tiếng pháo hiệu lệnh nổ ra, dàn nhạc cũng cất lên lập tức. Hai bên giáp trượng chỉnh tề, đao kiếm sừng sững, ba người Dương Hạo cùng bước chậm lại, duyệt binh diễu hành.

” Mạch đao trận !”

Dương Sùng vừa nhìn thấy đội quân sừng sững như bức tường kiên cố con người suýt nữa rơi ra ngoài, ánh mặt trời chiếu trên lưỡi gươm phát ra những tia sáng lấp lánh như phản chiếu trên mặt hồ nhưng lại để lộ ra sát khí kinh người, Dương Sùng trông thấy mà hơi thở cũng trở nên gấp gáp hơn.

Từ cuối thời Đường đến nay, mạch đao đã dần dần trở thành binh khí được các tướng lĩnh có thân phận cao quý sử dụng, trước nay chưa từng có đội quân nào có binh lính chuyên sử dụng mạch đao, đội mạch đao khi ra trận áp sát nhau tiến lên theo hàng ngang, cán đao dài lớn như bức tường, theo tiết tấu tiếng trống lùi tiến vung chém khiến quân thù trước mặt không có cách nào chống lại được.

Trong số những trận chiến đã được ghi vào trong sử sách, sự tham chiến của mạch đao trận đều giữ vai trò quyết định quan trọng, đặc biệt là khi tham gia gi­ao chiến với các dân tộc du mục giỏi cưỡi ngựa bắn cung,mạch đao trận đã thay đổi được tình trạng đội quân người ngựa yếu của quân trung nguyên, phát huy khí thế của bộ binh, phối hợp với các cung thủ trên chiến trường để truy đuổi kỵ binh cũng không phải là chuyện hiếm.

Nhưng bất cứ đội binh nào cũng đều có nhược điểm của nó, mạch đao trận cũng không phải là ngoại lệ. Trước tiên nó cũng cần phải phối hợp với kỵ binh và cung thủ, không thể đơn độc tác chiến, hơn nữa xây dựng binh đội như vậy rất đắt, thời gi­an luyện tập cũng gấp mấy lần những binh lính khác, chí ít cũng phải mất hai năm mới có thể cho binh sĩ ra tham chiến, đợi đến lúc luyện thành thục rồi thì đạt đến cảnh giới tĩnh lặng như lâm, bất động như núi, nhanh như sớm chớp, lan tỏa như lửa.

Từ cuối thời Đường các chư hầu nhất loạt nổi lên, tự ý tuyển mộ nạn dân, nhét vào tay họ một thanh đao, thế là thành binh lính, kẻ thảo dân nào có thể chịu đựng một thời gi­an dài nhẫn nại luyện tập thông tỏ được binh pháp phối hợp mới có thể phát huy được tác dụng to lớn của mạch đao trận, huống hồ phí tổn để chế tạo mạch đao và lớp giáp nặng bên ngoài rất lớn, cũng chẳng có kẻ điên cuồng nào dám bỏ ra.

Đúng như Tùy Đại Lang nói, dùng binh phải ở mưu kế, pháp quý thiện biến. Thời đầu Đường, binh lực của các dị tộc như Thổ Phiên, Đột Quyết còn hạn chế, quân đội do triều Đường điều động cũng có hạn, khi Lý Tịnh Đại đánh bại Tây Đột Quyết cũng không dùng quá ba nghìn quân, trận chiến Thản La Tư quân Đường điều động đại quân cũng không đến ngàn người, cho nên mạch đao tuy đắt nhưng vẫn có thể trang bị cho toàn quân đội, đến sau này, quy mô doanh trại không ngừng mở rộng, chẳng ai còn có thể chống đỡ được cho một đội quân hao tốn quá nhiều tiền bạc như vậy nữa.

Đến sau này, bản thu nhỏ của mạch đao…nhất thái đao đã lưu truyền đến Nhật Bản, trở thành vũ khí chiến đấu chủ yếu của các võ sĩ, đó là bởi vì cho dù theo sử sách ở đấy có những chiến dịch với quy mô lớn,nhưng binh lực được huy động cũng không quá vài nghìn người, mà trên chiến trường trung nguyên nếu động chút đã huy động cả vài chục ngàn người thì thứ binh khí này sẽ dần dần bị suy tàn, thay thế nó là thương và rìu, hai thứ này giá cả rẻ, có thể trang bị với số lượng lớn, tuy uy lực có bị sụt giảm song nhất thời cũng có thể khống chế được kỵ binh của địch.

Ban đầu khi Dương Hạo xây dựng Lô châu đã lấy danh nghĩa là xây Khai Bảo tự để thu được khối lượng lớn đồng thiếc, khi đó kẻ thù giả tưởng của Lô châu chính là người Khương ở Tây Bắc, cho nên vũ khí chiến đấu chủ yếu của Lô châu chính là dùng cung tên cho viễn chiến và đao rìu cho cận chiến, khi đó đã từng có người đưa ra ý kiến chế tạo mạch đao song vì để tiết kiệm tối đa đồng thiếc, đồng thời cũng là để nhanh chóng chế tạo vũ khí đưa ra chiến trường nên Dương Hạo đã bãi bỏ ý kiến đó, cho đúc lượng lớn rìu chiến.

Nhưng sau này tình hình thay đổi, Lô châu đã có mỏ thiếc của riêng mình, mà diện tích binh lực của Lô châu có hạn, chỉ có thể dựa vào tinh binh mà thôi. Do đó Dương Hạo bèn thay đổi chủ ý, lệnh cho phẩm đường Lý Hưng Tinh tuyển chọn tinh binh. Cuối cùng cũng chế tạo ra được thanh mạch đao có nhiều cải tiến hơn trước, thanh đao này nhẹ hơn rất nhiều so với thanh đao nhà Đường, các binh sĩ khi tập luyện cũng nhanh chóng sử dụng được.

Nghệ thuật chiến tranh không chỉ là trên chiến trường chém chém giết giết, nhưng phàm là nhân tố có thể khắc chế quân địch giành chiến thắng, thân làm chủ soái tất nhiên sẽ phải nghĩ cách mà lợi dụng nó.

Mạch đao là thứ vũ khí lợi hại thời thịnh Đường dùng để đối phó với người Thổ Phiên, Đột Quyết, đến ngày hôm nay nhà Đường mới bị diệt vong chưa đến trăm năm, triều đại trung nguyên cũng đã phát sinh nhiều biến cố kinh thiên động địa, trong khi văn hóa và phương thức sống của cấc dân tộc phía Bắc vẫn phát triến một cách chậm chạm, loại vũ khí có tính sát thương đáng sợ này vẫn còn trong kí ức của các dân tộc này như vừa mới hôm qua, xây dựng lại một đội quân mạch đao, sẽ có tác dụng tâm lý to lớn, khi nó đã thành công trên chiến trường,dương uy trở lại với Tây Bắc sẽ tạo ra áp lực tâm lí không thể chế ngự được với đối thủ, kẻ địch càng mạnh, nếu trước đó khiến chúng phát sinh sự lo lắng sợ hãi thì khả năng chiến đấu nhất định cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Hôm nay mạch đao trận lần đầu phô diễn quả nhiên đã khiến cho Chiết Ngự Huân và Dương Sùng vô cùng kinh ngạc. Trăm ngàn thanh mạch đao đứng sừng sững cao lớn, dày đặc như một bức tường vuông vắn, bọn hắn có thể tưởng tượng đến cảnh cả đội quân giơ cao thanh mạch đao lên, tiến từng bước vững chãi về phía trước theo tiếng trống, trăm ngàn đao lớn giương lên hạ xuống, đó sẽ chính là cảnh tượng đang ở trước mặt, chỉ huy cầm trên tay thanh mạch đao lớn, bên trong người ngựa ngay ngắn chỉnh tề, khí thế không cưỡng lại được.

Đi giữa con đường rộng rãi,cách trận mạch đao mười mấy bước, đám ngựa đều cảm thấy sát khí từ bên đó thì bất an thở phì phò không yên, những vệ binh tinh nhuệ do hai vị tiết độ sứ thống lĩnh mặt cũng biến sắc.

Khi Dương Sùng còn đang tham lam dán mắt vào đánh giá trận mạch đao, Chiết Ngự Huân lại nhìn sang phía đội cung thủ ở một bên, Chiết Ngự Huân thông qua “Tùy Phong” sớm đã biết Lô châu bí mật luyện trận mạch đao, bí mật này đối với bản thân đã không thể xem là bí mật nữa rồi, tuy hôm nay mới là lần đầu hắn được thấy uy thế của trận mạch đao song hắn vẫn có thể làm ra vẻ thản nhiên như không.

Điều hắn thật sự quan tâm đến chính là đội cung thủ của Lô châu.

Hắn sớm đã nghe nói Lô châu nghiên cứu chế tạo một loại cung nỏ mới, nghe nói phạm vi và khả năng sát thương đều khác biệt vượt trội, đáng tiếc loại vũ khí này quá bí mật, chỗ bí mật của nó chính là khi thiết kế sử dụng rất nhiều các bộ phận hỗ trợ tinh xảo trợ lực, điểm cơ bản nhất của xạ tiễn cũng giống như các loại cung nỏ bình thường, một binh sĩ tinh thông cưỡi ngừa bắn cung cũng chưa chắc đã nhìn thấy nó, chỉ cần luyện tập qua cũng có thể nhanh chóng lên tay, cho nên loại nỏ thần do Lô châu chế tạo này hoàn toàn không ai hay biết, bình thường cũng không gi­ao cho binh sĩ luyện tập cho nên hắn cũng không rõ được tường tận.

Hôm nay là lần đầu tiên hắn tận mắt nhìn thấy loại nỏ thần do Lô châu bí mật chế tạo, hắn ngồi trên lưng ngựa, khép hờ đôi mắt, vuốt chòm râu dài quan sát một cách tỉ mỉ, nếu so sánh ra thì cung của chiếc nỏ bình thường dường như to hơn loại nỏ thần này, theo lẽ thường, nếu muốn bắn xa bắn nhanh thì cánh cung cần phải dài hơn một chút, mà khoảng cách bắn đã xa hơn các loại cung bình thường thì bắn càng khó hơn, vậy lí do nó có thể ưu việt hơn cung bình thường hiển nhiên là nhờ sự tinh xảo của các bộ phận thêm vào.

Chưa nhìn thấy họ phô diễn thì ngay cả đến uy lực của nó thế nào cũng khó có thể biết được, dùng mắt để đoán thế này cũng chẳng thể nhìn ra sự tinh xảo của nó, vậy nên hắn chỉ có thể ngắm nhìn một cách nuối tiếc đội cung nỏ được trang bị chỉnh tề.

Mỗi người đều mặc áo giáp nửa người, giữa lưng có dắt dao, ngay phía trước người là tấm lá chắn lớn, trên tay một tấm lá chắn nữa, khả năng phàng thủ của đội cung thủ được tăng lên nhiều lần, bồi dưỡng một xạ thủ không phải là chuyện dễ dàng, phải cho họ đem theo bên mình một tấm chắn lớn, đương nhiên có thể giảm đi rất nhiều tổn hại trên chiến trường, nhưng nếu như vậy, sức chiến đấu của cung thủ sẽ thế nào?

Chiết Ngự Huân rất nhanh đã phát hiện ra, tấm khiên chắn khi chuyển động vô cùng nhẹ nhàng, dường như dùng một vật có độ dai như mây để chế tạo nên, bên ngoài tráng qua lớp thiếc, vậy mà, chiếc khiên đó thả ra có thể đặt đứng thẳng trên mặt đất, Chiết Ngự Huân kinh ngạc không thể lí giải nổi, nhìn nghiêng hướng khiên xem mới chú ý đến mặt sau của chiếc khiên có một giá trụ, hai góc chân trụ kết hợp với một chân trụ thứ ba ở chỗ thấp nhất khiến tấm khiên có thể đứng vững trên mặt dất, như vậy các xạ thủ có thể chuyên tâm vào việc cung nỏ mà không cần thiết phải để ý đến tấm giáp phong hộ che chắn của mình, đồng thời lại có thể nâng cao hiệu quả phòng ngự một cách tốt nhất.

Chiết Ngự Huân thầm ca ngợi sự kì diệu của nó, trong lòng nghĩ :”Chỉ thêm vào vài thứ đồ chơi be bé đã có tác dụng lớn đến như vậy, khi trở về ta nhất định phải lệnh cho thợ mộc ở Phủ châu mô phỏng theo”.

Đi về phía trước, hai bên đều là đội khinh kỵ binh và giáp kỵ binh, khinh kỵ binh thì không cần phải nói, nhìn thấy những con ngừa A La Bác cao lớn đẹp đẽ bên phải, trên chân ngựa, cả trên lưng ngựa, toàn thân đều được trang bị giáp sắt, phía trước là võ sĩ giấu mặt thân cao trượng tám , giống như quái thú giáp sắt, Dương Sùng ghen tị mà nói :” Ta đây nếu có được đội kỵ binh trọng giáp như thế này, bất kể người hay phật ngáng trở đường đi của ta ta đều không tha, hành sự lẽ nào còn phải nể nang kẻ khác hay sao?”

Chiết Ngự Huân lại càng ghen tị :”Thật không ngờ Dương Hạo lại có nhiều tiền của như thế, nhớ lúc đầu ta còn hào phóng tặng cho hắn không ít binh khí, sớm biết thế này, ta nên trở tay lấy một vài thứ của hắn mới đúng, tên tiểu tử này luôn miệng than nghèo khó, đại ca đây đã bị hắn lừa rồi, không được, sau này nếu tiểu muội ta thật sự được gả cho hắn, nói không chừng sẽ nhận được một món hồi môn đáng giá, huynh đây trượng nghĩa, lẽ nào ngươi lại không chịu nể mặt người huynh đệ này”.

Hắn nghĩ rồi không nhịn được, quay đầu nhìn theo đám thị vệ, trong đám thị tùng, tên thị vệ mặt mày tuấn tú, để râu chữ bát chính là Chiết Tử Du cải trang.

Nhìn thấy binh lính Lô châu bày binh bố trận chỉnh tề uy nghiêm, đôi mắt Chiết Tử Du long lanh khác thường, nàng vốn cho rằng “Tùy Phong” của mình chỗ nào cũng có thể xâm nhập, nhìn khắp cả Tây Bắc này không có thứ gì có thể qua khỏi tầm mắt của nàng, không ngờ nhìn ngay xuống mũi mình bất giác đã thấy Dương Hạo có được thực lực to lớn đến vậy, muốn vậy cũng phải tiêu tốn biết bao tiền bạc sức lực, phải chuẩn bị huấn luyện trong bao nhiêu lâu? Vậy mà hắn còn mở miệng ra là nói muốn tránh xa thế sự, lui về ở ẩn, khuyên ta không cần phải đối đầu lại với số phận, ai có thể tin được hắn? Tên lừa đảo, thật là kẻ đại lừa đảo !”

Chiết Tử Du một mặt nhớ nhung, một mặt lại căm hận, hận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi lại, không hề chú ý đến việc huynh trưởng đang quan sát mình một cách đê tiện, con người trong đôi mắt phượng đã biến thành hai tấm “Tống Nguyên thông bảo”

Thấy hai tên Chiết Dương đi qua trận kỵ binh, Tùy Đại Lang và Lý Thính Phong đứng từ trên cao nhàn xuống không nén nổi nhìn nhau mà cười, trên mặt lộ rõ sự kiêu căng. Đội kỵ binh thùy giáp này Lô châu đã sớm bắt đầu huấn luyện rồi, nhưng những phiến giáp trụ đồng, lại có A La Bá mã cao lớn anh tuấn, tất cả đều dựa vào sự giúp đỡ của Kế Tự đường mới có thể trang bị được, thấy mình dùng tài lực lớn một tay trang võ trang quyền uy tự nhiên cảm thấy vinh quang tột cùng.

Phía trước lại là một đội trường thương và đoản đao, trường thương và đoản đao trận còn phân ra thành các động tác như vung thương (đao) , chặt đâm, thu đao…các động tác nhất loạt chỉnh tề, trăm nghìn người ầm ầm khí thế, nhất tề đồng loạt, trông vô cùng đẹp mắt, cảm giác thị giác đem lại khiến người xem phải rung động.

Tuy nói thứ đồ chơi này trên chiến trường không phát huy được tác dụng gì nhưng điều quân đội coi trọng chính là luyện tập sự nhanh nhẹn, nhất loạt theo hiệu lệnh, những binh sĩ này đều có thể thực hiện các động tác vuông vắn nhất tề như cùng một người xuất ra, còn phải e ngại khi ra trận họ không tuân thủ theo quân lệnh như sơn sao?

Chiêu này là do Dương Hạo học tập theo từ trong binh pháp hậu thế, quả nhiên dành được những lời tán thưởng, các võ tướng xem xong cũng gật gù tán thành, các quan văn võ đi cùng Chiết Dương cũng không nén nổi sự phải lớn tiếng tán thưởng.

Nơi nghênh đón lưỡn­ng phiên tướng quân lại không phải trong phủ tiết độ sứ mà là ở lầu cao bên ngoài nha phủ, ở đó dựng một chiếc cổng chào cao, hai bên là hai dòng thác nước tuôn chảy, cảnh sắc vô cùng tráng lệ.

Hôm nay hai phía khâm chỉ đến thăm quan có ý nghĩa to lớn phi phàm, đây chính là một sự thể hiện rõ rệt nhất của chính trị.Dương Hạo cũng là muốn nhân dịp này để thể hiện sức mạnh một cách công khai, cho nên nơi nghênh đón phải chọn chỗ sáng sủa nhất.

Trong số đám thương nhân đến Lô châu này không thể không có tai mắt của triều đình, thậm chí còn có cả tai mắt của phe Hạ châu Lý Quang Duệ và Ngân châu Khánh vương, từ ngày hôm nay, Dương Hạo lấy thân phận của một kẻ mạnh để xuất hiện trước mặt thế nhân, phô trương? Đó là điều tất nhiên.

“Hai vị tiết độ sứ đến đây, ta xin giới thiệu với các vị hai người bằng hữu tốt”.

Dương Hạo cầm tay Chiết Ngự Huân và Dương Sùng lôi đi, đứng trên lầu cao rồi cười mà nói :”Vị này là Tiểu Dã Khả Nhi, là tộc trưởng bộ lạc Dã Lợi Thị, bổn quan có thể vinh dự được thăng làm tiết độ sứ, trở lại Lô châu, Đảng Hạng kết gi­ao hữu hảo với Lô châu ta, đó là niềm vui mừng khôn xiết, đặc biệt còn ủy thác cho tộc trưởng tộc Tiểu Dã thay mặt các tộc Đảng Hạng đến trước chúc mừng.”

Tiểu Dã Khả Nhi tiến lên phía trước một bước, chắp tay hành lễ với Chiết Ngự Huân và Dương Sùng, tươi cười nói :”Tiểu Dã Khả Nhi tham kiến hai vị tiết sứ, sớm đã nghe danh tiếng hai vị, hôm nay được gặp thật là phúc đức ba đời”.

Hai nhà Chiết Dương đương nhiên hiểu rõ các bộ lạc ở Tây Bắc như lòng bàn tay, họ đều biết trong số tám bộ lạc của người Đảng Hạng thì bộ lạc Dã Lợi Thị là hung bạo nhất, cũng đã từng nghe nói danh tiếng của Tiểu Dã Khả Nhi, nghe nói người thanh niên anh vũ dũng mãnh trước mặt mình chính là Tiểu Dã Khả Nhi thì không giấu nỗi sự hoan hỉ, khách khí đáp lễ lại, hai bên hỏi han nhau một lượt.

Hai bên hành lễ đã xong, Dương Hạo bèn nói :”Ở đây còn một vị khách quý nữa, đó là Thổ Phiên Á Long Giác A Vương Hậu Thương, người đứng đầu lạc Á Lũng Giác Xích Bang Tùng Xích đại nhân, Xích Bang Tùng đại nhân, vị này là Chiết đại soái Phủ châu, vị này là Dương đại soái Lân châu, đến đây, mọi người gặp nhau”.

Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong đều thầm kinh ngạc :”Dương Hạo ngay cả người Thổ Phiên cũng đã lôi kéo được quan hệ”.

Thổ Phiên đã từng cai trị Tây Bắc, từ thời Võ Tắc Thiên đến Đường Huyền Tông họ đã chiến tranh liên miên với Đại Đường, bên này hòa hiếu, bên kia lại gây chiến, đến sau này rốt cục cũng tranh đoạt được bốn trấn An Tây, tiêu diệt Thổ Cốc Hỗn, cướp được Hà Tây và Lũng Hữu, thậm chí có lúc còn tấn công áp sát thành Trường An của nhà Đường.

Nhưng khi đó thế lực của đế quốc Đại Thực đã bắt đầu xâm chiếm phía Đông, thay thế thế lực nhà Đường kéo dài đến Thổ Phiên của Thông Lĩnh, liên tiếp gây chiến với người Đại Thực, bên này chiến tranh không dứt, đế quốc Hồi Hất bên kia nhân đó vùng dậy, hai bên Thổ Phiên đều rơi vào chiến tranh. Sức mạnh tiêu hao cạn kiệt, cuối cùng sụp đổ.

Sau khi Tán Phổ Đạt Ma cuối cùng chết, Thổ Phiên tan rã sụp đổ, phân tách thành 4 chính quyền lớn, là A Li Vương Hệ, Á Trạch Vương Hệ, La Sa Vương Hệ, Á Lũng Giác A Vương Hệ. Bốn thế lực này cũng phân thành nhiều thế lực nhỏ khác, ví dụ A Li Vương Hệ phân chia thành ba bộ phận Mãnh Vực, Tượng Hùng, Bố Nhượng; La Sa Vương Hệ phân chia thành Sùng Ba Ba, Khương Gi­ao Ngõa, La Ba Lãng Ba, Trị Ba, Nghiệp Đường Ba, Lô Ba Tạng Ba…

Tuy nói Thổ Phiên phân chia ra rất nhiều, người Khương của Hồi Hất và Đảng Hạng xâm lược nơi khác, đàn áp nô dịch người dân, nhưng ngựa thồ gầy yếu vẫn lớn hơn ngựa thường, bộ lạc lớn mạnh nhất trong đó vẫn là bộ tộc có vũ lực lớn mạnh nhất, không dễ bị xem thường, từ Phủ châu và Lân châu mà nói, nếu Hạ châu đi xâm lược nơi khác, họ nhất định sẽ xuất quân đánh lại, nhưng nếu để hai vị tiết độ sứ bọn họ liên thủ lại, họ cũng không dám khinh xuất khêu chiến với Hạ châu, trong khi đó Thổ Phiên lại có thực lực này.

Vừa nghe nói Dương Hạo có quan hệ mật thiết với Thổ Phiên, Chiết Ngự Huân và Dương Sùng không thể không thay đổi cách nhìn với tay láu cá này, phải đánh giá lại thực lực thật sự của hắn.

Xích Bang Tùng tuổi tác không lớn lắm, cũng tầm tầm với Tiểu Dã Khả Nhi, chỉ ít hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tháng, nhưng tướng mạo khôi ngô cường tráng, để râu trên mặt, nên xem ra có vẻ lớn hơn Tiểu Dã Khả Nhi vài tuổi, xem chừng tính khí thẳng thắn dũng cảm, nhất định không thể là gi­an tế, vừa nghe Dương Hạo giới thiệu, hắn đã nhanh chân bước lên trước, giơ cao hai cách tay, cúi người khom lưng hành lễ, vui vẻ nói :”Xích Bang Tùng bộ lạc Á Lũng Giác bái kiến Phủ châu Chiết soái, Lân châu Dương soái, danh tiếng hai vị đại nhân đã sớm lưu truyền đến chỗ tại hạ, hôm nay gặp mặt thật là vinh hạnh”.

Nói sau mấy câu nói khách sáo, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân suýt chút nữa không hiểu gì, tiếng Hán của Xích Bang Tùng rất lưu loát, chỉ là hắn nói một hơi rồi mới ngắt một câu, cũng chẳng cần quan tâm ngắt ở chỗ nào, nghe xong khiến người khác sũng sờ một lúc, hắn nói khó khăn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân nghe còn khó khăn hơn.

Dương Hạo cười lớn rồi tiến lên phía trước giải thích vài câu rồi mời mọi người vào chỗ, sau khi đã sắp xếp ổn thỏa bèn nâng cốc lên, vô cùng đắc ý nói :”Chư vị, bổn quan trở lại Lô châu, nhận thánh chỉ của triều đình, nhận chức tiết độ sứ Hoành sơn, hôm nay vinh hạnh được bạn bè từ u nơi đến chúc mừng, Dương mỗ vô cùng cảm kích, bát rượu này, Dương mỗ xin kính mọi người trước, xin mời”.

Dương Hạo nâng bát uống cạn, Dương Sùng và Chiết Ngự Huân liếc nhìn nhau, cũng mỉm cười nâng bát rượu lên, các quan lại hai bên cũng lần lượt nâng cốc đứng dậy, lớn tiếng hưởng ứng, âm thanh rung động cả khe núi, vọng lại từng hồi không dứt.

Đặt bát rượu xuống, Dương Hạo vẫn chưa quay về chỗ ngồi, nâng lên một bát rượu, cao giọng nói :”Đã nhậm chức quan, phải tạo phúc cho dân, giữ yên sự bình an cho triều đình. Ngân châu vốn là vùng đất nằm dưới sự cai trị của nhà Tống ta đây, chịu sự cai trị của Định Nam Thảo, nay lại bị quân phản nghịch Khiết Đan chiếm lấy làm của mình, Định Nam quân ngay đến thân mình còn chưa lo nổi nên không cách nào thu hồi lại được quốc thổ, Dương mỗ thân là tiết độ sứ Hoành sơn, lại gần kề với Ngân châu trong gang tấc, lẽ nào có thể nhắm mắt làm ngơ?

Hôm nay Dương mỗ khai nha xây phủ, việc thứ nhất chính là muốn chinh phạt Ngân châu, hôm nay các vị bằng hữu tề tựu đông đủ, xin hãy làm chứng cho lời tuyên thệ trước khi xuất quân của Dương mỗ, hi vọng đại quân giành được thắng lợi, mã đáo thành công, thu hồi lại được Ngân châu, đánh đuổi quân phản loạn Khiết Đan. Các vị bằng hữu, mời cạn chén”.

Chiết Ngự Huân và Dương Sùng nghe xong những lời nay mà vui mừng ra mặt, chúng đến đây vốn có ý muốn thuyết phục Dương Hạo tạm thu hồi binh lính ở Hạ châu, giành lấy Ngân châu trước vì hiện tại Ngân châu đang nằm trong tay Khánh vương, mà Khánh vương lại là tên vua phản loạn của Khiết Đan, Khiết Đan tuyệt đối sẽ không chịu ngồi nhìn Khánh vương cai trị Ngân châu, sớm muộn cũng sẽ cho quân đến khiêu chiến.

So với đại Tống, người Khiết Đan càng có dã tâm, họ một khi đánh bại Khánh vương chiếm lấy Ngân châu thì nhất định sẽ không bao giờ chịu nhả miếng mồi ngon đó ra nữa, một khi Ngân châu đã trở thành bàn đạp để tấn công của Khiết Đan rồi thì đó sẽ là một cơn ác mộng đối với các vùng Tây Bắc. So với con mãnh hổ này thì Hạ châu Lý Quang Duệ nhất thời sẽ không còn nguy hại đến bọn chúng nữa, thật không ngờ anh hùng cùng chung chí hướng, Dương Hạo vốn đã có dự tính như vậy.

Quan Lô châu Nham Phàn Nặc dẫn đầu tướng lĩnh uống cạn bát rượu.

Dương Hạo trở về chỗ ngồi. Dương Sùng đã tán thưởng :”Thái úy quả nhiên là bậc anh hùng trong thiên hạ, thật khiến nguời khác phải khâm phục, có điều tên Khánh vương của Khiết Đan này từ Đông đến Tây , đi đến đâu cũng chém giết, sức mạnh ngày càng lớn, không thể xem thường được, thái úy tuyên chiến trước rồi mới đánh đương nhiên là hành động anh minh lỗi lạc, nhưng để cho hắn có thời cơ chuẩn bị như vậy, trận này…e rằng không dễ đánh”.

Dương Hạo cười một cách xảo quyệt :”Thu hồi lại vùng đất đã mất đương nhiên là phải tuyên chiến trước rồi mới đánh, đó mới gọi là uy vũ. Có điều, Dương mỗ lại không phải là Tống Tương Công trên chiến trường còn nói lý lẽ với kẻ thù. Ha ha, Dương mỗ tuy hôm nay tuyên chiến, quân đội hùng mạnh như vậy nhưng chưa chắc sẽ xuất quân ngay bây giờ”.

“Hả?”

Ngự Huân khẽ khép đôi mắt phượng lại, thầm nghĩ :”Tên tiểu tử này rõ ràng bên trong quang minh lỗi lạc nhưng bản lĩnh làm trò hắc ám của hắn có phong cách của ta ngày trước, lúc đầu hắn cũng từng tập kích bất ngờ vào Ngân châu, cha con Lý Thế Thiên hèn nhát cuối cùng mất mạng vào tay hắn, chẳng lẽ hắn muốn lật lọng, lặng lẽ phái người lén tập kích?

Nhưng hôm nay hắn lại đi công khai chuyện này, còn không trừ khi hắn đã sớm phái quân đi trước, nhưng xem năng lực quân sự của hắn lẽ nào hắn còn đang giấu diếm sức mạnh lớn hơn?”

Chiết Ngự Huân càng ngĩ càng cảm thấy kinh ngạc, không nhịn nổi bèn thử thăm dò :”Chiết mỗ cũng là thần tử của nhà Tống, việc giành lại vùng lãnh thổ bị cướp mất là trách nhiệm chung của mọi người, thái úy đã có ý định chinh phạt Ngân châu, nếu cần bổn soái giúp đỡ, chỉ cần nói một tiếng,Chiết mỗ sẽ lập tức xuất quân trợ chiến”.

Dương Hạo cười lớn, nửa thật nửa đùa nói :”Đa tạ ý tốt của Chiết soái, có điều, việc lấy lại Ngân châu vẫn chưa cần phiền đến binh mã của Chiết soái, Dương mỗ theo đạo giáo đại thánh Thuần Dương chân nhân học được chút bản lĩnh lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh, đại quân thảo phạt Ngân châu lần này, ha ha, sớm đã có rồi”.

Phía bên dưới, Chiết Tử Du đang cải trang thành một tên tự vệ chép miệng nói :”Lại nói lung tung để gạt người khác rồi”.

Ánh mắt Dương Sùng chợt lóe sáng, cười lớn mà nói :”Thái úy lại nói đùa rồi, nếu thật sự có cái bản lĩnh đấy vậy đế vương thiên hạ này đều là cao nhân đạo giáo rồi, làm gì có cơ hội cho đám phàm nhân tục tử chúng ta trở thành anh hùng đây?

Chắc thái úy sớm đã có dự trù, binh gia đại sự càng cơ mật càng tốt, chỉ cần thái úy không lỗ mãng hành sự là được, chúng ta cũng không hỏi nhiều nữa. Ha ha, ta và thái úy đều họ Dương, năm trăm năm trước vốn là một nhà, hôm nay được gặp gỡ với thái úy càng có cảm giác chúng ta có duyên kì ngộ, bổn soái có ý cùng thái úy kết thành huynh đệ sinh tử có nhau, không biết ý thái úy thế nào?”

“Dương mỗ cũng đang có ý này, được tiết soái nâng đỡ, Dương mỗ quả là cầu được ước thấy” Dương Hạo vui mừng nói.

Chiết Ngự Huân chưa từng nghĩ đến việc Dương Sùng lại có ý này, bất giác trong lòng có chút tức giận, hai người bọn chúng kết hợp lại, Lân châu trước nay luôn dựa vào Phủ châu, hôm nay Dương Sùng lại đột nhiên tự mình làm chủ, Chiết Ngự Huân tự nhiên thấy không vui, nhưng nhìn thấy Dương Hạo thì đành phải đồng ý.

Chiết Ngự Huân không nghĩ ngợi nhiều cười một tràng dài nói :”Dương lão đệ, Chiết mỗ cũng đang có ý này, không ngờ lại để đệ đi trước một bước, ha ha, Dương thái úy, bổn soái cũng có ý muốn kết nghĩa kim lan với ngài, từ nay chúng ta kết làm huynh đệ kết nghĩa, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, không biết ý thái úy thế nào?”

Xích Bang Tùng nhảy nhót reo mừng nói lớn :”Đúng, đúng, ý kiến này thật là hay, tính cả ta, và tộc trưởng Tiểu Dã cùng các vị, năm người chúng ta cùng kết nghĩa huynh đệ ở đây, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu!”

Bộ râu Chiết Ngự Huân nghếch lên, lạnh lùng nói :”Giữa đàn ông với nhau không có sự tranh giành đấu đá”.

Dương Hạo vô cùng vui mừng, lệnh cho người đem nến thơm đến, năm người cùng thắp hương cầu khấn, sau đó cắt máu ăn thề, kết nghĩa kim lan. Luận theo tuổi, Chiết Ngự Huân lớn nhất rồi đến Dương Sùng, Dương Hạo thứ ba, sau đó là Tiểu Dã Khả Nhi, Xích Bang Tùng nhỏ tuổi nhất, năm người đại diện cho năm thế lực ở năm vùng liền kết nghĩa anh em trước sự chứng kiến của mọi người.

Dương Hạo ban đầu cũng không ngờ đến việc sẽ cùng họ kết bái, việc này đối với hắn chỉ có lợi mà không có hại, kinh ngạc vui mừng không để đâu cho hết, nhanh chóng bái làm huynh đệ. Dương Hạo bèn dặn dò Mục Vũ nhanh chóng đi mời các vị phu nhân ra để gặp gỡ các thúc bá. Lát sau, Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Miêu Miêu trang sức quần áo gọn gàng, muôn hình muôn vẻ đi ra, lần lượt bái kiến hai vị đại thúc và nhận hành lễ của Dã Khả Nhi và Xích Bang Tùng.

Xích Bang Tùng chắp tay hành lễ :”Tiểu đệ Xích Bang Tùng bái kiến đại tẩu, nhị tẩu, tam tẩu, tứ tẩu”.

Vừa hành lễ xong liền hoa mắt chóng mặt ngẩng đầu lên, luôn miệng cười nói :”Đại ca, nhị ca, tam ca, tứ ca, bốn vị đại ca phúc khí lớn có được bốn vị đại tẩu, đều đẹp hơn nhiều so với những cô gái đẹp nhất trên thảo nguyên Thổ Phiên của Xích Bang Tùng, như là kẻ phàm nhân nhất thời được gặp nhiều tiên nữ như vậy”.

“Hả?” Đám người Dương Hạo sững sờ một lúc, mọi người phải thuật lại một lần từ đầu đến cuối lời của Xích Bang Tùng mới có thể hiểu ý hắn.

Lúc mọi người vẫn còn chưa hiểu rõ, Chiết Tử Du ở bên dưới trong bộ dạng của một tên hiệu úy có bộ râu nhỏ không nhịn được bật cười thành tiếng, vội vã đưa tay lên che miệng lại.

Động tác của nàng lộ rõ thân phận nữ nhi, may mà mọi người đều đang bị những câu nói của Xích Bang Tùng làm cho hồ đồ nên không ai chú ý đến động tác ấy.

Dương Hạo nghĩ thật kĩ lời của Xích Bang Tùng mới hiểu ra, nhất thời mặt mũi tối sầm lại, Tiểu Dã Khả Nhi cũng hiểu ra, nhanh chóng kéo Xích Bang Tùng sang một bên, cười đau khổ :”Lão ngũ, đệ nói năng mạo phạm như vậy, các vị đại tẩu đều là phu nhân của mình tam ca”.

Xích Bang Tùng chớp mắt ra bộ không hiểu gì, Tiểu Dã Khả Nhi đành phải hạ giọng giải thích lại một lần nữa, Xích Bang Tùng lúc này mới hoảng hốt ngộ ra, không kìm được đỏ mặt đi lên trước tạ lỗi, lắp bắp nói :” Xin bốn vị tẩu tẩu thứ lỗi cho Xích Bang Tùng đệ không hiểu phép tắc lễ nghĩa trung nguyên,dẫn đến hiểu lầm đáng xấu hổ như vậy”.

Chiết Ngự Huân cười lớn nói :”Lão ngũ à, đại ca đệ ở nhà cũng có tám vị phu nhân, theo cách nói của đệ, đại ca còn phải kết nghĩa lại với ba vị huynh đệ mới có thể thu thập đủ con số ấy sao”.

Chiết Ngự Huân lấy đó làm trò cười khiến mặt Xích Bang đã đỏ gay như uống rượu nay lại chuyển sang màu tím, không ngừng chắp tay xin lỗi, đám Đông Nhi lại thích sự ngây thơ chất phác đó bèn nhấc hắn dậy an ủi một lúc, còn hỏi thăm gia cảnh thân thế.

Trước mặt vô số các quan lại, bốn vị phu nhân lại rất chú ý đến cử chỉ hành động của mình, thái độ ung dung, cử chỉ lịch thiệp, giữ gìn gia phong phép tắc. Bên dưới có rất nhiều người bao gồm cả quan lại Lô châu cũng là lần đầu tiên diện kiến bốn vị phu nhân của Dương Hạo, không tránh khỏi ngắm nhìn bình phẩm, tán dương không ngớt.

Chiết Tử Du nhìn thấy trong lòng không có cảm giác gì, khẽ chép chép miệng, ghen tức nói :”Giữa nữ nhi với nhau tranh giành càng không có gì là thú vị”.

Lời Chiết Tử Du vừa nói ra, Trúc Vận trong miệng ngậm đoạn cỏ đuôi chó không biết từ đâu xuất hiện, không hứng thú gì nói :”Tranh đấu giữa nam nữ với nhau không biết có thú vị không, đáng tiếc nếu người lại gặp phải một đống gỗ mục chỉ muốn xuất gia, thì lúc đó chính là muốn tranh đấu cũng không thể”.

Chương 417: Đại tiệc long trọng

Người dân Tây Bắc hào phóng cởi mở, Dương Hạo phải hòa nhập vào môi trường này, trở thành một đại soái thống lĩnh quân đội cũng không thể suốt ngày phô diễn ra bộ dạng nho nhã, đặc biệt là trên bàn tiệc, lễ nghĩa đúng mực như vậy rất dễ làm mất hứng cho nên sau khi mời mấy vị khách trở lại phủ, rượu được bưng lên như nước, Dương Hạo càng thoải mái, cười nói tự nhiên với các vị huynh đệ, ân cần tiếp rượu, không khí giữa chủ và khách càng thêm hưng phấn.

Sau ba tuần rượu, tám tên hầu khỏe mạnh khiêng lên một con bò lớn đã được nướng chín, màu sắc mùi vị của con bò này vô cùng hấp dẫn, Dương Hạo giơ tay lên cười nói :”Đại ca, năm huynh đệ chúng ta, đại ca là huynh trưởng, món ăn quan trọng này, mời đại ca cắt miếng đầu tiên”.

Chiết Ngự Huân thật ra cũng muốn cắt miếng đầu tiên, nhưng hắn muốn thử một lượt, nghĩ đến chuyện trước nay Dương Hạo chưa từng thể hiện hết thực lực thật sự của mình, cuối cùng đành từ bỏ, miễn cưỡng cười nói :”Đại yến hôm nay, lão tam là chủ, khách phải theo chủ, hay là đệ làm trước đi”.

“Lớn nhỏ đều có trật tự, vẫn nên là đại ca trước”.

Hai người cứ thế nhường nhau, rõ ràng chỉ là lễ nghĩa khách khí nhưng thật ra là dùng phương pháp mềm mỏng để thăm dò thái độ của đối phương về việc kết nghĩa hôm nay, quyết định ai sẽ là người sẽ nắm quyền làm chủ trong quan hệ đồng minh tam Phiên- Thiết, suy nghĩ này không những các văn võ bá quan bên dưới đều nhận thấy rõ mà ngay cả Xích Bang Tùng cũng hiểu đây không chỉ đơn thuần là chuyện nhường nhau nhát cắt đầu tiên của miếng thịt bò trong bữa yến tiệc long trọng này, cho nên chỉ có thể đứng một bên quan sát, không dám tham gia vào.

Hai người nhường nhau rất lâu, Dương Sùng bèn cười lớn mà nói :”Con bò này quay thật thơm ngon, lão Dương, đệ đã thèm lắm rồi, hai người lại cứ nhường nhau mãi, mọi người xung quanh cũng chẳng có cách nào được thưởng thức, đây chẳng phải là hại chết người sao? Cho dù ai hạ nhát dao đầu, chỉ cần con bò béo này rơi vào bụng chúng ta thì có gì là khác nhau chứ? Theo ta thấy, lão tam là chủ Lô châu, hay là đệ hạ nhát dao đầu tiên vậy”.

Dương Hạo không thể thoái thác được nữa, chỉ khẽ cười mà nói :”Như vậy đệ đành phải nhận, vậy đệ sẽ cắt miếng đầu tiên”, nói xong cúi người nhặt con dao nhỏ được đem đến để cắt thịt đi lên phía trước.

Phạm Tư Kì đang ngồi một bên thấy vậy liền khẽ trau mày, lo lắng nói :”Hai vị tiết soái Chiết Dương sớm đã đứng đầu một vùng Tây Bắc, thâm căn cố đế, uy danh vang dội, hôm nay tuy tiết độ sứ của chúng ta chứng tỏ sức mạnh to lớn nhưng luận thanh thế địa vị, rốt cuộc vẫn không thể so sánh với bọn họ, nếu có thể trở thành thống lĩnh ba Phiên, tất nhiên sẽ phải không ngừng đương đầu với những hiểm nguy, lại có thể nhanh chóng chứng tỏ uy danh của một vị tiết soái.

Ở vùng Tây Bắc này nắm đấm của ai mạnh người đó sẽ là đại ca, anh hùng bốn phương mới có thể quy tụ dưới chướng, tiết soái lần này chưa chắc đã là may mắn.”

Phạm Tư Kì tự mình biết bản lĩnh kiến thức của mình, lo liệu nội chính, chỉnh đốn kinh tế còn có thể coi là nắm trong lòng bàn tay, còn về phương diện này vĩnh viễn không bằng lão già linh lợi Lâm Vũ Vũ cho nên không dám nói nữa

Dương Hạo tự tay cắt tai con bò ra, đặt lên đĩa rồi đem đến trước mặt Chiết Ngự Huân, lại đích thân chọn miếng ngon mềm cho lão nhị, lão tứ, lão ngũ,sau đó đưa người bên cạnh xẻ cả con bò ra, tên đầu bếp chỉ dùng con dao nhỏ trong tay nhanh nhẹn thông thạo xẻ ra từng miếng từng miếng, bên cạnh có các a hoàn dùng đĩa hứng lấy, đĩa thịt thơm ngon, màu sắc bắt mắt, hương thơm xộc thẳng vào mũi được đem đến các bàn tiệc.

Đợi phân hết thịt bò rồi, mấy huynh đệ vừa kết nghĩa với nhau cùng nâng ly đi xuống phía dưới, kính rượu các quan lại từ mọi nơi đến. Một lượt rượu được kính xong, Dương Hạo tửu lượng không cao đã cảm thấy mặt đỏ bừng bừng, hai mắt long lanh.

Vừa trở về ngồi xuống bàn tiệc, Dương Hạo bèn đứng dậy, xin cáo lỗi với mọi người rồi một mình đi ra phia sau nghỉ ngơi.

Xích Bang Tùng vốn thích uống rượu, chẳng cần người khác mời, uống cạn hết ly này sang ly khác, khi đó cũng cảm thấy khó chịu trong bụng, vội gọi lớn :”tam ca đợi đệ cùng đi với”.

Xích Bang Tùng đứng dậy đi cùng Dương Hạo, Tiểu Dã Khả Nhi đảo mắt cười nói :”Đại ca, nhị ca, tửu lượng của đệ cũng không tốt, đệ đi giải quyết một chút sẽ quay lại”. Nói rồi đứng dậy đuổi theo hội Dương Hạo.

Thấy xung quanh đã không còn ai, Dương Sùng khẽ quay sang Chiết Ngự Huân, hạ giọng nói :”Thế Lũng huynh, hôm nay Dương Hạo đã thể hiện tất cả sức mạnh võ lực thật khiến người khác kinh ngạc. Có điều Lô châu mới xây dựng được chưa đầy 2 năm, vẫn còn non yếu, huynh cho rằng hắn có thể kháng chọi lại với lực lượng của Hạ châu không?”

Chiết Ngự Huân vuốt chòm râu rồi nói :”Trọng Vấn à, sức mạnh của Hạ châu, ta và đệ hợp lực với nhau kháng trả lại đã bao năm như vậy đáng ra phải nắm vững như lòng bàn tay rồi chứ. Cứ cho chiến tranh với Thổ Phiên, Hồi Hất không ngừng, dường như không phân thắng bại, nhưng nếu chúng ta tham chiến lúc này, sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ binh lực của ta. Nếu vẫn là cục diện bất phân thắng bại thì sao?

Chỉ vì chiến tranh giữa Hạ châu và Thổ Phiên Hồi Hất, không những bảy trong số tám bộ lạc của người Đảng Hạng đứng ngoài mà ngay đến tộc Thác Bát cũng nhiều lần không địch nổi với Hạ châu, sức mạnh quân sự của Hạ châu nhìn là thấy.

Tây Bắc ngày nay thực ra vẫn là thiên hạ của Đảng Hạng, điểm này chúng ta thừa nhận cũng được, không thừa nhận cũng chẳng sao, đều không thể thay đổi được tình hình thực tế. Đừng nghĩ trong nội bộ bọn chúng tranh chấp lục đục, chúng ta xuất quân dù có thể khuất phục Hạ châu thì các bộ lạc Đảng Hạng cũng sẽ kêu gọi giúp đỡ Hạ châu, vậy mà Dương Hạo lại không như thế”.

Nhấp một ngụm rượu, Chiết Ngự Huân cười nhạt :”Hai năm thì đã sao? Năm đó Trương Nghĩa Triều áo vải dựng cờ khởi nghĩa, tốc chiến tốc thắng, trăm trận trăm thắng, chỉ trong một năm đã chiếm được mười một châu Qua, Sa, trở thành bá chủ Tây Bắc, không có ông ấy cũng chỉ là gặp đúng thời vận mà thôi, hiện nay đã hơn trăm năm trôi qua rồi, thời vận của Tây Bắc này đang phụ thuộc cả vào Dương Hạo. Có hi vọng sánh ngang với Hạ châu chỉ có Dương Hạo mà thôi. Tất cả đều do số trời đã định.”

Dương Sùng chớp mắt, cảnh giác hỏi :”Vì sao chúng ta tham gia vào các bộ tộc Đảng Hạng sẽ kêu gọi giúp đỡ cho Hạ châu còn nếu là Dương Hạo thì không phải băn khoăn về chuyện đó?”

Chiết Ngự Huân cười lớn mà rằng :”Đến đây, uống rượu, uống rượu đi”.

Dương Sùng không vui mà nói :”Thế Long huynh, huynh đệ chúng ta kết gi­ao bao năm nay, từ trước đến giờ đều có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu, còn chuyện gì huynh có thể giấu được ta?”

Chiết Ngự Huân nhìn hắn, khẽ cười nói :”Trọng Văn sao có thể nói những lời như vậy, ai dà, đệ nói vậy làm ta nhớ lại chuyện khi chúng ta đến, chính là nói đến việc kết nghĩa với Dương Hạo, Trọng Văn và ta trước giờ cùng hội cùng thuyền, họa phúc cùng hưởng, sao lại đột ngột có ý nghĩ này, làm cho huynh đây trở tay không kịp?”

Mặt Dương Sùng bỗng chốc chuyển sang đỏ, ngượng ngùng nói :”Đây chỉ là ý nghĩ đột ngột xuất hiện, chưa thương lượng trước với Thế Long huynh. Điều mà đệ thật sự nghĩ chính là ba chúng ta cùng kết nghĩa với nhau, chưa từng dám nghí đến việc để Thế Long huynh sang một bên”.

” Nếu đã nói như vậy, vậy thì Chiết huynh đây đã hiểu lầm đệ rồi, nào, đến đây uống rượu, uống rượu đi” Chiết Ngự Huân cười lớn nói.

Uống cạn chén rượu, Chiết Ngự Huân vân vê bộ râu quý tộc của mình, đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, ngẩng đầu lên hỏi :”À, Trọng Văn, tiểu muội của đệ đã xuất giá chưa?”

“Hả?”

Dương Sùng mù mờ gật đầu :”Xuất giá rồi. Mùa thu năm ngoái đã thành thân rồi, huynh chẳng phải còn đưa lễ rất hậu hĩnh đến sao, sao hôm nay lại đột nhiên nhắc đến chuyện này?”

Chiết Ngự Huân mặt mũi rạng rỡ hẳn lên :”Xuất giá rồi thì tốt. Xuất giá là tốt. Đúng rồi, ái nữ nhà đệ năm nay mấy tuổi rồi?”

Dương Sùng càng không hiểu đầu đuôi thế nào :”Tiểu nữ năm nay mới 7 tuổi, sao vậy, không phải huynh muốn kết thân với nhà đệ chứ. Tiếc là công tử thứ hai năm nay đã một bảy tuổi rồi phải không? Tuổi tác hơi lớn một chút, công tử thứ tư hình như bằng tuổi với tiểu nữ, còn có thể cho chúng kết thân”,

Chiết Ngự Huân cười lớn, vui mừng nói :”Chỉ mới bảy tuổi? Vậy thì không cần phải lo lắng rồi, vẫn còn quá sớm. Nào, đến uống rượu”.

Dương Sùng không hiểu gì cũng nâng bát rượu lên uống cạn một bát rượu lại càng thêm mơ hồ.

Chiết Ngự Huân lại vô cùng đắc ý, uống xong mộ bát rượu rồi nhìn xuống phía dưới, thấy chỗ tiểu muội vừa ngồi giờ đã trống không, bất giác ngẩn ra :”Chỉ mới một lúc mà Tử Du đã đi đâu rồi?”

Dương Hạo đang đi giải quyết, Xích Bang Tùng ở bên ngúc ngoắc đầu nhìn, Dương Hạo quay đầu lại, ngạc nhiên hỏi :”Ngũ đệ, đệ làm gì vậy?”

Xích Bang Tùng vội xua tay :”Không có gì, không có gì”.

“Vì tửu lượng của ta không tốt, mong ngũ đệ thông cảm, lát nữa đệ cùng lão đại, lão nhị, mấy người cứ uống thoải mái, thay ta, ca đi mời rượu”.

“Được thôi, được thôi”.

Xích Bang Tùng nhận lời ngay lập tức. Dương Hạo hướng về phía cứa giảo biện :”Nước trong thùng gỗ đó có thể làm sạch tay, đệ đi trước đi”.

“Được, được, được”.

Xích Bang Tùng vội chạy đến đó, hé nắp đậy thùng gỗ ra, đột nhiên thấy đôi tay của Tiểu Dã Khả Nhi từ trong thùng nhảy ra :”Òa! Tên tiểu tử này đã uống bao nhiêu rượu mà tay toàn là rượu vậy?”

“Đây là nước, không phải nước tiểu, đệ vừa rửa tay”.

Tiểu Dã Khả Nhi lúc này mới yên tâm, vẫy tay nói :”Vậy đệ vào trước uống rượu cùng đại ca và nhị ca đi, ta đi giải quyết một chút”.

Tiểu Dã Khả Nhi nói xong liền đi về phía nhà xí, Xích Bang Tùng vò vò đầu, đi đến cổng Nguyệt Lượng, nhìn khắp bốn phía không thấy có người bèn nhìn xuống đũng quần mình, vừa xấu hổ vừa ngưỡng mộ mà nói :”So với tam ca sao ta lại kém xa đến vậy chứ, rõ ràng ta thân thể cường tráng hơn huynh ấy vậy mà chỗ đó lại không bằng huynh ấy, sư phụ nói không ai giống ai thật là chí lí”.

Xích Bang Tùng vừa dứt lời một cô nương không biết từ đâu hiện ra, cười lanh lảnh mà nói :”Cái gì mà không tráng kiện bằng?”

Xích Bang Tùng bị dọa cho sợ hết hồn, thét lên :”Quỷ”.

Trúc Vận cô nương tức giận, đá mấy phát vào mông hắn :”Quỷ cái đầu ngươi ấy, Dương thái úy có ở trong đó không?”

Xích Bang Tùng sợ tái mặt, nhìn kĩ lại, vị cô nương trước mặt dung mạo như hoa, thân hình uyển chuyển, quả nhiên không giống một con ác quỷ, hơn nữa giờ đang là ban ngày ban mặt, nghĩ vậy mới dần bình tĩnh lại :”Đúng, đúng vậy, tam tam ca ở trong đó”.

Xích Bang Tùng vừa dứt lời, cô nương đó đã không thấy đâu, Xích Bang Tùng ngẩn ra một lúc, đột nhiên nhảy dựng lên, kêu lớn :”Thật là có quỷ mà! Mới có một bước chân mà đã bay thoát rồi”.

Tiểu Dã Khả Nhi đi lại quanh gốc cây Đinh Hương thì gặp đúng lúc Dương Hạo đang đi từ bên trong ra, Tiểu Dã Khả Nhi bước lên đứng chắn, vội vàng gọi “Thiếu gia”.

Dương Hạo vừa nhìn thấy hắn, mỉm cười vỗ vỗ lên vai hắn mà nói :”Tứ đệ, chúng ta đã kết nghĩa huynh đệ thì chính là huynh đệ rồi, gọi ta là thiếu gia, không bằng gọi là tam ca cho thân thiết, sau này bất luận ai trước ai sau, chúng ta cứ gọi nhau như huynh đệ thôi”.

Tiểu Dã Khả Nhi nhìn lên vai mình thấy dấu tay lớn, xem ra lần này y phục của mình thành chỗ để họ lau tay rồi. Thực ra vẫn còn may mắn, nhưng lúc này hắn cũng chẳng ngĩ ngợi gì nhiều, chỉ là đuổi theo để hỏi :”Tam ca, lần này lại phải đánh Ngân châu sao?”

“Đúng vậy, việc có trước sau nặng nhẹ, Hạ châu hiện nay chưa vội ra tay đối phó với chúng ta, ta cũng không cần đi gây hấn với chúng. Con trai Khánh vương Gia Luật Văn đã chết dưới tay ta, coi như ta không đến chỗ Khánh vương chuốc lấy xui xẻo, chỉ cần biết ta trở về Lô châu hắn nhất định sẽ đến đối phó ta, nếu ta đánh nhau với Hạ châu trước, e rằng sẽ mắc phải mưu của lão già Khánh vương.

Huống hồ, thỏ khôn phải đào nhiều hang, muốn đánh nhau với Hạ châu, vùng đất này đâu phải chỉ có Lô châu chúng ta? Thành trì Ngân châu kiên cố, dễ phòng thủ, khó tấn công, nếu để ta giành được thì sau này sẽ không còn gì phải lo lắng nữa, vấn đề cấp bách chính là phải nhanh chóng chiếm được Ngân châu”.

Tiểu Dã Khả Nhi xoa xoa bàn tay nói :” Nếu đã là như vậy, lần này thiếu gia, à tam ca nhất định phải cho Tiểu Dã Khả Nhi đi tiên phong trận đầu”.

Dương Hạo nhìn chăm chú Tiểu Dã Khả Nhi rồi cười nói :”Được. Đệ bây giờ có tâm can tình nguyện nhận hiệu lệnh của ta không?”

Tiểu Dã Khả Nhi thoáng đỏ mặt, lại ưỡn cao ngực, nói lớn :”Không phải bây giờ, ngay từ khi tam ca sửa chữa đường đi hiểm trở, âm thầm vượt qua Trần Thương, phá vỡ bảy hàng rào phòng ngự của Ngân châu, tập kết giết chết cha con Lý Kế Tư , gây rối loạn đai chiến giữa Hạ châu và Thổ Phiên Hồi Hất thì Tiểu Dã Khả Nhi này đã tâm phục khẩu phục tam ca rồi.

Huynh mới chính là một đại anh hùng có tài thao lược anh minh dũng cảm, người hữu dũng vô mưu thì chỉ là kẻ thất phu mà thôi, có thể là một tên lính dắt ngựa khó có tài để làm một vị tướng soái”.

Dương Hạo cười lớn :”Đệ đừng tự coi thường mình. Bất cứ thứ gì cũng đều phải trải qua ta luyện mới thành. Kẻ dắt ngựa hôm nay biết đâu sau này sẽ trở thành một vị thống soái?”

“Nói như vậy tức là tam ca đồng ý cạnh tranh trong nội bộ?”

Dương Hạo gật gật đầu :”Đệ yên tâm, có trận cho đệ đánh, có điều không phải bây giờ, hiện nay, Lô châu của chúng án binh bất động, trước tiên để Ngân châu tụ tập hết binh linh lại rồi mới tính tiếp. đúng rồi, đệ với Mưu Muội Nhi vẫn chưa thành thân phải không?”

Tiểu Dã Khả Nhi nghe nói được đánh trận trong lòng vô cùng mừng rỡ, xoa tay cười :”Đã thành thân rồi, nàng ấy còn sinh cho đệ một tiểu nữ”.

“Ha ha, tiểu tử đệ thật là nhanh, chúc mừng, chúc mừng” Dương Hạo vui vẻ nói.

Tiểu Dã Khả Nhi ngượng ngùng nói :”Hi hi, sinh được một nha đầu lại không phải con trai, có gì mà chúc mừng chứ, đợi nàng ấy sinh cho đệ một bé trai khỏe mạnh, lúc ấy xin mời tam ca đến uống rượu hỉ”.

Dương Hạo cười lớn :”Nhất ngôn cửu đỉnh! Việc điều binh khiển tướng đệ chưa cần lo vội, tạm thời xem động thái thế nào. Lần này đánh Ngân châu, người ngựa của bảy bộ tộc Đảng Hạng ta đều phải dùng đến, Ngân châu bị hạ thành thì chúng ta có thể đường đường chính chính giương cờ hiệu, đánh một trận liều chết với Hạ châu”.

Tiểu Dã Khả Nhi phấn khích đến mức mặt mũi đỏ cả lên, chỉ gật đầu liên tục. Dương Hạo cười nói :”Lần này đệ đã an tâm chưa? Được rồi, ta vào bên trong trước vậy”.

Dương Hạo vòng qua cây đinh hương, bỗng có tiếng gọi, Dương Hạo cảnh giác nhìn về hướng phát ra tiếng gọi, chỉ thấy một cành cây rơi xuống mặt đất. Dương Hạo yên tâm bước đi, vừa mới vào trong rừng, một cô nương mặc bộ y phục màu thiên thanh giống như phiến lá từ trên cây bay xuống.

Chương 417: Theo gió ẩn nấp vào đêm

Trúc Vận phi thân xuống đất. chắp tay nói: “Thái úy.”

Dương Hạo cười lạnh nói: “Đã nghe và thấy những gì?”

Trúc Vận nói: “Tất cả các quan viên thuộc Phủ Châu đều yên lặng mà uống rượu, rất có quy củ, chỉ là vì thái úy là người đứng đầu. có ý với tam phiên, nên quan viên Phủ Châu cho dù bể ngoài không tỏ vẻ gì nhưng trong lòng ít nhiều cũng có sự bực tức. nhưng xem ra Chỉết Ngự Huân đã hạ nghiêm lệnh, cho dù họ có chút ý chối từ nhưng cũng không có ké nào dám gây chuyện.”

Dương Hạo gật đầu nói: “Đúng như dự liệu. Cái khó thu phục nhất không phái là thành trì hay đất đai, mà là lòng người, cứ từ từ, không phải vội. Thế còn Lân Châu thì sao?”

Trúc Vận nói: “Cái đám quan viên thuộc hạ của huynh đệ ngài không thể chính thống bẳng thuộc hạ của Phủ Châu. Trước mặt thì Dương Sùng Huấn luôn mồmthân thiết gọi ngài là nhị ca. tam ca. nhưng họ lại ngẩm vắt óc suy đoán lòng dạ của ngài. Sự trang bị vũ khí mà hôm nay thái úy đã phơi bày ra làm cho họ vô cùng hứng thú. đặc biệt là vói con tuấn mã đại thực và loại áo giáp toàn thân chỉ để lộ một đường chỉ mắt. Đám quan viên Lân Châu đứng bén cạnh mà rì râm hói han lai lịch của những thứ đó, xem có vẻ như họ muốn ngay lập tức che mặt đi cướp mang về để nghiên cứu vậy.”

Dương Hạo lại mim cười, Chỉết gia có một tổ mật thám tên là “Tùv phong” mà người ngoài không thể nhúng tay vào, “Tùy phong” có thể âm thầm lặn sâu vào trong đểm. không một chút tiếng động. Khả năng của do thám rất lớn, rất có tiếng ớ Tâv Bắc, quan viên trong Phủ Cốc rất tin tường đội “Tùy phong” này, đương nhiên cũng không cần giữa bữa yến tiệc mà hói thuộc hạ Lô Châu dò hói được gì, nhưng Lân Châu thì khác. Lân Châu luôn nhìn Phủ Châu mà đi, Phủ Châu tiến thì tiến, Phủ Châu Lùi thì lại lùi. ngay cả tin tức tình báo cùng cùng hưởng với Phủ Châu, cũng tự coi như mình cũng có một cơ cấu tình báo. nhưng cơ bản chỉ là bắt chước diễn vai “Tùy phong” mà thôi. Bây giờ quan viên Lân Cháu lại có biêu hiện như thế thì đúng là chuyện tốt, nó cho thấy cái thế lực mà minh mới dựng châu trong hai năm không những có thực lực đối kháng ngang bẳng với Phủ Châu mà còn ngẩm lấn sang lấn sang vị trí khác, thật sự đã kích thích được quan viên Lân Châu, họ cũng không cam tâm tiếp tục dựa dẫm vào phe cánh của trước đây của họ nữa.

Cho dù là thân huynh đệ thì cũng không thể cho nó toàn quyền không hạn chế được, vừa hểt sức lợi dụng nó, lại vừa đảm bảo nó có thể ớ dưới sự kiêm soát của mình, biện pháp tốt nhất không phái là áp chế mà là nâng đỡ một thế lực khác để bó buộc nó. Đây là tâm thuật của đế vương khi muốn bình thiên hạ, từ cổ đến nay đều như thế. Nếu Lân Cháu đã có tâm tính như vậy thì dễ làm rồi. Trước đây hắn từng có quan hệ mật thiết vói Phủ Châu, quan hệ với Lân Châu đều là thông qua Phủ Châu. Có thể tùy lúc mà cung cấp cho Lân Châu một số vũ khí tiên tiến, tạo một mối liên hệ trực tiếp giữa hai châu.

Dương Hạo đương nhiên sẽ không nói chu­vện bí mật này vói Trúc Vận, hắn chỉ cười ha ha nói: “Cứ để cho bọn chúng đi dò hỏi, chúng càng không làm rõ được thì trong lòng càng sinh ra sợ hãi. Bây giờ Lô Cháu của chúng ta vẫn chưa thể hiện hết vũ lực lớn mạnh, bề ngoài vẫn tò ra thế lực có hạn, để cho chúng khó đoán biết, như vậy mới có thể khống chế được chúng, nếu không Lô Châu vừa mới dựng dậy của chúng ta sẽ có thể bị kiêu binh hãn tướng đè đẩu? Còn gì nữa không?”

Trúc Vận cười nói: “Còn một chuyện nữa, quả thực là có chút kì lạ. Trong cái đám thị vệ của Phủ Châu có một ké già mạo. Chỉết Ngự Huân khi đến thăm hòi thái úy còn mang theo một nữ nhân già trang nam, dáng vẻ kì quái, ngài nói xem có lạ không?”

Dương Hạo ngẩn ra: “Kè giả mạo? Nữ nhân?” Lặp tức hắn liền phản ứng lại. khóe miệng hơi lộ ra một nụ cười.

Trúc Vận nói: “Trình độ hóa trang của nữ tử này xem ra rất vụng về, có điều đứng lẫn trong đám binh sĩ thì cũng không cần phải có khả năng hóa trang quá cao minh, ai lại đi để ý những sĩ tốt cơ chứ. Nếu không phải nàng ta nói mấy câu rồi đúng lúc để tiểu nữ nghe thấv giọng, thì tiểu nữ cũng sẽ không chú ý đến. Sau khi bị tiểu nữ phát hiện thân phận thì nàng ta lập tức trốn tránh, ra. tiểu nữ đã phái người giám sát nàng ta. đổi với những người như thế này có cần phải giám sát tất cả hành tung không?”

Dương Hạo cười nói: “Không cẩn, không cẩn. Bảo người của ngươi không cần phái để ý đến nàng ta. trà khi nàng ta muốn đi vào phía sau thăm dò nội tình thì mới phái ngăn cản nàng ta, những nơi khác nàng ta muốn đi đâu thì cứ để nàng ta đi, ra vào đều không phải ngăn cản.”

Mắt Trác Vận chợt lóe lên. nhíu đôi lông màv rậm lại, mim cười nói: “Bất kể nơi nào cũng đều có thể đi sao?”

Dương Hạo nói: “Đúng vậy, bất kì nơi nào. Cho dù là phòng ngủ của bổn quan nếu nàng ta muốn làm ăn trộm cùng để nàng ta vào. không phải cản.”

Trúc Vận thớ dài nói: “Tiểu nữ hiểu rồi.”

Dương Hạo hói: “Ngươi đã hiểu gì rồi?”

Trúc Vận lướt người một cái đã biến mất vào trong bụi cây rậm rạp, giọng của nàng ta lúc này mới vang lên từ xa: “Chẳng phải là câu chu­vện nữ tử si tình và lãng tử phụ tình sao. còn có thể là gì nữa?”

Khi từ cuối cùng vang lên thì từ giọng nói đó có thể đoán rằng nàng ta đã chạy xa tới hơn mười trượng, thân pháp quả thật rất nhanh.

Khóe miệng Dương Hạo lại lộ ra một điệu cười quỷ dị: “Chút tài mọn.”

Dương Hạo quav mạnh người lại. năm đầu ngón tav mờ ra, cong cong như vuốt quạ, bám mạnh lấy cái gốc cây lớn bẳng hai người ôm ờ phía sau.

‘Á!”

Từ chỗ cái cây vang lên một tiếng kêu the thé. câv rung lên một cái. một bóng người xuất hiện, hai cánh tay như đang giơ về phía trước, hét lên: “Không được nắm!”

Dương Hạo liền thu tay lại. vặn eo một cái, lùi một chân ra sau.

Từ cái cây đó lại có một tiếng kêu lên: “Không được đá!”

Cùng lúc đấy thân cây lại rung lên, hình như xuất hiện một hư ánh, hư ảnh thoát khói thân cây, vội vàng chạy thoát về phía trước.

Nhưng chân của Dương Hạo nhanh như gió, ảnh tử đó tránh tuy nhanh nhưng vẫn bị đá trúng.

Rồi chợt có tiếng “ối ối” kêu lên, rồi ảnh tử đó chạy vọt về trước hơn hai trượng, đứng yên ớ đó. hai cánh tay dâng lên. hiện ra một dáng người yêu kiểu nhỏ nhắn, đó chính là cô nương Trác Vận lúc nãy vừa chạy trốn.

Trúc Vận ôm mông, vừa xấu hổ vừa tức giận, gắt giọng nói: “Thái úy nếu đã phát hiện ra hành tung của tiểu nữ thì chỉ ra là được rồi. sao phái trêu chọc tiểu nữ chứ?”

Dương Hạo cười mà như không cười, nói: “Rất xin lỗi. Ta vẫn chưa luyện được thẩn phong nhãn, chỉ biết được đại khái nơi ân trốn của ngươi, nào có phân biệt được rõ trên dưới trái phải chứ? Có điều ta khu­vên ngươi đừng có thử ta thểm lần nữa, độn thuật của ngươi không thể giấu được tai ta đâu, nghe là đã biết ngươi nên chỉ có đá thôi đấv. nếu như là kiếm khua một cái thì thân hình ngọc ngà của cô nương đã phải chịu oan uổng rồi.”

Dương Hạo vừa cứng vừa mềm. Trúc Vận nghe thấy sự cảnh cáo trong lời của hắn, khuôn mặt bất giác hơi biến sắc. nhưng nghe thấy hắn nhắc đến “thẩn phong nhãn” thì lập tức hòi: “Thần phong nhãn? Trong công pháp mà thái úy đại nhản luyện có cả pháp môn thiên nhãn sao?”

Dương Hạo mim cười nói: “Đúng vậy, ngươi còn muốn thử không?”

Trúc Vận vội xua tay nói: “Không thử nữa, không thử nữa. sau này tiểu nữ sẽ không ngầm đi theo đại nhản là được ý gì.”

Nàng lẩm bấm nói: “Cũng không biết có bao nhiêu chuyện xấu cần làm nữa. sao lại không sợ người khác nhìn thấy chứ.”

Nàng do dự một chút, lắp bắp nói: “Trúc Vận đã đồng ý với đại nhản, vì đại nhân mà lu­vện Phi Vũ Bí Tham, rồi dạy cho bọn họ bí pháp ngũ hành, nhưng chưa từng xin đại nhân một chút lợi ích nào. thái úy đại nhân, ngài nói xem?”

Dương Hạo chớp chớp mắt nói: “Sao lại không có lợi ích gì? Một khi bổn quan thu được Tây Bắc thì sẽ chỉếm được không biết bao nhiêu là bò dê, ngựa cùng với những con đường vận chuyên lá trà. vải. sắt, mở được thểm con đường buôn bán với các nước phương tây. đó chẳng phải là một nguồn tiền tài cực lớn hay sao?”

Trúc Vận nhăn mũi. giận dỗi nói: “Nhưng bổn cô nương lại chưa từng nhận được một chút lợi ích nào.”

Dương Hạo cuời nói: “Hình như cũng có lí. Thế ngươi muốn đòi ta gì nào?”

Mắt Trúc Vận liền sáng lên. cười bồi, làm vẻ mặt nịnh nọt nói: “Thái úy đại nhản, ngài có thể tru­vền thụ bí thuật thiên nhãn thông cho tiểu nữ không?”

Vừa thấy Dương Hạo lộ ra vẻ mặt cổ quái, Trác Vận vội nói thểm một câu: “Tất cà những võ thuật của Trác Vận đều là gia truyền, chưa từng bái sư. nểu như thái úy muốn làm theo quy môn. không tiện tru­vên thụ cho người ngoài thì Trúc Vận xin bái làm môn hạ của ngài cũng được mà.”

Nói đến đây thì nàng ta liền ưỡn ngực lên. kiêu hành nói: “Đem tài nghệ đi bái sư, một đồ đệ có võ nghệ như tiểu nữ không phải là nhiêu. Thái úy khai tông lập phái, đại đồ đệ đầu tiên bước vào môn phái lại là một nhân vật có võ nghệ cao cường, còn không phái là tăng thểm thể diện cho ngài sao?”

Dương Hạo cười khổ hai tiếng, lắc đẩu nói: “Đáng tiếc công pháp này của ta ngươi không học được.”

Trúc Yận Yẫn khổng chịu, nói: “Sao tiểu nữ lại khổng học được? Nếu luận Yề thiên phú Yõ thuật e là tiểu nữ còn cao minh hơn thái úy mấy phẩn đấy, thái úy nói thế này có phâi là lấy cớ từ chối khổng?”

Dương Hạo ngửa mặt lên trời thở dài. nói: “Nói đến công phu này của ta, ta thấy rất khổ não, sau này khi có con gái đương nhiên khổng thể dạy nó. nếu có con trai, làm một người cha cũng khổng biết nên mở mồm thế nào. thật là phiền não.”

Trúc Yận ngạc nhiên nói: “Yõ thuật có gì mà khó mở miệng chứ?”

Dương Hạo chắp tay mà đi, nhìn trông nhẹ như gió. nhưng chi mới hai bước mà đã độn ẩn Yào trong bụi cây, giọng của hắn như từ bụi cây truYền ra: “Đại gia có môn công phu gọi là bí pháp song tu. cô nương nếu thật sụ muốn học thì đến đây. Bổn thái úy sẽ Yất Yâ một chút Yậy. Ha ha ha.”

Khi hai tiếng ha ha cuối cùng Yọng lại thì thân hình hắn đã đi xa được hơn mười trượng.

Trúc Yận mặt đó cả lên. nàng khẽ gắt một cái. đứng yên tại chỗ suY nghĩ một lúc lâu. rồi mới tự nói: “Hóa ra là như Yậy. Haizzz, cái tên Du Mộc Đà Thát đó chịu đổi lại học theo song tu công pháp này của Dương thái úy thì tốt biết mấy.”

Nói đến đây nàng khổng khói cảm thấy xấu hổ. chột dạ nhìn xung quanh, trong rừng yên tĩnh khổng một bóng người, lúc này nàng mới yên tâm trở lại.

………………………….

Dương Hạo ớ trong phòng khách nói chuYện thưởng thức trà Yới đám người Chiết Ngự Huân, Dương Sùng, mải nói chuyện đến tận lúc trăng lên cao mới rời khỏi.

Hai nhà Chiết Dương kết hợp Yới nhau là Yiệc rất có lợi, cùng giúp đỡ Lô Châu đổi kháng Yới Hạ Châu, điểu này Yốn đã có trong dự liệu của hắn, nhưng cục diện Tây Bắc lại thay đổi, mà thực lực mình thể hiện ra lại nằm ngoài dự liệu của họ, hai Yị lão bằng hữu này tất nhiên sẽ cân nhắc thương lượng một lượt, đây cũng là Yiệc trong dự liệu của Dương Hạo. Hắn phâi để cho họ thời gi­an để tiêu hóa dẩn những thổng tin đã nhận được, rồi mới tiếp tục đưa ra quYết định.

Ngày mùa hè thời tiết khốc liệt, nhưng gió buổi tối lại rất mát mẻ. Dương Hạo nhẹ nhàng trớ Yề nơi ở phía hậu trái, đi thẳng rồi rẽ Yào phòng ngủ của Đòng Nhi. Dưới ánh đèn. Đông Nhi đang từng mũi từng mũi khâu Y phục, bộ Y phục đó là dành cho trẻ con mặc mùa đông, giầy đầu hồ, mũ đầu hổ đều đã làm xong, chúng đều được đặt trên bàn. Trên chiếc giầy đầu hổ có một lớp nhung màu trắng như lông thỏ. còn trên chiếc mũ lại được thêu một chữ “Vương”. Trông rất đáng yêu.

Y phục là áo của trăm nhà, nó được khâu từ những miếng vải đi xin từ khắp các nhà có con cái đông đủ ở Lô Châu, ở thời đại này ti lệ trẻ sơ sinh chết yểu khá cao. lấy hoàng đế khai quốc Triệu Khuông Dận của Đại Tống làm ví dụ, hắn vốn có bốn đứa con trai, sáu đứa con gái. nhưng chết yểu mất hai đứa con trai, ba đứa con gái, số còn lại đúng bằng một nửa. Trong cung việc chăm sóc các hoàng tử. công chúa là vô cùng quan trọng và cân thận, vậy mà cùng có kết quả như vậy, thì tỉ lệ trẻ sơ sinh chết yểu trong dân gi­an như thế nào chi cần nghĩ cũng biết. vì thế trong dân gi­an đã có một thói quen đó là khi nào trong nhà có trẻ mới sinh thì sẽ mặc áo trăm nhà, chính là để mượn chút nhân khí, hi vọng đứa trẻ có thể mạnh khóe trưởng thânh.

Với tục lệ này thì phàm những nhà có con cái bất kể là gia đình như thế nào đểu khổng dám sơ ý bó qua việc cát lợi này, có điểu những loại vải này xuất phát từ trăm nhà, ai mà biết trên đó có những mẩm bệnh gì, nên Dương Hạo đã sai người dùng nước sôi luộc qua, sau đó lại phơi thêm mấy ngày nắng rồi mới sử dụng. Những mảnh vải này đã được kháu thành áo. bên trong còn được độn thêm bông trắng như bạc, thời này bông trắng vẫn được coi là thứ qúy giá và rất đắt đỏ. Ở Trung Nguyên trồng rất ít. ngay cà hoàng gia cũng phải từ những thứ cống phẩm của các tiểu quốc Tây Yực mới có thể có được một chút bông vải. còn những bông vải này là được thu mua từ những thương gia đến từ Tây vực.

Dưới ngọn đèn. Đông Nhi chăm chú với từng đường kim mũi chi, đôi mắt như bảo thạch sáng long lanh, trên khuôn mặt xinh đẹp mang một nụ cười hiển hòa. hạnh phúc, một đại cô nương tuyệt trần. Lúc này xem ra đã có phong thái của từ mẫu rồi. Hiền thê lương mẫu là sự phối hợp hoàn hảo với nam nhân. Dương Hạo thấy vậy trong lòng khổng khói trào lên một cảm giác ấm áp. Hắn xoa xoa tay, nhẹ nhàng bước dần tới, vòng tay ra ôm lấy eo Đông Nhi.

Đông Nhi quay đẩu nhìn, thấy chính là phu quân của mình, liền nở nụ cười ngọt ngào, đẩu dựa vào vai hắn, hai người tựa vào nhau, tóc mai bay bay chạm vào tai nhau, hưởng thụ một sự gi­ao lưu ấm áp vô thanh. Một lát sau Đông Nhi mới nhẹ nhàng nói: “Khách khứa đã sắp xếp ổn thòa chưa?”

“ừ, đều đã ồn thỏa rồi. Cũng đã muộn, đi ngủ sớm đi. Mấy công việc khâu vá này để Diều nương, Hạnh Nhi làm là được rồi, họ có rất nhiều thời gi­an rỗi, trong phủ lại cũng chẳng có việc gì cần làm. nàng làm thế này chẳng phải là tự làm khổ mình sao.”

Đông Nhi lắc đẩu. vuốt ve cái bụng, dịu dàng nói: “Đày là con của chúng ta, nô gia làm mẹ, sao có thể khổng đích thản làm áo cho con minh chứ? Đông Nhi làm mấy việc này trong lòng cảm thấy rất vui.”

Dương Hạo cười ha ha. kéo nàng dậy, nói: “Nàng à, trời sinh là mệnh vất vả. Thổi vậy, ngày mai lại làm tiếp, bảo bối sinh ra e là cũng phải đợi đến tiết trời đại tuyết, bây giờ vẫn còn sớm lắm. làm áo cũng khổng cần phải quá gấp gáp.”

Đông Nhi cười ngọt ngào, nghe lời mà thu kim chi lại.

Đèn tắt, ánh trăng chiếu mờ ảo qua khung cửa sổ. tiếng dế mèn kêu râm ran, hai vợ chồng nẳm kể vai bên nhau, thì thẩm to nhỏ trong màn đêm.

Đông Nhi nhìn ngắm ánh trăng đẹp mê người ngoài cửa sổ, ngọt ngào nói: “Đông Nhi sinh vào mùa đông, tính ngày thì có lẽ đứa trẻ này cũng sẽ sinh vào mùa đông, nô gia nghĩ đến lúc đó nên đặt tên gì cho con?”

Dương Hạo ngáp một cái, khẽ cười nói: “Mẹ là đông, con cùng là đông, như vậy gọi là Đông Đông đi.”

Đông Nhi sẵng giọng: “Đặt tên mà tùy tiện vậy sao?”

Nàng nghiêng đầu nghĩ, nghiêm túc nói: “Nếu như là cái tên gọi thường ngày thì khổng sao. nhưng nếu như làm nên sự nghiệp lớn, nam nhi lại có cái tên vậy thì khổng thích họp cho lắm. nểu như là con gái thì cũng khổng họp với danh phận đại tiêu thư phủ thái úy, tên sẽ đi theo cả cuộc đười, quan nhân không nên tùy tiện.”

Dương Hạo mệt mỏi ngáp một cái. nói: “ừ. Yậy ta không phí sức vì chuyện này nữa. Trong nhà chúng ta tài nữ vô số, có đại tiêu thư Đường môn. có tài nữ Đông Nhi giỏi thơ phú, ngay cả Diệu Diệu cũng là một địa hành gia thơ từ ca phú. hoa khổi của lục diệp bảng. Nói ra thì kẻ kém tài nhất chính là ta. hà tất phải nghĩ nhiều, cứ đê cho mấy người suy nghĩ mà làm.”

“Chàng thật là. làm cha mà lại thờ ơ như vậy. tên của con cái nhà mình cũng khổng chịu để tâm.”

Đông Nhi vuốt ve cổ hắn, giọng mềm mại nói: “Khi ờ Bá châu. Đông Nhi vốn cho rẳng cả đời sẽ phải sống trong băng giá, nhung từ khi có quan nhân, Đông Nhi mới cảm thấy mình là một người phụ nữ. là một người phụ nữ hạnh phúc.”

Dương Hạo cổ ý ho một tiếng, nói: “Lời này nghe ra thì có rất nhiều nghĩa, cẩn thận bào bổi kháng nghị đấy.”

Đông Nhi tinh ngộ. khổng nhịn nổi mà cười khúc khích, Dương Hạo nghe thấy tiếng cười của nàng khổng khỏi động tình. Đột nhiên ôm lấy nàng nói: “Mấy bữa nữa là lại có một tên tiểu tử đến tranh ăn với cha nó. Khổng cam tâm, quả thật khổng cam tâm, phải để quan nhản ăn mấy miếng trước đã.”

“A. đừng.” Đông Nhi kêu lên nhưng lại khổng chống đỡ, tùy ý cho hắn cời áo mình, để lộ ra hai vầng minh nguyệt,. Với nụ hổn của Dương Hạo. Vẻ hồng nhuận đò dẩn trên mặt. ánh mắt dẩn dẩn mờ đi. Nàng khổng kiểm nổi mà bám chặt lấy đôi vai vững chắc của Dương Hạo. Động tình nói: “Có được sự yêu thương của quan nhân, Đông Nhi mới là một người đàn bà hạnh phúc, có cốt nhục mà chúng ta thân sinh. Đông Nhi mới cảm thấy mình là một người đàn bà, cuộc đời này coi như đã viên mãn rồi. Chi cần được ở bên cạnh quan nhân và những đứa con của chúng ta, Đông Nhi đã thấy đủ rồi. Quan nhân, chàng thích trẻ con khổng? Đây là đứa con đẩu tiên của chúng ta. bất kể là trai hay gái, quan nhân đểu sẽ khổng thất vọng chứ?”

“Thích, đương nhiên là thích.”

Dương Hạo hơi dịch người một chút, nhẹ nhàng ôm lấy nàng vào lòng, mim cười nói: “Ta thích trẻ con bất kể là trai hay gái. Ta sớm đã bảo nàng khổng cẩn phải lo lắng, nhung nàng lại chẳng chịu yên tâm.”

Hắn dừng lại một chút, rồi lại nớ nụ cười xấu xa, nói: “Có điều ta thích cùng Đông Nhi tạo ra trẻ con, đợi khi chúng ra đời chúng ta lại cùng hợp sức sinh cho con cháu đầy nhà.”

“Quan nhân.”

Đôi mắt Đông Nhi sáng long lanh, nàng nhướn cổ lên. hổn lại Dương Hạo. Rồi nàng lại giống như một con mèo vừa ăn xong một con cá béo. Vẻ mặt vừa ý, liếm liếm môi. dụi đẩu Yào ngực Dương Hạo. ấm áp nói: “Đông Nhi là người của quan nhân, quan nhân muốn thế nào Đông Nhi sẽ làm thế đó.”

Dương Hạo ôm chặt nàng hơn, nghiêng đẩu nhìn về ánh trăng ngoài cửa sổ, thẩn trí bỗng nhiên như bay đến tận chân trời: “Đứa trẻ đầu tiên, mẹ của đứa trẻ đầu tiên đó cũng sẽ vui vẻ giống như Đông Nhi chứ?”

Cùng lúc ấy, trong cung Hoa Nguyệt ở thượng kinh, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu trải qua mệt mỏi phong trần đã xuất hiện trước mặt Tiêu Xước. Tiêu Xước trên đầu một một chiếc mũ phượng được gắn đá đen. mặc bách từ y. tay áo cong cong hình tì bà. khuôn mặt xinh đẹp như một đóa mẫu đơn đang nở rộ. nàng ta lãnh đạm hỏi: “Dương Hạo bây giờ đã trờ về Tây Bắc rồi chứ?”

Chương 418: Càn khôn trong tay áo

Tiểu Lục cung kính đáp lời: “Bẩm nương nương, đại nhân nhà ta lúc này chắc đã về tới Lô Châu rồi.”

Tiêu Xước hơi nhăn mày. tức giận nói: “Cái gì mà chắc? Đại nhân nhà ngươi ở đâu mà ngươi cũng không biết?”

Vị hoàng hậu có dung nhan xinh đẹp nhưng lại có uy nghiêm từ khi sinh ra này hình như có chút tức giận, nhung thiên về vẻ oán trách, làm cho người ta phải lo lắng.

Tiểu Lục vội khom người, đáp: “Nương nương, tiểu Lục theo đại nhân trở về Khai Phong không lâu. thì đại nhân hạ lệnh cho tiểu Lục và Thiết Ngưu hộ tống phu nhân nhanh chóng trở về Lô Châu, khi chúng thân ròi khói Biện Lương được mấy ngày thì nghe tin Triệu quan gia băng hà, khi chúng thẩn trờ về Lô Châu không lâu lại nhận được tin hoàng đệ đãng cơ. Đại nhân nhà thần nhận được di mệnh của tiên hoàng, được triều đình phong làm Hằng Sơn tiết độ sứ. giám hiệu thái úy, lấy thân phận sứ tướng đến Lô Châu cai quản. Hai huynh đệ chúng thẩn vô cùng vui mừng, nhưng chúng thần ớ Lô Châu vẫn chưa kịp đợi đại nhân trở về; chi nhận được một chiếc hộp đại nhân gửi tới, vì hai người chúng thân ờ lại Khiêt Đan lâu. ngôn ngữ. địa hình khá quen thuộc nên đã lệnh cho hai người chúng thẩn đưa đến. Khi chúng thần rời khòi thì đại nhân nhà thần vừa mới tới Giáng Châu, theo tính toán thời gi­an thì bây giờ chắc đã đến Lô Châu rồi.”

Tiêu Xước kinh ngạc, nhíu mày lên, nói: “Đem chiếc hộp đó lại đây cho trẫm.”

Loan Đao Tiểu Lục nhấc một chiếc hộp từ bên cạnh lên. dâng hai tay về phía trước, một nữ vệ ở bên cạnh Tiêu Xước liền đi tới trước nhận lấy. rồi muốn mang đến bên chiếc bàn ở góc cung điện, mở ra kiểm tra một lượt. Tiêu Xước không chờ được liền nói: “Không cần phải đề phòng, đem nó tới đây cho trẫm.”

Nữ vệ nghe lệnh liền mang chiếc hộp đặt nhẹ lên chiếc án trước mặt Tiêu Xước, Tiêu Xước nhìn chăm chú chiếc hộp, thấy tờ giấy niêm phong trên miệng chiếc hộp vẫn còn nguyên, rõ ràng là chưa từng bị ai động tay tới, nàng đưa cánh tay ra xoa chiếc hộp, trong lòng trái tim chợt đập thình thịch như con nai đang muốn xông ra khỏi lồng ngực.

Bên trong hộp sẽ có thứ gì? Theo như kế hoạch ban đầu của hai người thì trước mắt sẽ phối hợp với nàng để diệt Khánh Vương, sau này sẽ tạo nên cục diện kiểng ba chân, rồi sẽ cùng hợp tác với Khiết Đan , trong chiếc hộp này bên trong theo lí mà nói thì nên có đựng bản kế hoạch hợp tác tấn công Ngân Châu và đánh Khánh Vương, ngoài ra còn có gì khác không? Hắn…hắn sẽ tặng gì cho nàng không, có vật gì là riêng tư không? Nếu không hà tất phải làm ra vẻ nghiêm mật như vậy. ngay cả hai nghĩa đệ của hắn hắn cũng giấu.

Trong nhất thời, Tiêu Xước lại có chút lo lắng, xấu hổ và chờ đợi. từ một đế hậu của một nước hổ sóng nổi gió liền hồi phục lại tâm tình của một tiểu nữ tử.

Triệu Khuông Dận băng hà. Triệu Quang Nghĩa kế vị, Dương Hạo nhận phong tiết độ sứ. những tin tức này nàng đã lấy được từ con đường tin rức quen thuộc của mình, nàng cũng hiểu rõ được ý nghĩa của hai cái chức này là gì. Dương Hạo tuổi vẫn còn trẻ. trong thời gi­an hai năm ngắn ngủi mà hắn đã có thể lên làm thần tử. hơn nữa lại khai phủ lập nha, theo lí mà nói đã thành chư hẩu một phương, cái kiểu thẳng chức như thế này thật là chưa từng nghe thấy, làm cho cái lớp che phủ thân phận mờ ảo của hắn cảng lúc cảng nhiều, nàng cảng muốn nhìn rõ ra lại cảng cảm thấy lạc trong lớp màng che phủ mơ hồ của hắn, làm cho nàng không thể nhìn rõ.

Tống triều luôn dốc hết sức để làm suy yếu thế lực của tiết độ sứ, tập trung quyển lực vào triều đình, làm sao có thể buông tha cho một tiết độ sứ có thực quyển như hắn chứ? Việc vô lí như thế này lại cảng cho một người thổng minh như Tiêu Xước trăm suy nghìn nghĩ, nhưng nghĩ mãi vẫn không ra. Rồi nàng lại liên tưởng đến cái chết đột ngột của Triệu Khuông Dận. nàng thậm chí còn bạo dạn mà nghĩ rằng Dương Hạo đã cấu kết với Triệu Quang Nghĩa, cái chết của Triệu Khuông Dận là một âm mưu cực lớn, cho nên Dương Hạo mới được báo đáp hậu hĩnh như vậy…

Nhưng cho dù những việc xảy ra ở Biện Lương mang đẩy mùi vị quỷ quái, nhưng chỉ dựa vào những dấu yết này nàng cũng không có cách nào phán đoán ra chân tướng ngay lúc đó. Một mặt cần phải suy nghĩ đến ảnh hưởng của sự thay đổi chính cục Tống quốc đổi với Khiết Đan nàng, một mặt lại không thể tránh được suy nghĩ đến người đàn ông mà nàng không nỡ ra tay. Những ngày này ớ thượng kinh, bất luận là lúc xử lí triêu chính hay là đi thưởng hoa trong ngự viện, trong đầu nàng đều chi nghĩ đến hắn, bây giờ thật sự đã nhận được tin tức của hắn, một nữ trung hào kiệt như Tiêu Xước cũng không khòi có cảm giác “gần thương xa nhở”.

Suy nghĩ một hồi lâu nàng mới xé tờ niêm phong ra. mở hai cái nút. chiếc hộp nhẹ nhàng được mở ra.

Chiếc hộp được mở ra, mắt Tiêu Xước liền sáng lên. thứ gì nàng cũng đã từng nghĩ tới. duy chi chưa từng nghĩ rằng bên trong lại là một mảng đất bùn và một mảng đất sét, dưới đáy hộp cố định một miếng gỗ bản, trên miểng gốc lại là một chiếc sa bàn, chiếc sa bàn này dùng đất sét để tạo hình núi, sông, thành trì giống như đúc. Mối họa trong lòng nàng chính là Khánh Vương, những ngày này không ít lần dày vò suy nghĩ về hình thế của Ngân Châu, nàng chi lướt mắt qua đã có thể nhìn ra hình trên sa bàn này chính là địa hình Ngân Châu . Tiêu Xước cúi đẩu chăm chú quan sát kĩ địa đồ đặc chế này.

Người Khiết Đan trinh phạt sa trường, thống binh đại tướng cũng có lúc sẽ tập trung sa thạch để làm bản đồ, sắp xếp binh lính, cùng thảo luận binh sự, nghiên cứu đổi sách với bộ tướng, nhưng rất ít khi chế tác ra sa bản tinh tế, tỉ mi như thế này. Có sa bàn này trong tay thì như có thể từ trên cao bao quát Ngân Châu, nắm được tất cả hình thế núi non trong tẩm mắt.

Tiêu Xước thấy bên trong chiếc hộp còn có một bức thư. liền lấy ra và soi đọc dưới ánh nến.

Thư không có tên người nhận, người gửi. không đẩu không cuối, đi thẳng vào giảng giải hai bên dùng binh như thế nào. làm thể nào để giáp công nam bắc.. .đọc hết cả bức thư rồi lại đặt xuống, nhìn ti mi vào hộp, lại không thấy còn thứ gì nữa. Tiêu Xước dán dân xị mặt xuống.

Nàng xé bức thư đi, ngẩng mặt lên nhìn Loan Đao Tiểu Lục, lạnh lùng nói: “Chi có thể này thồi sao? Dương Hạo không còn dặn dò gì nữa sao?”

Loan Đao Tiểu Lục còn chua kịp trả lời thì Thiết Ngưu đã lắc đầu, cười ngây ngô nói: “Nương nương, chúng thần ngay cả mặt của đại nhân cũng không được gặp. đã bị điều đến Khiết Đan rồi. nào có thể còn nhận được thêm sự sai bảo của đại nhân chứ. Không giấu gì nương nương, trong chiếc hộp này có thứ gì. hai huynh đệ chúng thần đều không biết. khi đại nhân cho người đưa tới đã phong kín cả rồi.”

Ánh mắt Tiêu Xước liền sầm xuống, lạnh giọng nói: “Trẫm biết rồi, các người về dịch quân nghi ngơi đi, đợi lệnh của trẫm sau.”

Tiểu Lục và Thiết Ngưu quay sang nhìn nhau, không biết hoàng hậu nương nương sao lại đột nhiên lộ ra vẻ mặt không vui, hai người không biết trong thư của Dương Hạo đã nói những gì, đành phảii lui về. Tiêu Xước thở dài một hơi, nghiêng người dựa vào ghế, xua xua tay. mấy nữ vệ liền khom người lui ra. Trong điện đột nhiên yên tĩnh lại. Một hồi lâu, Tiêu Xước mở to mắt ra. nhìn vào tấm sa bàn tinh xảo trước mặt, trong mắt dần dần hiện lên sự oán trách: “Cái tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa, giữa chúng ta chẳng nhẽ chi có quan hệ lợi dụng lẫn nhau thồi sao?”

Từ trong ý say mờ ảo đã bị hắn chiếm lấy, lại đến lúc xấu hồ nhẫn nhịn chủ động chòng ghẹo hắn, rồi cuối cùng bị hắn thổ bạo. Đôi má Tiêu Xước đột nhiên nóng lên. đôi mắt mờ ảo đi. Không thể phủ nhận khi lầm đầy tiên thành nghiệt duyên với Dương Hạo nàng đã vừa xấu hổ vừa tức giận, hận không thể đem Dương Hạo ra chém ngàn vạn nhát, cho dù sau này có chủ động trêu chọc hắn cũng chi là vì coi hắn như một công cụ.

Nhưng qua những buổi đểm. không thể tránh khỏi từ sinh lí của nàng ảnh hưởng đến tâm lí của nàng, làm cho nàng dần dần nảy sinh một cảm giác có gì đó kì diệu, chi là nàng nhận thức rõ được rằng một khi giá trị lợi dụng đã hết thì người đàn ông này cũng sẽ phải biến mất trong nhân thế cho nên nàng đã cố gắng khống chế lấy lý trí của mình, không để cho mình nảy sinh tình cảm với hắn, trở thành tù binh của tình cảm.

Nhưng cho dù đã để phòng bẳng mọi cách; trái tim phòng ngự cẩn thận nhưng người đàn ông này cuối cùng cũng bước vào trái tim nàng. Khi Dương Hạo với cái thân phận tử tù, động một cái nàng có thể lấy mạng hắn đã giành được quyển chủ động, đẩy một nhiếp chính hoàng hậu có trong tay đại quyền sinh sát vào trong bàn tay hắn, khi hắn hung hãn cưỡng ép nàng vào trong nhà lao. thì từ cơ thể đển trái tim, người đàn ông này đểu đã khắc sâu vào trong lòng nàng, cá đời không thể xóa bỏ được.

Nàng là một nữ nhân, khi ờ trên người Dương Hạo. lẩn đầu tiên nàng cảm nhận được sự nhục nhã lớn nhất của một người phụ nữ, nhưng lại cũng thể nghiệm được sự khoái lạc lớn nhất của một người phụ nừ. Nàng là một nữ hoàng đế quốc có vũ lực cực lớn, nhưng lại bị một tù nhân khống chế đến bảy phần, làm cho nàng thể nghiệm được mùi vị của kẻ yếu không có cách nào kháng cự lại. tên nam nhân đó lại còn là…phụ thân thân sinh của đứa con chưa chào đời của nàng, nhiều thứ như thế bào nàng làm sao có thể quên được?

Mỗi ngày nàng có không biết bao nhiêu tấu chương cần phải xem. cần phải xử lí triều chính, những mâu thuẫn cẩn phải giải quyết với các bộ tộc. rồi phải cẩn thận ứng đổi với sự dò xét khiêu khích của các tộc Nữ Chân, Thất Vi…nhưng bất kể là lúc bận rộn hay lúc nhàn rỗi, trong lòng nàng cũng luôn có một tia rung động không có cách nào dứt bỏ được, đó chính là sự đau thương của một người đàn bà.

Nhưng hắn đã đối xử như thế nào với nàng cơ. chi lạnh lùng nói với nàng rẳng đã chuẩn bị xong, có thể tấn công Ngân Châu rồi. Lại còn cường điệu kiêu giọng con buôn, nói lẳng Khánh Vương gi­ao cho nàng xử lí. Ngân Châu nhất định phải gi­ao vào tay hắn, ngoài ra không còn gì cả.

“Thồi, ta vốn không nên luyến tiếc gi hắn. Từ khi cha nâng đỡ ta lên cái vị trí hoàng hậu này, ta đã biết trước được rằng cả đời ta sẽ phải cô độc bước trên con đường quyền lực này, không thể quay đầu lại được, quay đầu sẽ là vách núi, đủ để khiến cho ta và cả gia tộc rơi xuống tan xương nát thịt. Đi trên con đường đó ta đã xác định rằng cả đời này sẽ làm bạn với mưu lược và quyển lực. là một cô gia quả nhân bốn phía đều trông không, hà tất lại phải chấp mê bất ngộ. nghĩ đến hắn làm gì?”

Cái gáo nước lạnh của Dương Hạo đã làm cho nàng tinh ngộ lại. Ánh mắt mê muội, đau thương của Tiêu Xước lại hồi phục lại sự tinh minh và sắc bên. nàng ngồi thẳng dậy. dựa về phía trước, yên lặng nhìn bản địa đồ, trong đầu nhở lại tất cả những gì Dương Hạo đã để cập tới, đối chiếu với bản địa đồ một cách ti mi cần thận, đánh dấu những nơi trọng yếu của binh dịch và núi đồi. thung lũng cùng thủy lưu. suy tính đến việc xuất binh.

Ngân châu xa cả ngân dặm, chiến trường thoắt cái là vạn biến, Khánh Vương không thể xuất chiêu dựa vào thiết kế của chúng, cho nên bức thư này của Dương Hạo cũng không có chi tiết của kế hoạch tác chiến. Hắn chi nhắc đến phải nhắm vào chỗ sơ hở của Ngân châu, hai bên liên kết xuất binh, ứng đổi với đủ các khả năng biến hóa. đưa ra các đề nghị và phân chia chiến lợi phẩm, còn muốn xem mức ăn ý của chủ tướng hai bên trên chiến trường.

Đối với Ngân châu, bất kể là Dương Hạo hay là Tiêu Xước đều phải đánh một trận, hơn nữa phái là trận tất thắng. Dương Hạo gấp gáp muốn đoạt lấy Ngân Châu không chi là vì thiết lập nên binh uy của Lô Châu mà còn là vì để cho cái danh hiệu tiết độ sứ Hằng Sơn của hắn thành thực, triệt để nắm giữ được dãy núi Hẳng Sơn, một nơi trọng yếu chiến lược giữ Trung Nguyên và Tây Vực. Cũng như vậy. diệt trừ tên phán nghịch Khánh Vương cũng là việc cần thiết để Tiêu Xước làm ổn định chính quyển Khiết Đan , hai người đểu có mục đích riêng, đúng là khởp nhịp với nhau.

Còn về việc chia chiến lợi phẩm thì Khánh Vương bất luận sống chết nhất định phái gi­ao vào tay Tiêu Xước, còn thành Ngân Châu thì tất cả lại thuộc về phía Dương Hạo. Thực ra…, nếu như có thể, Tiêu Xước cũng tuyệt đối sẽ không ngại gì mà cùng lúc diệt Khánh Vương sẽ đồng thời chiếm lấy Ngân châu, làm cho thế lực Khiết Đan tiếp tục mớ rộng ra phía tây, nhung giống như Thổi Đại Lang đã phân tích từ đầu. Đại Tống đang giằng co với Khiết Đan , hai con hổ gầm thét với nhau, tạm thời đểu không tiện ra tay đối phó với con hổ Tây Bắc này, bây giờ chi cẩn đảm bảo Tây Bắc không rơi vào tay đổi thủ là được rồi. Cả hai bên đểu không muốn dễ dàng thêm một kẻ thù. cho dù kẻ thù đấy có tương đối nhỏ. cho nên Ngân châu này cho dù bị người của nàng đánh đổ thì bây giờ nàng cũng chi có thể gi­ao vào tay Dương Hạo.

“Phái ai đi đây…, Da Luật Hưu Ca nhất định là không được. Nữ Chân, Thất Duyệt ngo ngoe muốn động, hơn sáu mươi triều hiến thuộc quốc vô thường, thượng kinh cẩn phải có một viên hổ tướng ớ lại trấn giữ, huống hổ hắn và Dương Hạo luôn có một chút khúc mắc với nhau, nếu phải hắn đi thì không chừng hắn lại nhân cơ hội gây sự với Dương Hạo. làm hỏng kế hoạch lâu dài ôn định Tây Bắc. kiêm chế Trung Nguyên, dẹp nội loạn, trùng hung quốc lực.

Như vậy thì chỉ có thể phái Da Luật Tà Chẩn đi, hắn là nam viện đại vương, có thể trực tiếp điểu bình, hơn nữa Da Luật Tà Chẩn lại thổng thận trọng, luôn được trọng nhiệm. Nếu như lệnh cho nam viện đại vương Da Luật Tà Chán dẫn mấy vạn binh tinh nhuệ đi chinh phạt Ngân Châu, để cho khu mật sứ Quách Tập. tể tướng Da Luật Hiển Thích lưu lại trấn giữ nam viện, điểu động tộc quân và các bộ để để phòng Tống quốc. Còn bắc viện ta thì án binh bất động, Tống quốc tất sẽ không mù quâng mà tùy tiện động binh. Nếu như Triệu Quang Nghĩa thật sự dám hung hãn động binh thì có thể lệnh cho Da Luật Tà Chán hồi kinh sư.

cùng hợp lực với binh mã bắc viện ta để công kích lại quân Tống, bên Khánh Vương đã có Dương Hạo không chế. sẽ không dám dẫn binh đuôi tới….”

“Làm như vậy đi!”

Cái dáng vẻ nữ nhi mềm yếu lúc nãy đã lại bị Tiêu Xước biến trờ thành một dáng vẻ đầy sự sát phạt quyết đoán. Nàng cẩm bút lên. lấy một tờ giấy, khi chuần bị hạ chiếu chi thì đột nhiên liếc mắt nhìn chiếc hộp bùn sét trên bàn, nồi ưu tư vốn đã yên trở lại đột nhiên lại không chịu sự khống chế mà trào lên. nàng đưa tay ra hất chiếc hộp một cái. làm chiếc hộp lăn xuông đất. sa bàn vỡ vụn. Tiẻu Xước cười lạnh một tiếng, giống như thứ vỡ vụn kia chinh là người đàn ông phụ tình phụ nghĩa. Nàng chi liếc mắt nhìn một cái rồi lại ngồi xuống, bắt đâu nhấc tay viết chiếu thư, đột nhiên mắt nàng sáng lên, hình như có thứ gì đó, Tiêu Xước không khỏi giật mình.

Nữ vệ ở bên ngoài điện nghe thấy bên trong có động tĩnh, liền cẩm đao xông vào, thấy Tiêu nương nương đang cầm ngọn đèn cầy, khom lưng xuống soi thứ gì đó. nữ vệ lo lắng hòi: “Nương nương, xảy ra chuyện gì vậy?”

Tiêu Xước đầu cũng không ngẩng lên, lạnh lùng nói: “Không có gì, các ngươi đều lui ra đi. chưa được truyền gọi thì không được vào.”

“Vâng!” Mấy nữ vệ vội vàng lui ra ngoài. Tiêu Xước qùy xuống dưới đất. cẩm một mảnh bùn lên nhìn, rôi tìm kĩ trong đám bùn, phát hiện ra có một chiếc thoa được quấn trong một tờ giấy, hai đẩu chiếc thoa được tạo hình đơn giản, không có bất kì vẻ quý giá nào, nhưng cái kiểu chạm rồng của nó làm cho người ta thấy thích thú.

“Sao…sao lại có thứ này?” Tiêu Xước có chút kinh ngạc, có chút vui mừng, khuôn mặt dẩn trờ lên hiển hòa. nàng mớ rộng tờ giấy cuốn chiếc thoa ra, bồng thấy bên trên hình như có chữ. vội vàng giơ tới ánh đèn để đọc, thì thấy bên trên có viết một hàng chữ: “Hà dĩ úy biệt li? Nhĩ hậu đại mạo sai.”

Tiêu Xước thấy mũi cay cay, trong mắt không khói nhòa đi, nàng sụt sịt mũi. vội vàng lại tìm trong đống bùn, rất nhanh lại tìm thấy một mẩu giấy nho nhò khác, mở ra xem là một chiếc nhẵn bạc được tạo hình đặc biệt, Tiêu Xước vội vàng nhìn tờ giấy, thấy bên trong lại là một câu thơ: “Hà dĩ đạo ân cần? Ước chi nhất song ngân.”

Khóe miệng Tiêu Xước nhíu lên. hình như muốn nở một nụ cười, nhưng nàng đã kiềm chế lại. Nàng là ai? Gi­ang sơn vạn dặm trong tay. sao có thể bị một thứ như thế này làm rung động? Tiêu Xước rất khinh bi bĩu môi. cẩm lấy chiếc nhẫn, xem ti mi. đột nhiên lại thấy bên trên có ân hiện một dấu yết, nhìn kĩ lại thì mới thấy đó là hàng chữ ghi ngày tháng, mà lại dùng niên hiệu của Khiết Đan . Tiêu Xước cuối cùng cũng không nhịn được mà cười: “Cái tên đáng ghét này, lẽ nào lại là mua đại mấy thứ trang sức ớ thượng kinh ta, bây giờ lại mang đến trêu chọc ta?”

“Hình như là được làm chưa lâu, ngày này…ngày này…”

Tiêu Xước đột nhiên như bị bỏng tay. chiếc nhẫn đó rơi “ting” một tiếng xuống đất. Tiêu Xước như sắp ngất đi, nước mắt lăn dài trên má, cuối cùng cùng đã trờ về thẩn thái mà một tiêu nữ tử mười bảy, mười tám tuổi nên có: xấu hổ, thích thú. vừa muốn kháng cự vừa muốn tiếp nhận…

“Cái tên này đúng là vô lại, cái ngày đó…cái ngày đó…hắn lại ghi vào chiếc nhẫn này…” Tiêu Xước cắn môi. đột nhiên nhanh chóng nhặt lấy chiếc nhẫn rồi cất vào trong áo. sau đó lại tiếp tục trò choi tìm báu vật trong bùn.

Vòng tay. xuyên tai, ngọc bội…

Hà dĩ trí khể khoát? nhiễu oản song khiêu thoát…

Hà dĩ kết ân tình? Mv ngọc chuế la anh..

Hà dĩ trí khu khu? nhĩ trung song minh châu…

Tất cả sông núi thành trì được làm bằng đất sét đã bị Tiêu Xước làm cho vụn cả ra. Mỗi một thứ đều được bọc bởi một mảnh giấy mà trên đó có ghi những dòng thơ đầy tình ý nồng nàn, làm cho nàng như muốn say ngất đi.

Những âm thanh khác lạ ở trong điện làm cho những nữ vệ ờ bên ngoài không yên tâm được, một thị vệ đã lấy hết gan mà thò đầu vào trong nhìn, thì thấy vị hoàng hậu nương nương mẫu nhi thiên hạ thường ngày luôn tôn quý uy nghiêm mà giờ lại đang quy dưới đất. tay trái thì cẩm đèn. tay phái thì cẩm một đống giấy, cúi đẩu nhìn những thứ gì đó đang được đặt xung quanh dưới đâu gổi. cười giống như một tiêu cô nương ngây thơ khờ khạo. Rất đắc ý…

Lúc này. thành Ngân châu đang đầy một mùi sát khí.

Thành cấm. tiêu cấm, binh đinh khắp nơi, sĩ binh tuần hành khắp ngõ lớn ngõ nhỏ. trong đểm chi có những bước chân lưu động nặng nề.

Dây treo cẩu đông môn lạch cạch được hạ xuống, cửa thành mớ ra một hàng hơn mười kị sĩ đi thẳng vào thành, khi đi qua cửa bước chân ngựa đạp đất như sấm

Một viên tướng lĩnh Khiết Đan đi lên trước nghênh đón, ngồi trên ngựa chắp tay làm lễ. cao giọng nói: “Lưu tướng quân, ngài cuối cùng cũng đến rồi.”

Một vị tướng quân, phi tới, lớn tiếng nói: “Để tránh tai mắt của Lô châu, nên đã chuyển sang hành quân đểm, chọn những đường nhò để đi nên đến muộn một chút.”

Viên tướng quân Khiết Đan nói: “Tướng quân cả chặng đường vất vả rồi, Khánh Vương sớm đã bố trí dịch quân cho tướng quân, mời tướng quân về nghi ngơi, sáng sớm ngày mai…”

Người đến liền trầm giọng nói: “Không, quân tình khẩn cấp. sớm sắp xếp một khắc thì sẽ có được tiên cơ trước.”

Hắn quay đẩu nói: “Diên Lan, Diên Phố.”

Hai tiểu tướng ở phía sau khoảng hai mươi tuổi, anh khi bừng bừng, lớn tiếng đáp lời. Người đó lại nói: “Hai ngươi và thị vệ về dịch quân trước đi.”

Chương 419: Nhất tướng khó cầu

Trong phủ Khánh Vương. Khánh Can Da Luật Thịnh chưa đi ngủ. lúc này hắn đang cùng các tâm phúc bản luận quân cơ đại sự, tưởng lĩnh hai bên chia ra ngôi hai bên. trên tường treo một bức địa đồ sơn hà. Da Luật Thịnh nhíu mày chi vào tấm bản đồ, đang giải thích cho thuộc hạ tưởng lĩnh thế cục trưởc mắt của Ngân châu.

Một thiếu nữ mĩ miều mặc áo trắng uyển chuyển bưởc vào trong, làm lễ vởi Khánh Vương, mấy thị nữ đẳng sau liền bê từng bát điểm tâm tối tởi trưởc mặt các vị tưởng lĩnh, Da Luật Thịnh dừng lời lại. nói: “Được rồi, mọi người nghỉ ngơi đã, ăn một chút đồ đi.”

Mấy tưởng lĩnh đang ngồi đểu thả lỏng người ra, có một số người mở to mắt ngắm nhìn những thị nữ dung nhan thanh tụ yểu điệu, có một số người còn nhân lúc mấy thị nữ đó bê bát cháo đưa tởi thì lén xoa xoa bàn tay nhỏ của họ. Chỉ cần đám tưởng lĩnh không làm những chuyện quá đáng thì Da Luật Thịnh cũng sẽ coi như không thấy. Thiếu nữ xinh đẹp áo trắng đó bê bát cháo lên trưởc mặt hắn, Da Luật Thịnh mỉm cười gật đầu.

Phủ Khánh Vương này của Da Luật Thịnh vốn chính là phụ phòng ngự sử Ngân Châu . Ngay cả thiếu nữ xinh đẹp áo trắng đó cũng là thị thiếp của phòng ngự sử Ngân châu Lý Quang Tề. Sau khi bị hắn chiếm mất Ngân châu đã thu nhận lại. Còn thê thiếp của hắn đã bị mất trên đường lưu vong.

Khánh vương Da Luật Thịnh cả đường tháo chạy về phía tây. Chỉ mang theo bốn vạn người trong tộc. Trong đó ngoài người bị thương bị bệnh không thể chiến đấu ra thì những chiến sỹ có thể chiến đấu chỉ có ba vạn. Họ không có lương thực dự trữ nên cả chặng đường chỉ dựa vào cưởp bóc từ các phủ châu, phía sau lại có Da Luật Hưu Ca không ngừng truy đuổi, nếu như cứ chạy trốn như vậy thì cho dù không bị Da Luật Hưu Ca tiêu diệt thì tất lòng người cũng sẽ bị suy sụp, sẽ xuất hiện một lượng lởn các quân sỹ bỏ chạy. Vì thế khi hắn chạy tởi Ngân Châu , hắn đã phải tim một nơi để dừng lại. Mà nơi dừng lại chỉ có Ngân Châu .

Thành Ngân châu dưởi sự kinh doanh nhiều năm của Lý thị. Nền tảng rất giàu có. Nhiều năm tích lũy lại, lương thảo trong thành vô số, lại có nưởc uống, cho dù thủ thành mười năm cũng không thành vấn để. Vì thế đã trở thành mảnh đất căn cơ của hắn. Nhưng Ngân châu tuy vì nguyên nhân thế cục xung quanh, chủ lực đặt ở ngoại tuyến ngự địch, thành Ngân châu cũng không thể sánh nổi vởi nơi hiểm yếu của thượng kinh, nhưng phía sau hắn có truy binh, lại không có thời gi­an để đánh hơn một năm, hơn nữa nhân mã của hắn thiện chiến trên thảo nguyên, không giòi công kích thành tri, cũng không có vũ khí công thành thích hợp, muốn đoạt được thành Ngân châu chỉ có thể sử dụng kế nguy hiểm.

Da Luật Thịnh phải định ra kế hoạch mưu đoạt Ngân châu, lại khổ sở vì không có diệu kế mưu thành, liền hòi kế từ các tâm phúc. Thuộc hạ của Da Luật Thịnh cũng không thiếu những văn thần võ tưởng tài giỏi, trong đó có một mưu sỹ tên là Long Hưng Dực khổ tâm suy nghĩ. Sau đó đã hiện một kế cho Khánh vương. Khánh vương Da Luật Thịnh vừa nghe xong đã cho rằng đó là diệu kế. lập tức theo kế mà hành động. Hắn chỉ huy đại quan đến Ngân châu mà không vào, giả bộ hoàng loạn tiếp tục chạy trốn, cùng lúc đó đã phái đại tưởng tâm phúc Dương Đan Mặc mang theo hai nghìn từ sỹ rời khỏi đại quân, tởi đầu hàng Ngân châu.

Tên Dương Đan Mặc đó là một tưởng sỹ trí dũng song toàn, hắn đã nhận được sự hỗ trợ của Long Hưng Dực. lại tiến hành bổ sung thêm một lượt, nhận thêm hơn một nghìn binh sỹ. Những binh sỹ này không cần phải mạnh như hổ như báo. Chỉ cần là những người thương tật, già yếu, hấp hối là được. Nếu như không phải trong đám thuộc hạ không ít người đã theo Khanh vương tạo phán đểu không nỡ bỏ mặc lại những người bị thương, già yếu thì hắn sởm đã vứt bỏ hết đống gánh nặng này đi rồi, nên vừa nghe kế hoạch bồ sung của Dương Đan Mặc. Hắn liền vô cùng vui mừng, lập tức đồng ý.

Sau đó Dương Đan Mặc đã thống soái hai nghìn nhân mã đi về phía Ngân Châu. Đẩu tiên là hắn sắp xếp một nghìn người mai phục ở Ngũ Dương Pha, sau đó đích thân dẫn một nghìn sỹ tốt già yếu bệnh tật, rồi đem theo một lượng lởn vàng bạc châu báu mà Da Luật Thịnh đã gi­ao cho hắn, đi về phía Ngân châu. Cách Ngân châu chừng mười dặm có một trạm quân dịch ở phía bắc lộ. tên là Ngũ Dương dịch. Dương Đan mặc liền làm bộ đầu hàng, dâng lên số châu báu đó. rồi nói mình không muốn tiếp tục khổ sở tháo chạy cùng Da Luật Thịnh nữa, lại không dám quay vẻ Khiết Đan chịu chết, vì thế dâng lên châu báu. Xin Ngân châu tiếp nạp.

Tên tưởng lĩnh Thi Nhĩ Xán trấn thủ quân dịch đó vốn là một gia tưởng trong phủ ngự phòng sứ Ngân châu Lý Quang Tê mởi đến nhậm chức. Vì Lv Quang Tê tranh đấu vởi đám đường huynh đệ. may mắn được Lý Quang Duệ chi định làm ngự phòng sứ. Để ngồi vững cái chồ này. đả kích sự kiêu ngạo của đám đường huynh đệ mà Lý Quang Tề đã không kiêng nể mà sử dụng người của mình cho vào các vị trí quan trọng, người trong phủ đều như được lên trời, tất cả đểu có chức vị. vì thế tên gia tưởng Thi Nhĩ Xán này mởi được kéo lên cái chức trấn thủ quân dịch.

Thi Nhĩ Xán vừa nhìn thấy châu báu được Dương Đan Mặc dâng lên liền bị châu quang bảo khí làm hoa mắt. Hơn nữa lại thấy những người hắn mang theo đều là người già, tàn tật, lập tức sự cảnh giác của hắn hoàn toàn biến mất. Hắn khẳng khái tiếp nhận bọn họ. Lúc này Dương Đan Mặc liền dẫn dụ thêm, nói còn một bộ tộc khác mang theo toàn bộ tài sản, châu báu vàng bạc, trâu dê ngựa và nữ nhân rời bỏ Khánh vương, có điệu bộ tộc này trưởc đây đã từng tham dự trận công kích của Khiết Đan vởi Ngân châu, tộc trường dẫn đầu của họ lo lắng sẽ bị Ngân châu trừng phạt, nên đã chuẩn bị chạy trốn đến chỗ người Thổ Phồn. Nếu như Thi Nhĩ Xán đại nhân có ý chiêu nạp họ thì hắn sẽ làm người ra mặt dẫn dắt họ vào, để giải trừ sự cảnh giác của bộ lạc này. Đồng thời hắn còn rất niềm nở nói vởi Thi Nhĩ Xán rằng bộ tộc này đang giữ số vũ trang của hơn ba trăm người, có sức chiến đấu nhất định.

Thi Nhĩ Xán nghe thấy bộ tộc này mang theo nhiều của cải đến vậy. lập tức mắt sáng lên. Hắn vốn là một nô gia, tầm nhìn hạn hẹp, lúc này đầy đầu đều là vàng bạc gấm vóc vởi đàn bà, hắn thèm thuồng đến mức nưởc miếng chảy cả ra, làm gì còn có cảnh giác. Hắn nghĩ lẩn này đâu phải chi là có tiền tài, còn là vì Ngân Châu đang chinh chiến vởi người Thò Phồn, nếu như kéo được bộ lạc vốn đang định đầu quản cho Thồ Phồn này về thì đó sẽ là lập được đại công. Cho nên hắn lập tức vội vàng đồng ỷ. sau đó dấn theo tám trăm tinh binh, để cho Dương Đan Mặc dẫn đường, đi chiêu hàng bộ lạc Khiết Đan.

Việc này hắn không hể báo vởi phía Ngân châu, vì một khi báo lên trên thì bên trên sẽ phái sứ già tởi, một là chia mất công lao của hắn, hai là chia mất tiền tài của hắn, ba là chia mất đàn bà của hắn. Thi Nhĩ Xán chi nghĩ rằng sau khi việc thành sẽ lại đích thân đi báo cáo vởi Lý Quang Tề, vì thế hắn hào hứng lên đường.

Buổi tối ngày hôm đó, đội quân đã trở về, người dẫn đầu vẫn là Thi Nhĩ Xán, nhưng khi hắn vừa bưởc vào trong Ngũ Dương dịch thì đoàn binh mã mà hắn mang về lập tức nổi dậy chém giết, phóng hỏa, ngay cả những người già yếu, bệnh tật cũng dốc hết sức tàn mà phối hợp chém giết, nhanh chóng chiếm cứ được cả Ngũ Dương dịch, sau đó họ vẫn chưa ngừng lại. Tiếp tục đuổi giết Thi Nhĩ Xán về phía thành Ngân châu.

Thành Ngân châu thấy phía Ngũ Dương dịch lửa cháy ngút trời và thấy đám binh loạn tháo chạy về, vội vàng cho người xuống hòi tình hình. Thi Nhĩ Xán dưởi lưỡi đao sắc bên của Dương Đan Mặc. Đành phải nói dối là Khánh vương Khiết Đan công kích Ngũ Dương dịch để cưởp lương, hắn binh yếu lại cô độc nên không chống đỡ nổi, vì thế đã chạy về thành để cầu cứu binh từ Lý Quang Tề.

Dưởi những ngọn đèn trưởc cổng thành, thấy phía dưởi thành quả thực là binh mã của Ngũ Dương dịch. Thi Nhĩ Xán mặc tiểu y dẫn đầu. Bên cạnh còn có năm, sáu thê thiếp đẩu bù tóc rối, những thủ quân trên thành không khỏi thầm chửi. Tuy họ hận cái tên Thi Nhĩ Xán là một kẻ vô dụng, nhưng hắn lại là tâm phúc của vị tân nhiệm phòng ngự sứ đại nhân, không thể đắc tội vởi hắn, vì thế họ đành phải tức giận mà hạ lệnh thả dây xuống, mỡ công thành để hắn vào. Nếu như không phải thành Ngân châu từ trưởc tởi nay chưa từng có cố nhân tởi tiếp cận, thêm nữa là đại quân của Khánh vương quả thực đã vượt qua khu Ngân châu này, tiếp tục tháo chạy về phía bắc thì vị quan thủ thành này cũng sẽ không sơ ý như thế. Khi hắn vừa cho mờ công thành thì đại họa đã rơi xuống, đám “tàn binh tàn tưởng” xông vào thành, chia ra khắp nơi chém giết, nhanh chóng chiếm lĩnh bắc thành.

Khi Lý Quang Tề biết được tin thành bị chiếm, thì bên ngoài thành một con rồng lửa dài dằng dặc đang từ xa kéo đến. Khánh vương Da Luật Thịnh dẫn đầu đại quân bao vây lấy thành, rồi dùng tốc độ nhanh nhất để chém giết và đoạt binh mã, hai nghìn tưởng sỹ dám chết đã tắm trong biển máu, quyết hộ môn, dùng máu thịt của họ để bảo vệ con đường sống duy nhất của mình.

Chủ lực của Ngân châu đang tác chiến vởi Thồ Phồn và bộ lạc Hồi Hất. Trong thành Ngân châu chi còn lại hơn một vạn thủ quản, những binh sỹ này lợi dụng địa hình thì có thể chống đỡ được vởi mười vạn đại quản trong hơn một tháng, nhung cửa thành đã bị phá. Họ không kịp công kích lại. Khi trời sáng hãn thì Khánh vương đã giết được Lý Quang Tê, chiếm được thành, hoàn toàn khống chế Ngân châu.

Thủ quân Ngân châu người chết, ké đầu hàng, còn những binh sỹ Ngân châu đang tác chiến ngoài chiến trận khi biết căn cơ đã mất. Lập tức chạy tán loạn, có một số soái binh đi đầu quân cho Hạ châu, một số người có gia quyền người thân ở trong thành Ngân Châu , hơn nữa lại chịu sự dụ dỗ của Khánh vương nên đã nhanh chóng đẩu hàng Khánh vương, Khánh vương Da Luật Thịnh vì thế đã trở thành chủ của Ngân châu.

Vì lúc này Hạ châu Lý thị đang chịu sự kìm hãm của Thổ Phồn và Hồi Hất nên tuy biết Ngân châu có biến, nhưng nhất thời không thể để ý tởi được, thêm nữa Da Luật Tam Minh đang có lòng dạ khác ờ thượng kinh, ép hoàng hậu Tiêu Xưởc nhanh chóng điều động Da Luật Hưu Ca hồi kinh, vì thế đã tạo cho Da Luật Thịnh có thêm cơ hội. Sau khi hắn chiếm lấy Ngân Châu thì lập tức cho củng cố tường thành, trùng tu lại những trạm quân dịch trọng yếu gần Ngân châu, sắp xếp lại binh lực, nắm chắc, khống chế toàn bộ Ngân Châu trong tay.

Nhưng, tuy hắn nhanh chóng dùng thủ đoạn chiếm cứ lấy Ngân châu, giết chết Lý Quang Tề, nhưng lại không dám nói rằng cái vị trí này có thể ngồi vững. Tiêu hậu Khiết Đan tuyệt đối sẽ không buông tha hắn, một khi để cho ả ta dễ dàng xuất thủ thì tất sẽ nhanh chóng tiến đến đây, diệt trừ tên phán nghịch như hắn, cho nên Da Luật Thịnh cực kì coi trọng mối gi­ao hảo vởi bộ lạc Thổ Phồn, Hồi Hột và người Khương Hoành Sơn, đồng thời gia cố thành trỊ chiêu binh mãi mã, không những cần phải ứng biến mà còn hy vọng có một ngày sẽ trở về được thượng kinh.

Cho nên hắn cần phải khòng ngừng tăng cường thực lực. điên cuồng tích lũy thực lực mởi có thể có khả năng quyết chiến vởi Tiêu hậu. Hơn một vạn tinh binh Ngân Châu quy phục hắn, làm cho hắn cảm thấy vô cùng vui mừng. Nếu như có thể tiếp tục bổ sung thực lực thì Tiêu hậu sẽ không thể dùng số binh trong một đất nưởc đang bất ổn để tác chiến vởi hắn, hắn có thể ngồi yên như Thái Sơn ờ Ngân châu.

Chủ ý đánh Thổ Phồn. Hồi Hất. người Khương Hoành Sơn gần trong gang tấc tạm thời không thể làm được, thế lực của bọn họ quá tản mát, bây giờ Da Luật Thịnh lại đang muốn ôn định củng cổ Ngân châu, căn bản không thể đông chinh tây phạt, đắc tội vởi những hàng xóm làm cho biết bao người đau đầu, cho nên hắn liền nghĩ tởi Hán quốc, một nưởc mà không còn là nưởc.

Hán quốc bây giờ giống như một chiếc lá rách trong gió, vô cùng điêu linh, nhưng con muồi cho dù có nhỏ cũng là thịt, cho nên Da Luật Thịnh đã phái một vị sứ giả đi gặp vị hoàng đế mởi lên kế nhiệm được hơn một năm của Hán quốc - Lưu Kế Viên, thẳng thắn hứa chi cần Hán quốc kết đồng minh vởi minh thì hắn sẽ đồng ý dốc hết sức trợ giúp Hán quốc, thành lập đồng minh công thủ.

Lưu Kế Viên sau khi bị Khiết Đan bỏ roi, cả ngày đều lo sợ. chi sợ Tống quốc phái quân tởi đánh. Quả đúng là như vậy. sau khi thư tuyệt gi­ao của bên Khiết Đan gửi tởi chua đến một tháng thì Tống quốc đã thật sự phái binh đến, hoàng tử trưởng Triệu Đức Chiêu đích thần thống binh, đại quân ngũ lộ đẳng đẳng sát khí, thể hiện điệu bộ quyết thắng bằng được.

Lưu Kế Nguyẻn đang trong lúc hoang mang hoảng sợ thì đột nhiên từ trên trời rơi xuống một vị đại ca nhân nghĩa như Khánh vương, giống như một cọng rom cứ trôi, cứ trôi, trôi tởi trưởc mặt người sắp bị chết chìm như hắn. Lưu Kế Nguyên vô cùng vui mừng, hắn lập rức ký kết đồng minh vởi vị nạn huynh nạn đệ này. Da Luật Thịnh cũng lập tức phái một vạn rưỡi tinh binh ngày đêm đến cứu viện Hán quốc, thực hiện lời hứa của mình.

Thực ra Khánh vương làm như vậy là vì đã nhìn thấy rõ Lưu Kế Nguyên thực lực không đủ, dưởi sự tiến công của Tống quốc căn bản không thể giữ nổi thiên hạ của hắn, Khánh vương cũng không có ý định phái binh mã của mình đi giúp hắn thủ thành, hắn chi là muốn nhân thời cơ nguy hiểm mà lôi Lưu Hế Nguyên về Ngân châu. Một khi Lưu Kế Nguyẻn đến thì binh mã của hắn cũng sẽ đi theo, đến lúc đó ỡ trong địa bàn của mình sẽ có thể dán dân nuốt gọn được tàn binh của Lưu Kế Nguyên, thực lực của mình sẽ càng lởn mạnh.

Có Lưu Kế Nguyên trong tay nói không chừng đến một lúc đó còn có thể dùng tên hoàng đế vô dụng như hắn để gi­ao dịch vởi Tống quốc. Nhưng hắn hoàn toàn không ngờ tởi Triệu Khuông Dận đột nhiên băng hà, Tổng quân như nưởc thủy triều trào lên rồi lại như nưởc thủy triều rút xuống. Hắn ngay cả mười người cũng không lấy được, đành phải ấm ức mà lui binh. Tiếp theo đó kế nhiệm hoàng để Tổng quốc lại phải một vị tiết độ sứ Hoành Sơn đến. Ngân châu của hắn lại nằm trong phạm vi của Hoành Sơn. Vị Hoành Sơn tiết độ sứ này đương nhiên là đến không có ý gì tốt đẹp.

Hơn nữa cho dù Dương Hạo không có ý đánh Ngân châu thì hắn sao có thể buông tha Dương Hạo? Đó chẳng phải là kẻ thù giết con của hắn hay sao. Nhưng nếu luận về ảnh hưởng đổi vởi người Khương Hoành Sơn thì một Khánh vương Khiết Đan mói đến như hắn làm sao bì được vởi một người dựng lên Lô châu và có quan hệ vởi người Khương hơn hai năm nhu Dương Hạo. Nếu hắn tùy tiện xuất binh, vượt qua đất của người Khương để tắn công Lô Châu thì hắn không thể yên tâm. Nhưng nếu không nhanh chóng giải quyết Lô châu cái gai trong mắt này, thì một khi Tiêu hoàng hậu xuất thủ. nhanh chóng triệu binh thảo phạt. Dương Hạo nhân thời cơ mà đánh tởi. Ngân châu sẽ bị rơi vào thế kìm kẹp bị tấn công hai bên. vì thế Da Luật Thịnh một mặt phái sứ giả đến Hán quốc để hi vọng Hán quốc sẽ xuất binh hợp lực công kích Lô Châu, một mặt triệu tập tưởng lĩnh các lộ. ngày đêm bàn bạc tìm ra các giải pháp giải quyết sự uy hiếp này.^s

Da Luật Thịnh vừa ăn đém vừa suy nghĩ vấn để nan giải trong lòng, trong lúc đang trầm tư đột nhiên có một tiêu hiệu xông vào trong, lởn tiếng bâm báo: “Khởi bâm Khánh vương, thị vệ đô ngu hầu Hán quốc Lưu Kế Nghiệp Đến rồi, đang đợi ở phòng chờ.”

Da Luật Thịnh vô cùng vui mừng, nhanh chóng đứng dậy. Hỏi: “Lưu Ke Nghiệp mang theo bao nhiêu người đến?”

Tiểu hiệu cung kỉnh nói: “Lưu Kế Nghiệp Cả chủ và tòng quân tổng cộng là mười ba người, không thấy có đại binh đi theo.”

Khánh vương nhíu mày lại. Nói: “Được rồi, Lưu Vô Địch dụng binh trưởc nay đều tất cẩn thận, đương nhiên sẽ không huênh hoang mà tởi, ta sẽ đi gặp hắn.”

Lưu Kế Nghiệp đang ngồi trong phòng, đôi mắt hơi nhắm, đang cúi đầu tính toán khi những lời từ chối sau khi gặp Khánh vương.

Hán quốc gặp nạn, Khánh vương đã khẳng khái xuất binh tương trợ, bây giờ Khánh vương có ý đánh Lô châu, mượn binh Hán quốc. Lưu Kế Viên quả thật không có lý do để từ chối, nhung khi Tống quốc xuất binh thảo phạt Hán quốc, Lưu Kế Nguyên hận không thể mặc cùng một cái khố vởi Da Luật Thịnh để thể hiện sự thân mật giữa huynh đệ họ. Nhung khi Tống quốc vừa thoái binh thì hắn liền hổi hận. Bây giờ nưởc của hắn đã không ra nưởc, binh mã trong tay có hạn, nào có thể dâng người cho Khánh vương Da Luật Thịnh phung phí?

Nhưng Khánh vương vừa mởi xuất binh trợ giúp hắn, hắn không xuất binh sẽ không tránh khỏi mất đạo nghĩa. Hai là Khánh vương trấn thủ ở đó có lợi mà không có hại vởi hắn. Nếu như Khánh vương ngồi vững ở đó, hắn sẽ có hậu sơn, nếu như Khiết Đan và Tống quốc Muốn tấn công Ngân châu, nói không chừng sẽ cầu hòa vởi hắn, đến lúc đó mình sẽ có thể mô phỏng Lô Châu, làm cao giá lên. Mọi việc đều thuận lợi.

Vì thế Lưu Kế Nguyên suy đi tính lại, cuối cùng cũng phái người đến. Chi có điểu người hắn phái đến có ít một chút, chỉ có Lưu Kế Nghiệp và mười hai người nữa. “Một ít người như thế này Khánh vương nhất định sẽ rất thất vọng, ta phải nói như thế nào mới có thể duy trì được hiệp ưởc mà không đắc tội vởi hắn đây?”

Lưu Kế Nghiệp tuy là một kẻ khéo léo. Nhưng cũng không biết làm thế nào mà chỉ cười khổ.

Lưu Kế Nghiệp nhìn dáng vẻ chỉ khoảng bốn mươi tuổi, hắn vốn họ Dương, là huynh ruột của tiết độ sứ Lân châu Dương Sùng Huấn, vì bảo vệ Hán quốc, lại được Hán chủ sủng ái. Tặng cho họ Lưu. Từ đó đổi tên thành Lưu Kế Nghiệp. Lưu Kệ Nghiệp mặt trắng, râu hơi dài, mặt thanh mày láng, rất nho nhã, nếu như không phải ông ta eo đeo kiếm, tư thế ngồi nghiêm nghị thì quả thực không ai tin ông ấy là một võ tưởng vô địch trụ cột của Hán quốc có thể một tay nắm vững được Bắc Hán chi lung chứ không đô dưởi thế lực cường mạnh của Đại Tổng.

Bên ngoài phòng vang lên một tràng cười thoải mái. Khánh vương Da Luật Thịnh bưởc bưởc lởn tởi, cười ha ha nói: “Bón vương vừa mởi gửi thư tín, không ngờ hoàng đế bệ hạ quý quốc lại nhanh chóng phái tưởng quân tởi đây vậy, bổn vương thật sụ rát vui mừng.”

Lưu Kế Nghiệp vội đứng dậy, bưởc về phía trưởc một bưởc, chắp tay thi lễ nói: “Thị vệ đô ngu hầu Hán quốc Lưu Kế Nghiệp bái kiến Khánh vương.”

Da Luật Thịnh liền bưởc tởi trưởc đỡ hắn dậy. mặt tươi cười nói: “Lưu tưởng quân, miễn lễ. Bổn vương từ lâu đã nghe nói Lưu tưởng quân quân uy hiển hách, như sấm bên tai. không ngờ hòm nay lại có duyên gặp mặt. thật là vinh hạnh quá. Ha ha ha. Lưu tưởng quân đi cả chặng đường vất vả rồi. có điều không biết hoàng đế bệ hạ quý quốc lần này phái đến bao nhiêu binh mã vậy, xin tưởng quân nói cho bôn vương biết, để bòn vương đi chuẩn bị thịt bò dê và mỹ tửu, sáng sởm ngày mai sẽ đích thân đi thưởng tam quân.”

Lưu Kế Nghiệp hơi lộ ra vẻ mặt ngại ngùng, nói: “Khánh vương, nói thật không dám giấu, lần này chi có Lưu Kế Nghiệp và hơn mười tiêu hiệu mà thôi.”

Da Luật Thịnh ngần ra. sắc mặt lập tức trầm xuống: “Chi có một tưởng quân ngài thồi sao? Bổn vương muốn quý quốc giúp sức, hợp lực để đánh Lô châu, sao lại chi có một mình tưởng quân đến. Tưởng quân tuy có danh hiệu là vô địch., nhưng lẽ nào có thể dùng sức mạnh của một tưởng mà chống chọi lại được mấy vạn đại quân sao?”

Lưu Kế Nghiệp bị Khánh vương nói như vậy, sắc mặt hơi đò lên. thần thái ngượng ngùng, hắn hít một hơi, trầm giọng hỏi: “Khánh vương mởi có được Ngân châu, mà lại lập tức muốn xuất binh thảo phạt Lô châu, mà trên đường lại đi qua bộ lạc rất đông người Khương, vô cùng nguy hiểm, tại sao lại phải gấp gáp đến vậy?”

Da Luật Thịnh tức giận nói: “Trong thư tín lẽ nào bồn vương nói chua rõ ràng sao? Nếu như bôn vương bị Lô châu và Tiêu hậu nam bắc kìm kẹp thì sao có thể thủ được Ngân châu? Phái lấy Lô châu trưởc, như vậy mởi không phái lo lắng nữa. Hoàng đế quy quốc không chịu xuất binh tương trợ, nhưng quy quốc phải biết 1′ẳng nếu như Ngân châucủa ta bị diệt vong thì Hán quốc sẽ không còn trợ giúp, dưởi sự thúc ép của đại quân Tống quốc thì chi trong khoảnh khắc sẽ bị tiêu diệt.”

Lưu Kế Nghiệp nói: “Khánh vương bởt giận, không phải là quan gia không chịu xuất binh, thực ra đại quản Tống quốc vẫn dừng lại ở biên cương mãi không chịu lui. Hán quốc ta binh lại móng, không thể rút thêm quân binh ra nữa.

Lô châu tuy chỉ là một mảnh đất một phủ lại nhận được sự ủng hộ của hai châu Lân - Phủ, hai châu Lân - Phủ tuyệt đối sẽ không để cho Khánh vương đụng đến Lô châu, nếu như hai châu Lân - Phủ nhúng tay vào thi vởi những dũng sỹ của Khánh vương cũng chưa chắc đã đoạt được ý nguyện đâu. Điều Khánh vương lo lắng chẳng qua chi là sợ Lô châu và Tiêu hậu Khiết Đan hổ ứng vởi nhau, làm khó cho Ngân Châu . Lưu mỗ phụng mệnh của quan gia đuôi đến Lô châu, là để giúp giải ưu cho Khánh vương.”

Da Luật Thịnh cười lởn nói: “Ha ha ha, chi dựa vào một mình tưởng quân thồi sao?”

Lưu Kế Nghiệp cười cười nói: “Đúng vậy. chi dựa vào một mình ta là được.”

Da Luật Thịnh mắt nhìn chẳm chẳm, giọng nặng nề hòi: “Một mình tưởng quân làm thế nào để giải cục diện nguy hiểm cho ta?”

Lưu Kế Nghiệp nói: “Ngân châu vốn chi có một vạn thủ quân, khi Khánh vương đến thì trong tay có hơn ba vạn binh có thể chiến đấu. nếu như không dùng kế thì có thể đánh hạ được Ngân châu hay không?”

Da Luật Thịnh lắc đẩu nói: “Không thể!”

Lưu Kế Nghiệp lại hỏi: “Nếu như để cho Khánh vương từ từ chuẩn bị, chuẩn bị đủ vũ khí, lại có đủ lương thảo cung ứng thì có thể đánh được Ngân châu hay không?”

Da Luật Thịnh trầm ngâm một hồi lâu. từ từ nói: “Nếu cho ta thời gi­an một năm, có lễ…có thể đánh hạ Ngân châu, chi có điểu…khi đó người của ta đã bị tổn hao một phần, chiếm được thành Ngân châu thì có tác dụng gì chứ?”

Lưu Kế Nghiệp mỉm cười, nói: “Khánh vương là anh hùng trên tháo nguyên, có khá năng về tác chiến du kỵ, vốn không thiện thuật thủ thành, một năm có thể hạ được Ngân châu đã là giỏi lắm rồi. Những năm gần đây Ngân châu tuy trinh phạt không ngừng, nhung chiến sự đa phần là ở ngoại tuyến, cho nên thực ngoại nhung hư nội phòng ngự Ngân Châu không nghiêm ngặt lắm, không phải là không thể đánh hạ. Nếu như chuẩn bị đầy đủ vũ khí tấn công thành, lại đủ lương lực cung ứng, để cho Lưu mỗ đến công thành thì chỉ cần nửa tháng, thì Ngân châu sẽ đổi chủ.”

Da Luật Thịnh hai mắt mở trùng ra. Nghiêm nghị nói: “Lưu tưởng quân có phải là đang uy hiếp bổn vương đấy không?”

Lưu Kế Nghiệp lắc đầu nói: “Cũng không phải, Lưu mỗ chi là muốn nói cùng một dạng binh lực, cùng một dạng vũ khí, nhưng do những người khác nhau chi huy điều động thì tác dụng sẽ không giống. Lưu mỗ thiện công kích thành, cảng giỏi thủ thành. Lần này quốc chủ ta tuy chỉ phải một mình ta đến nhưng là để ta hiệp trợ Khánh vương sắp xếp phòng ngự Ngân châu, xây dựng phòng tuyến vững chắc thì cho dù Khiết Đan có xuất hai mươi vạn đại quân thì cho chúng thời gi­an ba năm cũng khó có thể đánh hạ được thành Ngân châu. Chúng có thể xuất gia hai mươi vạn đại quân sao. Có thể đánh được trong ba năm sao?”

Da Luật Thịnh hai mắt sáng lên, nhìn chằm chằm vào Lưu Kế Nghiệp, trong mắt dần dần như phát ra tia sáng. Hán quốc có gì chứ? Không có lợi thế địa hình hiểm trở, lại không có thống soái uy vũ, nhưng Triệu Khuông Dận cả đời là hùng chủ. Bất kể chinh phạt một đất nưởc địa thế hiểm trở như Thục quốc hay Gi­ang Nam có Trường Gi­ang ngăn cách của Lý Dục thì đều để cho thuộc hạ làm. Nhưng duy chỉ có Hán quốc là hắn đích thân ngự giá chinh phạt. Nhưng vô số lần đến đánh mà lần nào cũng tay không trở về; tuy nói trong đó cũng có sự xuất binh tương trợ của Khiết Đan , nhưng trưởc khi Khiết Đan xuất binh thì Tống quân đã sởm bao vây Hán quốc rất lâu rồi. Nếu như thủ thành là Thục quân hoặc Đường quân thì Hán quốc sởm đã cắm cờ Tống rồi. Hán quốc quốc lực còn xa mởi bì kịp Thục Đường, sao có thể dẫn chống đỡ nổi sự công kích mà đích thân Triệu Khuông Dận dẫn đầu chứ? Vì ở đây có Lưu Kế Nghiệp.

Chương 420: Ngân châu, ta nhất định phải đánh

Bản lĩnh của Lưu Kế Nghiệp ngay cả ỡ Khiết Đan cũng vang danh lẫy lừng, lúc đầu khi Khiết Đan và Hán quốc là đồng minh, quản bộ tộc Khiết Đan cũng thường giả mạo mã tắc đến cưởp thóc gạo của Hán quốc, tuy Lưu Kế Nghiệp chỉ có lởp binh mòng nhung trong lúc gi­ao chiến lại thắng nhiêu hơn bại. Lập được nhiều kỳ công, cái danh hiệu “vô địch” của hắn là do người Khiết Đan tặng cho. Lẽ nào con người này thật sự có bản lĩnh xoay vần như vậy?

Lưu Kế Nghiệp nở một nụ cười tự tin, nói từng chữ: “Khánh vương lễ nào chưa từng nghe thấy câu…Nghìn quân đễ kiếm, nhất tưởng khó cẩu sao?”

Tiểu Lục và Thiết Ngưu bưởc vào cung Nguyệt Hoa. Thấy Tiêu hậu mặc áo trắng, ngồi yên lặng sau ngự án, dáng điệu uyển chuyển. Không mang trang sức nhưng lại vẫn toát ra vẻ hào nhoáng cao quý. Phong thái ưu nhã, dáng vẻ thưởt tha, giống như một đóa hoa bách hợp đang muốn hé nở, tĩnh lặng, trắng trẻo, ưu nhã, cao quý. Không nhiễm một hạt bụi.

“Hòm nay các ngươi có thể trở về rồi, đại quân của trẫm rất nhanh sẽ xuất binh, còn chuyện chinh phạt Ngân châu thì trẫm đã có ưởc định vởi Dương Hạo. Trẫm sẽ ra lệnh đại tưởng thống binh phối hợp vởi Lô châu, đúng thời cơ sẽ tởi.”

Tiêu Xưởc vừa thấy bọn họ liền lạnh lùng nói: “Còn chiếc hộp này các ngươi gi­ao cho Dương Hạo.”

“Vâng!”

Tiểu Lục đáp một tiếng, nhận lấy chiếc hộp từ nữ vệ, chiếc hộp đã được dán niêm phong, có điêu nó nhẹ hơn nhiều so vởi lúc đầu.

Tiêu Xưởc nhìn về phía chiếc hộp. trong mắt vô tinh lộ ra sự vui mừng, đôi mắt đó hơi cúi xuống, chợt nhìn thấy thư án ở trưởc mặt, phía dưởi chiếc chặn giấy bằng ngọc có một tờ giấy, trên tờ giấy đó là đầy những dòng chữ:

“Khi ta làm tấm sa bàn này. ta luôn nghĩ khi nhìn thấy nó Xưởc Nhi sẽ nghĩ gì? Dùng cách bí mật này căn bản nàng sẽ không phát hiện ra. Có điều, lúc đầu một bát rượu thuốc của nàng quả thật đã làm ta ăn một một bụng cay đắng, nếu không dùng cách này vạn nhất là tự ta đa tình, trong lòng Xưởc Nhi hoàn toàn không có ta thì há chăng phải là khó xử lắm sao? Nam nhân đều rất coi trọng thể diện của mình, nàng nói đúng không?

Nếu như nàng hoàn toàn chưa từng có ta trong lòng thì bức thư này cứ để nó vĩnh viễn bị khóa dưởi sa bàn vậy. Nếu như nàng vẫn còn nhớ tởi tám tình ý giữa chúng ta thì khi nàng nhìn thấy người mà ta phái đến lại chỉ để cập đến chuyện công thì nàng tất sẽ hận ta vô tình. Vởi tính cách của nàng, nhìn người nhớ vật. E là ngay cả trái tim ta nàng cũng muốn giết chết, ta nghĩ rằng nàng sẽ coi tấm sa bàn này như ta, nàng sẽ đập nát nó như đập vụn xương ta, như vậy thì lại đúng như tâm nguyện của ta rồi, nàng tất có ta trong lòng.

Vậy nàng rốt cuộc đã đọc được bức thư này chưa? Lòng nữ nhi như kim dưởi đáy biển, thật khó đoán. Nếu như nàng thật sự đọc được bức thư này rồi thì nàng nhất định đã đập vỡ tấm sa bàn, cũng chứng minh.. . Trong lòng nàng đang nhở đến tạ đúng không? Ha ha ha, lúc này toàn bộ sự tức giận đã tiêu tan rồi chứ? Chắc cũng đang nở nụ cười xấu hổ nhỉ? Nàng phải nhớ là nàng bây giờ không được dễ dàng nóng giận vô thường đâu.”

Tiêu Xưởc không nhịn được lại cười khúc khích mấy tiếng, mỹ nhân cười đúng là như hoa bách hợp nở.

“Cái đồ ba hoa…”

Lòi mắng đó do một mỹ nhân quyền cao chức trọng, luôn uy nghiêm như nàng phát ra lại làm cho người ta có một cảm giác rung động đến tận tâm can.

“Xưởc Nhi..Cái cách xưng hổ trong thư này đã xóa bỏ đi sự khác biệt về địa vị, ngoài phụ mẫu sóng thần và tỷ tỷ bình thường vẫn gọi nàng trưởc khi nàng gả đi thì không còn ai gọi nàng như thế nữa. Trong lòng Tiêu Xưởc chợt trào lên một cảm giác khác thường: “Nếu như. Ta không phải ngồi ở địa vị này. Không phải thân phận này, chỉ là một người đàn bà bình thường thì…. Không nghĩ nữa, không nghĩ nữa, tuyệt đối không thể bị cái đồ họa thủy đó mê hoặc.”

Vẻ phong tình của nữ nhân thoắt cái đã hiển hiện lên cả khuôn mặt và khóe miệng nàng.

“Những trang sức này không phải là thứ gì quý giá. Cũng không phải là đồ hoa lệ. Ta biết nàng không thích trang điểm hào hoa. Vốn cùng ít trang sức. Có điều mấy thứ trang sức nhỏ này đều rất trang nhã. Hy vọng nàng sẽ…Vì ta mà đeo chúng. Tuy ta không thể nhìn thấy nàng sau khi đeo chúng sẽ xinh đẹp như thế nào. Nhưng sau khi Tiểu Lục và Thiết Ngưu trở về ta sẽ hỏi bọn họ. Nương nương khi phải bọn họ trở về thì ăn mặc như thế nào, đeo trang sức gì, sau đó…Ta sẽ tường tương ra được.”

Tiêu Xưởc hơi nghiêng người, trong mắt lộ ra nụ cười tinh nghịch, đúng là thiên nhiên ban sắc đẹp. Tôi tai nàng như xinh đẹp như nguyên bào. Cô nho nhã như thiên nga, ngón tay thon dài như ngọc, nhưng lại không đeo chút trang sức nào. “Người bảo ta đeo là ta phải đeo sao? Dựa vào cái gì mà lại phải nghe lời ngươi?” Nàng hơi nhăn mày nhăn mũi lại. Giống như nưởc mùa thu đang gợn sóng lăn tăn….

“Cuối cùng có hai chuyện ta muốn nói vởi nàng. Thứ nhất, bức thư này là dung dịch của con mực để viết, tuy bị giấu trong sa bạn có thể bảo quản được lâu một chút, có điều sau hơn một tháng thì nó sẽ hoàn toàn biến mất. nếu như nàng chưa từng đọc nó thì vĩnh viễn cũng sẽ không đọc được nó. Ta cũng sẽ không viết lại bức thứ hai. Hai là. Có một câu trưởc đây chưa từng có cơ hội nói vởi nàng, bây giờ có thể nói vởi nàng rồi. Nàng rất xinh đẹp. Tiền thế kim sanh, trong số tất cả những mỹ nhân ta từng gặp, Xưởc Nhi. ..Nhất định là xếp thứ ba.”

“Xẹp thứ ba? Tại sao không phải là duy nhất? Làm gì có cái kiều khen người ta chỉ xếp thứ ba…. vậy hai người kia là ai?”

Đôi lông mày xinh đẹp của nàng lại nhíu lên: vấn để này e rằng vĩnh viễn sẽ bị vương vấn trong lòng của vị hoàng hậu Khiết Đan xinh đẹp thông minh nhưng cũng kiêu ngạo tự phụ này, nó không thể giải tỏa được trà khi…Có một ngày nào đó nàng ta có thể gặp lại Dương Hạo. Lấy được đáp án từ hắn.

Nàng không ngừng nhắc nhở mình: “Không nên suy nghĩ nữa, đây chỉ là quỷ kế của kẻ vô lại đó, hắn chính là muốn ta lúc nào cũng phải nhớ đến hắn, ta sẽ không mắc lừa đâu!” Nhưng nàng vẫn không kìm lòng được mà nghĩ: “Hai nữ nhân đó là ai?”

Lưu Kế Nghiệp và Khánh vương Da Luật Thịnh sau một đêm dài nói chuyện đã thay đổi chiến lược của Ngân châu, họ bắt đầu thu lại binh lực, củng cố lãnh địa thống trị hiện tại. Tích cực chuẩn bị cho chiến tranh.

Chưa có người nào biết vị thị vệ đô ngu hầu Hán quốc mấy năm gần đây được người Khiết Đan gọi là “Lưu vô địch” Lưu Kế Nghiệp đã đến Ngân châu, việc này đã được Da Luật Thịnh liệt vào những việc cơ mật nhất, chi có tưởng lĩnh tâm phúc của hắn mởi biết. Những người khác chi biết Khánh vương đi khắp nơi chiêu tập danh sỹ. Đã bái được một vị quân sư. Vị quân sư này bây giờ phụ trách toàn bộ việc bố trí quân sự của Ngân châu, tất cả các hạng mục công trình đểu đã được tiến hành dưởi sự chỉ huy của hắn…

Thành Ngân châu bắt đầu gia cố tường thành, mở rộng thành hào. Kiến thiết lại các loại công sự. Hơn một vạn binh sỹ Ngân châu đã đầu hàng Khánh vương và những tráng đinh được triệu tập từ các hộ trong Ngân châu đều ngày đêm làm việc bận rộn. Bốn phía thành Ngân châu đểu được bổ trí vũ khí phòng bị. Đội quản chính thống của Khánh vương cũng bắt đầu thao luyện cách phòng ngự thành, diễn tập những chiến pháp thủ thành mà từ bé đến lởn họ chưa từng biết tởi.

Những vũ khí phòng bị thành như quái đản, pháo, bệ bắn tên, nỏ, mày ném đá, cây lôi trù, hóa dầu đều hoàn toàn có đủ. Ngân châu dưởi sự thống trị nhiều năm của Lý thị đã tích trữ được vô số vũ khí, nhưng chúng lại chua bao giờ được dùng tởi, bây giờ tất cả đều được lôi ra từ trong kho vũ khí bụi bặm, rồi đặt ở trên tường thành của bốn phía, chi tính xe bắn nỏ lợi khí thủ thành đã nhiêu tởi hai trăm hai mươi chiếc. Có thể bắn xa tởi bảy trăm bưởc, đâu tên như mâu. Có thể đâm xuyên cơ thể người, nó không giống như những loại nỏ tiễn bình thường, một lần có thể bắn được mấy chục phát, lực sát thương vô cùng kinh khủng.

Lưu Ke Nghiệp không ngờ rẳng Ngân châu lại có tiềm lực lởn như vậy. lại nhớ tởi Hán quốc, một nưởc chỉ có hai mấy mươi huyện, xe bắn nỏ chua tởi hai mươi chiếc, thật là cảm khái vô cùng. Hắn dẫn theo hai đứa con trai đi tuần phía thành, thấy một lượng lởn thợ rèn đang chăm chỉ gia cỏ tường thành, công thành, ủng thành, mã diện, chung lâu. Cô lâu. Vọng lọng, địch lâu…, Lưu Kế Nghiệp chỉ cần chỉ một cái thì sẽ có một thợ rèn cung kính đến hỏi han ti mi rồi lập tức tu sửa lại ngay.

Trên đầu thành đang sắp xếp dạ xoa lôi, dạ xoa lỗi sau khi bố trí xong thì sẽ vứt ra ngoài thành, sau đó lại dùng xe dây xích thu lại, làm xong thử nghiệm cuối cùng thì phía dưởi thành lại đào một cống ngâm cùng hưởng vởi tường thành, cứ cách một trăm bưởc lại đặt một cái hũ lởn, úp ngược xuống và chôn một nửa xuống đất, dùng để thăm dò động tĩnh dưởi đất. Để đề phòng có đội quân địch đào đường hầm.

Bên ngoài thành đang dùng đầm đất và đá để tu sửa ủng thành, những thợ xây thợ rèn của thành Dương Mã và tráng đinh Ngân châu đang mở rộng hào hộ thành đều làm việc không ngừng nghỉ, những người phụ trách tu sửa ủng thành này lại là quân đội Ngân châu được điểu động ra để phụ trách công trình.

Quân Ngân châu vốn đều là những lão gia binh làm mưa làm gió trên chiến trường giết địch, nhưng lại không có hậu nhân. Những công việc mất sức như gánh bùn vác chùy. Tu sửa thành trưởc nay đều do họ giám sát, đốc thúc dân tráng bách tính làm. Bây giờ thì hay rồi, Khánh vương vừa đến thì họ lại trở thành phụ binh của binh Khiết Đan , do lượng công trình cực đại. dân tráng không đủ. Bọn họ cũng bị ép đi làm những công việc hạ tiện này, đám binh sỹ oán hờn khắp nơi. Cố gắng uể oải làm việc, không dựng dậy nôi tinh thần.

“Nhanh lên một chút, nhanh lên một chút, khiêng mấy tảng đá này đi.”

Vì trời nóng nên mặc không nhiều, thêm nữa vốn không có kinh nghiệm làm việc, vai lại không có vải áo dầy nên vai của mấy binh sỹ tưởng sỹ Ngân châu vi vác đá mà phồng rộp cả lên, đau đón không chịu nải. khi họ lắc lắc người nghiêng ngả khiêng đá tởi phía dưởi ủng thành thì có một sỹ binh quá thật không thể chịu được, ruột tay làm cho tảng đá rơi xuống đất. Thắt cái vỡ thành hai mảnh. Mấy tên lính Khiết Đan giám sát công trình thấy vậy liền vô cùng tức giận, xông tởi quất roi quát: “Đồ khốn, đánh trận không được, làm việc cũng không xong, đồ vô dụng các ngươi có thể làm được gì chứ?”

Binh sỹ Ngân châu bị đánh đó đã bốc hỏa, gào rít xông lên, hét lởn: “ỏng mày là hán tử xuất thần tại Hoành Sơn Lĩnh, cung mã kỵ xa nào có kém người, nào nào. Hai chúng ta cùng đọ sức. Xem xem ai là đồ vô dụng.”

Tên lính Khiết Đan đó không phòng bị. Không ngờ rằng hắn dám phần kháng lại. Thêm nữa đất bùn dưởi chân mềm nhũn, đụng phải hắn một cái đã ngã ngửa mặt lên trời, làm cho đám lính Ngân Châu đang làm việc cười hà he. Tên lính Ngân Châu bị đánh lởn tiếng chửi: “Cái lũ chó các người, nếu không phải các người dùng gi­an kẻ lừa thành Ngân châu ép đại nhân nhà ta đẩu hàng thì các ngươi bây giờ đã bị Tiêu hậu Khiết Đan đuổi cho chó mất nhà rồi lại còn dám dương oai diễu võ vởi ông mày.”

“Bịch!” Một cú đạp từ phía sau làm cho tên lính Ngân châu ngã dúi xuống đống bùn phía trưởc, bùn bắn lên tung tóe. Tên lính Ngân châu đó tức giận, bò dậy chửi bởi: “Tên cẩu nào đạp ta từ phía sau?”

Một tên giám sát Khiết Đan đứng phía trưởc, trầm mặc xuống, nghiêm trọng quát: “Khánh vương nghiêm lệnh ngày đêm làm việc, lấy tốc độ nhanh nhất để hoàn thành binh sự thủ thành, mọi người trên dưởi có ai dám không tuân mệnh, ngươi lại dám gây chuyện sao?”

Tên lính Ngân châu nhìn thấy đô giám thì tức giận đã giảm, giải thích nói: “Ta ăn cơm nhà binh là để đánh trận, những việc như thế này sao mà làm nồi? Cả một buổi sáng vác mấy trăm tảng đá cũng không để cho người ta nghỉ, có thần sắt mởi chịu nổi. Có thần sắt mởi làm được thôi.”

Tên đô giám đó cười khẩy chế giễu nói: “Đánh trận còn phái tắm trong biển máu thế mà vai mói phòng rộp lên một tý mà đã không chịu nổi. Còn muốn lên trận đánh nhau sao? Ngươi sinh ra trong thân hình của tiểu thư, đáng tiếc lại mang phận nha hoàn, liệu hồn mà làm việc đi. Nếu như dám làm loạn gây rối lòng quản ta thì lão tử sẽ chôn sống người dưởi chân úng thành này.”

Người đó còn muốn nói thêm thì một lính Ngân châu râu dài đã quát lên: “Giữ cẩn thận cái mồm thối của ngươi đấy. Đứng dậy, ngoan ngoãn làm việc đi.”

Đò giám binh Khiết Đan nhìn thấy lão râu rậm đó liền tươi cười nói: “Lý chỉ huy vẫn là người hiểu chuyện nhất, nên biết rằng những thứ này phải tu sửa xong thì Ngân châu ta mởi khó có thể bị động, mọi người cũng sẽ bởt khổ hơn. Quản tốt người của ngươi vào, đừng có gây chuyện thị phi nữa. nếu không ngay cả Lý chỉ huy bốn đô giám cũng sẽ không nể mặt đâu.”

ông râu rậm xoay người đi, tên lính Ngân Châu ở trong đống bùn không dám nói nữa, ngoãn ngoãn đứng dậy, đi theo ông râu rậm, đi chua được xa liền tức giận nói: “Đại nhân, tên Khiết Đan đó chăng qua chi là một tiêu tiêu đô giám, lại cũng dám tác oai tác quái trưởc mặt chi hưy binh mã ngài. Đây chẳng phải là…”

Hắn ta còn chưa nói hết thì lão râu rậm đó đã quay người lại, tát cho hắn một cái. Làm cho hắn lảo đảo. Hung tợn quát: “Cút! Tu sửa thành chăm chi cho ta.”

Tên lính Ngân châu đó thấy chi huy đại nhân phát hỏa, vội ôm mặt tránh đi, Lý chi huy oán trách nhìn theo lưng tên đô giám, cười lạnh rồi đi.

Cái màn này đã lọt vào mắt Lưu Diên Lang đang ở trên đẩu thành, hắn cau mày lại.

Lưu Kế Nghiệp vừa dặn dò đám thợ xong, quay đầu lại thì thấy đứa con trai đang nhìn xuống dưởi thành suy nghĩ, liền bưởc lại hỏi: “Diên Lãng, có chuyện gì thế?”

Lưu Diên Lãng quay đầu lại nhìn đám thợ, thấp giọng nói vởi Lưu Kế Nghiệp: “Cha, người Khiết Đan quá hà khắc vởi những binh lính Ngân châu mói quỵ phục, người khóe mạnh ít mà người yếu nhiều, thành trì lởn mà binh sỹ ít. lương thảo ít mà người canh giữ thì nhiêu, hào cường không cần mệnh, vũ khi không đủ. quân lương không trá. thành tất sẽ không thể giữ được. Tuy có thành cao hiểm yếu cũng sẽ phải vứt bỏ. Bây giờ thủ quân Ngân châu không thể phối hợp hòa thuận trên dưởi, nghiêm hình thưởng trọng, con lo rằng.. .cho dù cha có bố trí thành Ngân Châu thành tường đồng vách sắt. nưởc không lọt, kim không châm được thì e rằng cũng vẫn xảy ra đại họa.”

Lưu Ke Nghiệp cười khổ nói: “Điểm này ta cũng đã từng nói vởi Khánh vương rồi nhưng thuộc hạ của Khánh vương đểu có các thuộc hạ riêng, hắn vương cũng muốn kết nối lòng quân, nhung lại không thể không khoan dung vởi họ. Người Khiết Đan đổi vởi quân đầu hàng sao có thể làm được việc đối xử công bằng chứ. Khánh vương tuy đã hạ lệnh nhung người phía dưởi đểu bên ngoài giả như tuân mệnh nhưng lại ngẩm chống lại. Chúng ta còn có thể làm được gì chứ?”

Hắn vuốt vuốt chòm râu. Ngẩng đầu nhìn về phía chân trời lẩm bầm nói: “Diên Lãng cùng khòng cần phải quá lo lắng làm gì. bất kể là Tiêu hậu Khiết Đan hay là Dương Hạo Lô châu thì đều không giòi công phá thành, Ngân châu này cho dù không phái là cực thiện cực mỹ thì chúng cũng không thể muốn chiếm là chiếm được!”

“Ngân châu, ta quyết phải giành được!”

Lô châu, tiết độ bạch hổ. Dương hạo đang ngồi trên ghế thống soái, mặt đẳng đẳng sát khí, lởn tiếng nói.

Đây là lần thứ hai Dương Hạo triệu tập vãn võ trong tiết độ. lần thứ nhất là tân quan lên nhiệm, lấy thân phận tiết độ sứ để chính thức gặp mặt các quan viên Lô châu. Còn lần này lại là xác định phương hưởng của Lô châu bây giờ và điều động khiển tưởng, trù bị cho lần đại chiến đẩu tiên từ khi hắn khai nha kiến phủ.

Lý Quang sẩm và Đinh Thừa Tòng ngồi hai bên Dương Hạo. các vãn võ bá quan thì đứng phía dưởi, Dương Hạo giọng lanh lảnh, giọng đây nhân nghĩa nói: “Bôn soái phụng mệnh làm Hoành Sơn tiết độ sứ. triều đình kì vọng rất lởn vào bổn soái. Ngân châu bây giờ đã bị người Khiết Đan chiếm cứ, bất kể là Khánh vương tọa đại hay là dẫn dắt binh mã Khiết Đan thì đểu là mối họa của Lô châu, để bảo vệ an nguy của bách tính Lô châu, để dán chúng Hoành Sơn không bị Khiêt Đan thảo phạt thì Ngân châu nhất định ta phải đánh.”

“Chư vị đều biết Lô châu ta thành lập như thế nào. mảnh đất này vốn là vùng tử chiến, thành trì nhìn thì hùng ki, nhưng thực ra bốn mặt đều chịu sự công kích của địch. Hai phiên Lân châu vì sợ thế Hạ châu cho nên mởi để cho chúng ta đứng ờ đây, để cho chúng ta kết liên minh. Một khi Hạ châu thoát ra khỏi sự kìm kẹp của Thố Phồn và Hồi Hất thì tất sẽ lấy Lô châu ta. Thiết kỵ Hạ châu sởm muộn cũng sẽ đến Lô Châu. Lô châu tiến không được mà lùi cũng không xong, một tấc đất mất thì cả phủ bị diệt, nếu đoạt được Ngân châu thì nam bắc cùng một đường, thòng qua Hoành Sơn, chúng ta mởi có đất xoay chuyển, cho nên Ngân châu chúng ta nhất định phải đánh.

Hạ châu là đại địch của Lô châu, nếu như Khánh vương Ngân châu không trà thì một khi dẫn binh mã Khiêt Đan đến. từ đó đóng lại ở Ngân Châu , đến lúc đó Lô Châu tiền môn có hổ. hậu có lang, trừ khi bó giáp đầu hàng, nếu không ngay cả giấc ngủ yên lành cũng không thể có. Bây giờ đã là cơ hội cuối cùng của chúng ta, Hạ châu đang bị Thổ Phồn, Hồi Hất quấy rẩy, nội bộ Khiết Đan gây loạn không ngừng, tạm thời không thể đông tiến, tây tiến, xâm phạm lãnh thổ Tống quốc ta, liệu còn gì có thẻ nguy hiểm hơn nữa không, còn có thời khắc nào có hi vọng hơn không? Cho nên. Ngân châu chúng ta nhất định phải đánh.

Lý thị Hạ châu tọa ờ mảnh đất có năm châu: Hạ . Ngân, Tiếp, Dục. Tĩnh, mà Khánh vương Khiết Đan lại chi nắm giữ một mảnh Ngân châu. Lý thị Hạ châu nắm giữ vùng tây bắc hơn một trăm năm, Khánh vương Khiết Đan mởi đến. Chưa thể ổn định, thực lực còn ít, cho nên Ngân châu, chúng ta nhất định phải đánh.

Khánh vương Ngân châu là kẻ địch của chúng ta, Lý thị Hạ châu cảng là ké địch lởn của chúng ta. Trong ngũ châu Hạ. Ngân, Tiếp, Dục, Tĩnh thì Hạ châu chiếm giữ Sơn Tây. Ngân châu chiếm giữ Sơn Đông, tam châu Nịnh, Trụ, Tĩnh đều gần Ngân châu và xa Hạ châu. Chúng ta nếu như muốn tấn công Ngân Châu , thòng thẳng tởi Nam Bắc thì có thể sẽ ngang sức vởi Hạ châu, rất có hi vọng rằng có thể quy nạp tam châu Nịnh, Trụ, Tĩnh về dưởi trưởng, yếu cho Hạ châu mà lợi cho Lô châu, cho nên. Ngân châu ta nhất định phải đánh.”

Những lời này không những bây giờ phải nói mà sau này còn phải nói vởi triều đình. Triệu Quang Nghĩa rất không thích gì Dương Hạo. Nhưng vởi chú của Hạ châu Lý Quang Duệ hắn cảng không thích. Triệu Quang nghĩa sởm muộn gì cũng sẽ xuất binh tấn công tây bắc. Nạp tất cả nơi này về dưởi sự thống trị của triều đình. Nếu như nghe thấy Dương Hạo hắn đến tây bắc lại không nhất khí cùng tam đại phiên Hạ châu. Lân châu, Phủ châu hiệp lực đổi đáng lại triêu đình, ngược lại còn làm phán từ bên trong, không tự lượng sức mình mà chạy đi cưởp địa bân của Hạ châu thì hắn nhất định sẽ rất vui mừng đắc V, ngồi yên mà nhìn hổ sói quản nhau ở tây bắc, cho đến khi cả tứ phiên đều đại bại.

Đinh Thừa Tông trầm giọng nói: “Chư vị. Hạ châu chính là ồ lang sói, để có thể làm vua của bày lang sói mà giữa chư bộ của chúng không ngừng chinh phạt, nhưng hai phiên Chiết - Dương nếu như có ý vởi Hạ châu, họ sẽ hợp lực nhất trí cùng đối phó.

Nhưng đại nhân nhà ta thì không giống như thế, đại nhân nhà ta vừa nhận được sự ủng hộ của hai phiên Chiết - Dương, lại có được mối quan hệ tốt vởi thất thị Đảng Hạng, tộc người mà luôn bất hòa vởi Hạ châu, duy chi có đại nhân nhà ta hung binh mởi có thể nhất hổ bách ứng, đọ sức lực vởi Hạ châu. Mọi người cũng biết Lô châu ta lúc sơ lập, địa vực chi là ờ Lô Châu, quân dán chua tởi sáu trăm, thế tại sao hai phiên Chiết - Dương lại đích thân đến chúc mừng khi đại nhân ta khai nha lập phủ, kết nghĩa kim lan? Nguyên nhân chính là ở đây.”

Đám tưởng lĩnh đểu đang được cổ vũ tinh thẩn. Dương Hạo miệng luôn nhắc đến chủ thượng, quan gia, đó chẳng qua chỉ là xé da hổ làm đại cờ. lấy một cái cở xuất binh hợp lí mà thôi. Những người đang ngồi ở trong đây ai mà chẳng biết hai năm nay Lô châu chống chọi phát triển ở đây mục đích là gì. Bây giờ Tổng lập quốc chưa lâu. lại thường niên chinh phạt. Từ Bắc quốc nhìn xuống, nhất thời sẽ không có cở gì để động binh, nên tuyệt đổi sẽ không dụngb inh vởi Tây Bắc khi trên danh nghĩa nó vẫn chưa thuần phục Tống, vì thế phái kéo cái lí do đó vẻ phía liên quan tởi Khiết Đan . Mà Tiêu hậu Khiết Đan nắm quyền lực không lâu. nội chính chưa ổn định, đấu đá không ngừng, lại chịu sự kiềm chế của Tống quốc, nhất thời cũng không thể tây tiến. Còn Thổ Phồn, chư Khương, Hồi Hất đang chia năm sè bày giống như một chậu cát tản mát. Nếu như đại soái có thể triệt tiêu Lý thị Hạ châu, làm lung lay địa vụ làm chủ chư Khương của họ thì tây bắc sẽ hỗn tạp. bộ lạc lởn nhỏ sẽ coi hắn như là kẻ địch, chi bằng nói là một bữa tiệc thì càng thích hợp, một khi tiêu hóa hết bọn chúng, Lô châu sẽ ỡ cục diện như thế nào thì chi cần nghĩ cũng biết.

Đinh Thừa Tông liếm liếm môi, ánh mắt bừng lửa. nói:” nếu như tiết soái đại nhân nhà ta nối liền được hai châu Lô - Ngân, lại lấy thêm được tứ châu Hạ. Tiếp. Tĩnh. Dục lại cộng thêm sự hợp lực của thất thị Đảng Hàng, tây thì cưởp được kiện mã Thổ Phồn, bắc thì thu được tinh binh Hồi Hất. Đông thì đoạt được dũng sỹ chư Khương Hoành Sơn, vậy thì đến lúc đó…há ha!”

Hắn không nói thêm gì nữa. đến lúc đó sẽ như thế nào ư? Đi về phía tây? Tởi nơi sa mạc nghìn dặm không có người sống sao? E là sẽ chi có tên nào trong đầu không não mởi chịu đi cùng Dương đại soái du ngoạn tởi nơi đó mà thồi, nhung Dương đại soái e là cũng không có cái hứng đó. khả năng duy nhất chinh là đánh thẳng về phía nam, đoạt lấy Trung Nguyên phồn hoa. đến cái mánh đất nhộn nhịp nhất, văn minh nhất đó. Dă tâm của đám tưởng lĩnh đều bị hắn làm cho lay động, tất cả đểu sáng cả mắt lên. sát khí đẳng đẳng.

Dương Hạo nói: “Cho nên. Ngân châu ta nhất định phải đánh, hơn nữa nhất định phải đánh thắng. Nếu như chúng ta ngay cả một Ngân châu cũng không đánh được thì đừng bao giờ nói đến cái gì mà hùng tâm tráng chí nữa. Mọi người chi bằng bây giờ về thu dọn đồ rồi chạy di tản đi các hưởng đi, bồn soái cũng mang theo ít vàng bạc, dẫn theo mỹ thê mỹ thiết, treo ấn phong quan, thay tên đôi họ. chu du thiên hạ. tìm một nơi nào đó để hưởng lạc. mọi người thấy thế nào?”. Tất cả đểu đồng thanh nói: “Đánh Ngân châu, nhất định phái lấy được Ngân châu!”

Đám tưởng đều đồng thanh hổ lên. mặt Dương Hạo lộ ra một nụ cười, hắn giơ cao hai tay lên. từ từ vẫy vẫy xuống, trong phòng lập tức yên tĩnh lại: “Binh gia có câu. biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Sau đây Đinh tư mã sẽ giởi thiệu cho mọi người một chút về tình hình thực lực của ta và Ngân châu hiện nay. Binh mã chua động, thì lương thực cần phải chuẩn bị đẩy đủ, những chuẩn bị liên quan đến lượng mạt. xe cộ, quân giởi cũng sẽ do Đinh đại nhân giởi thiệu ti mi tởi mọi người. Đinh tư mã, mời.”

Hành quân tư mã chính là tham mưu trưởng, là một nhân vật có thực quyển trong quản, Đinh Thùa Tông chắp tay đáp lời vởi Dương Hạo. Rồi hắn từ từ đây bánh xe lên trưởc, thần thái ung dung, rất có phong thái của chư cát võ hầu.

“Tây bắc dán phong thượng võ. Nơi sản sinh ra ngựa, muốn xây dựng đại quân vừa không thiếu nguồn binh, lại cũng không thiếu nguồn mã, nhưng địa vực Lô châu ta nhỏ hẹp. Lấy công thương làm gốc, nông nghiệp chăn nuôi thiếu thốn, chịu hạn chế về những mặt này. Khi vừa mởi bắt đầu đã là đi trên con đường tinh binh, bây giờ Lô châu ta tổng cộng có một vạn tinh binh.”

Hắn nói đến đây liền mỉm cười nói: “Dựa vào binh lực này thì nếu như dã chiến, vởi đội quân tinh luyện và trang bị vũ khí đầy đủ của chúng ta thì chưa chắc đã không thể chiến thắng. Nhưng cứ địa của địch hiểm yếu. muốn mưu đoạt Ngân châu thì chua thể. huống hồ quân của chúng ta lại ít diễn tập cách công thành, có điều…chư vị không cần phải lo lắng, đây chính là thứ mà người ta gọi là đắc đạo đa trợ. Tiết soái chúng ta động binh vởi Ngân châu, trưởc đây tuy chi có một vạn. Nhưng đến lúc đó tất sẽ triệu tập được mười vạn. ít nhất cũng là mười vạn quân. Vì đây là chuyện đề cập đến đại cơ mật nội bộ, lúc này không tiện lan rộng ra ngoài^ trong lòng chư vị tưởng quân tự định liệu là được rồi cho nên về mặt binh lực thì không cần phải lo lắng.”

Chúng tưởng thẩm nghĩ: “E là không phải liên minh vởi hai nhà Chiết - Dương mà chính là mượn binh của bộ lạc Dã Lợi Thị hoặc là bộ lạc Á Lũng Giác, nhưng…đại quân chín vạn sao. Nếu như hai nhà Chiết - Dương, công thêm bộ lạc Dã Lợi Thị. Á Lũng Giác lại, xuất chín vạn binh, hình như có gì đó không ổn, bổn phía lại không thái bình, họ lại dám đưa mình vào nguy hiểm thế sao, sao có thể tương trợ như vậy được?”

Chúng tưởng trong lòng tuy có nghi ngờ. nhưng chi là nghi hoặc đám binh mã này từ đâu mà có, chứ không ai nghi ngờ những lời nói của Đinh Thừa Tông. Đây không phải là nói cho đối thủ nghe, rõ ràng là chi có hai mươi vạn đại quân cũng có thể nói khoác lên thành tám mươi vạn đại quân để gây hiệu quả uy hiếp, nhưng đổi vởi người của minh thi chăng có lí gì phải nói xằng ngôn như vậy. Nếu như tám vạn quản nói thành mười vạn thì còn được, chứ một vạn quân bất luận thế nào cũng không thể biến thành mười vạn đại quân được, ai cũng đừng hòng giấu được.

Đinh Thừa Tông nói: “về mặt binh lực thì khòng thành vấn đề. Còn phía lương thảo và vũ khí trang bị thì cần phải lập tức chuẩn bị. Công kích Ngân châu tuyệt đối không phải là chuyện sởm tối đã giành được kết quả. mà tiêu hao tuyệt đối sẽ không nhò. Lương thực, trang phục, vật dụng, vũ khí, chiêng tròng nhạc khí đã phái người đi khắp nơi thu mua, ngày ngày sẽ được vận chuyển không ngừng vào Lô Châu. Đao riu. thương mâu, cung huyền, nỏ tiễn, trưởng trại, thợ của Lô châu ta đang ngày đêm chế tác. đông thời để tiết kiệm tiêu hao vận chuyển lương thực, hơn nữa những tưởng sỹ phục vụ quên mình thể lực tiêu hao rất lởn, cho nên ta đang thu mua lượng lởn bò dê từ thất thị bộ lạc Đảng Hạng chở về theo xe quân, tích trà thịt.

Còn về chiến mã thì chỉ ăn có xanh tất khí lực sẽ suy yếu, khó có thể rong ruổi lâu. Đặc biệt là những bảo mã ăn lượng lởn thức ăn mà chúng ta thu mua về lại cần phải chăm sóc bồi dưỡng ti mi, thêm nữa tiêu hao lương thực của ngựa lại nhiều hơn là sỹ tốt. cho dù chi là một vạn chiến mã thì tiêu hao phi đã cực lớn rồi, may mà lẩn này là công thành, mười vạn đại quân cùng công thành, lựa chọn tốt nhất của Khánh vương chính là cứ thành tự thủ. cơ hội chủ động xuất thành trực chiến là không lởn. vì thế bọn tư mã và tiết soái đã bàn bạc, trận chiến này lấy bộ tốt làm chủ. Chỉ cần mang theo một chi kỵ binh trọng giáp, một là để có thể cho họ rèn luyện trong thực chiến, hai là có thể gây là hiệu quả làm run sợ trong lòng quân địch.”

Ưu điểm lởn nhất của khinh kỵ binh chính là độ, có thể chạy đường dài. thu hiệu quả của đội quân đánh úp. Nhung khinh kỵ binh lại cần phải dùng cẩn thận, vì một khi mà bọn họ chấp hành nhiệm vụ đặc thù xa vởi trận chiến thì có nghĩa là cẩn phái vứt bỏ bánh xe nặng, rời xa đại đội. Một khi không thể thu được hiệu quả đánh úp, vừa không có viện quân lại không có hậu cẩn thì không thể nhanh chóng thoát khỏi chiến trường, hậu quả chi nghĩ cũng biết. Mà trong trận đánh này chủ yếu là công kích thành trì, rất ít khả năng xuất hiện hai bên điều binh khiển tưởng, trong phương diện đánh vòng quanh đánh bọc sườn, tập kích bất ngờ trên vùng băng phăng và vởi sự phối hợp các loại quân thì họ sẽ không được liệt vào phạm vi phải lo lắng.

Đinh Thừa Tòng lại nói: “Trận chiến này lấy công thành làm chủ. Chúng ta không thiện công thành, nhưng Ngân Châu cũng không thiện thủ thành, chúng ta có những người thợ tốt nhất, có thể chế tác ra lượng lởn các vũ khí tuyệt diệu để công thành. Thêm nữa là ưu thế binh lực, phần thắng của chúng ta ít nhất chiếm đến bày phẩn. Có điểu việc vận chuyển lượng lởn lương thực và vũ khí công thành tất sẽ làm cho quân hành của chúng ta chậm lại. Đây cũng là lí do tại sao chúng ta không cần lượng lởn chiến mã. bộ tốt chi cần đi theo xe lừa. Ngựa, vì vậy cần phải sởm lên đường, để tiện chuẩn bị kịp thời hội hợp vởi liên quân.”

Số lượng người phi chiến đấu đi theo quản đội ở các vùng không giống nhau. Ví dụ như ở quân đội Ba Tư thì một người đi cẩn có bảy quàn nô, quân đội Hi Lạp thì bình thường một trọng bộ binh chi cần có một quân nô, quân đội La Mã cũng có lượng lởn quân nô, kỵ sỹ châu âu còn có nô bộc chuyên môn vác áo giáp, mũ chiến…, rất nhiều nơi còn mang theo tiểu thương, quân kỹ. có điều bình thường mà nói những người phi chiến đẩu theo quân cảng nhiều thì tiêu hao cảng lởn. tính cơ động của quân đội cảng kém, lực chiến đấu cũng cảng bị ảnh hưởng. Mà ở Trung Quốc cổ đại quân đội cơ bản không có nhân viên phi chiến đấu, một số tạp vụ đa phần do sỹ binh hoàn thành. Lô Châu một là không thể điều động nhiêu dán dịch đến vậy, hai là cũng đã suy nghĩ đến trong chiến tranh công phá thành trì hao phí đã cực đại. Cho nên việc vận chuyển lương thảo và vũ khí phá thành trực tiếp sẽ do đám binh sỹ tự làm.

Đinh Thừa Tông giởi thiệu rất rõ ràng, đâu ra đấy tình hình của Lô châu, lại nói: “Phía Ngân châu chúng ta sởm đã có sắp xép mật thám ngầm, nhưng Ngân châu đột nhiên bị Khánh vương Khiết Đan chiếm lấy, bây giờ ngay cả quân đô Ngân châu đã quy thuận Khánh vương cũng bị bắt đi làm tạp dịch, những quân cờ mà chúng ta đã sắp xếp vào đó cũng đã mất đi tác dụng, bây giờ đã không có cách nào liên hệ vởi bọn họ. cũng không có cách nào biết được tình hình gần đây của Ngân châu. Chúng ta chỉ có thể biết được một chút tình hình từ chỗ những nạn dân tháo chạy mấy ngày nay. chúng ta chi có thể hiểu đại khái một chút tình hình binh lực và bố trí của Ngân châu.

Đinh Thừa Tòng nói rõ ràng từng chuyện, Dương Hạo ấn bàn đứng dậy: “Từ bây giờ binh mã các bộ phái nắm vững thao luyện, phó sứ tiết độ bản tưởng sẽ để lại thủ trấn Lô châu, tri tiết độ sứ. Hành quân tư mã Đinh Thừa Tông sẽ trợ giúp. Ngày mùng bảy tháng bảy bổn tưởng soái sẽ đích thân thống soái đại quân đi lấy Ngân châu.”

Chương 421: Thất tịch

Trong động đinh Thái Hoa sơn, ánh trăng nhàn nhạt chiểu nghiêng vào bên trong, hình thành một cột sáng lành lạnh.

Tiêu Diêu Tử đầu quấn khăn, người mặc đạo bào màu trắng, nằm nghiêng trên tảng đá, gối đầu lên tay. lông mi dài cụp xuống, thở rất nhẹ, rất nhẹ, nếu không nhìn, lắng nghe cẩn thận thì quả thực làm cho người ta tưởng hắn đã không còn thở nữa.

Đối diện là một cô nương trẻ tuổi đầu cũng quấn khăn giống Tiêu Diêu, mặc một chiếc áo màu trắng, trên vạt áo có thểu hoa, chiếc váy phía dưới cũng là mày trắng của ánh trăng, dáng vẻ như đang học Trân Đoàn, khuôn mặt trắng nõn nà. hơi nhắm hai mắt lại, trong hơi thở lộ ra vẻ đáng yêu.

Đột nhiên, nàng ta động mi mắt mấy cái, hơi mở ra, nhìn về phía Tiêu Diêu Tử. Trần Đoàn thở lại như thường, bình ôn ung dung, tiểu đạo đồng lè lè lưỡi, sau đó nhanh chóng đứng dậy. đôi chân nhò trắng muốt lặng lẽ đút vào trong đôi giầy dưới đất.

“ừm, khụ khụ!” Trẳn Đoàn đột nhiên ho mấy tiếng. Đạo đồng nhanh chóng nắm xuống, nhắm hai mắt lại. chi còn mỗi đôi chân là chưa kịp phục hồi nguyên trạng, một chán thì buông xuống, một chân thì co lên, một tay thì lại đặt ở trên đầu gối. Dù sao thì đạo pháp của Trần Đoàn cũng coi trọng tùy theo tự nhiên, không yêu cẩu một tư thế nghiêm quy nhất định, như thế này cũng không sao.

Nín thở hồi lâu, tiểu đạo đồng lại một lần nữa mở mắt ra, thì nhìn thấy Trần Đoàn đã lật người lại. quay mặt về phía tường mà ngủ. cô gái nhó không khỏi vui mừng vỗ vỗ ngực. Lại bò dậy. Cẩn thận đi giày vào. giống như một con khỉ con đang ăn trộm đồ. lén lút chuồn ra khỏi động, ra đến bên ngoài cô gái nhỏ đứng trên bậc đá xanh nhìn lên mặt trăng bàng bạc. Tiêu đạo đông cười tinh nghịch, rồi đột nhiên chạy như bay xuống núi.

Đến được nửa sườn núi, tiểu đạo đồng đến một ngôi nhà đá ở bên cạnh đạo quan, tiểu đạo đồng đẩy cửa vào, lớn tiếng gọi: “Mẹ.”

Mã đại tầy mở cửa phòng, vui mừng nói: “Cẩu Nhi, sư phụ đã thà cho con xuống núi rồi

à?”

Tiểu đồng chóp chóp mắt, ngoan ngoãn nói: “Vâng, ngày mai là đêm thất tịch, sư phụ nói hai ngày này Câu Nhi không cẩn phái luyện tập vất vả, nên có thể về nhà một chuyến.”

Mã đại tẩu liền nói: “Vào đi. vào đi.” Rồi bà kéo tay đứa con gái. thương tiếc nói: “ỏi, còn nói là không vất vả sao. chẳng phải là muộn như thế này mới về à. Hai ngày nay nữ khác vào miếu quan âm dâng hương chào bản trái cây. trong nhà còn thùa một số nhãn, táo đò. nha đẩu con thèm thì mau đi ăn thử đi.”

Cẩu Nhi đáp một tiếng. Mã đại tẩu liền vui vẻ đi lấy chiếc rổ trái cây treo trên tường xuống. Cẩu Nhi liền chạy tới cửa sổ. Lấy một chiếc lộ nhò từ chồ đống chum vại ra, quan sát ti mi, rồi tủm tỉm cười, nhảy nhót nói: “Mẹ ơi. mẹ ơi. Mẹ mau đến đây xem. Bắt đầu kết mạng rồi này.”

Khi đến Thất Tịch, dân chúng các vùng khác nhau đều có những cách chúc mừng khác nhau. Cách này của câu Nhi chính là đặt một con nhện vào trong lọ. đợi đến đêm thất tịch thì từ hình dạng của kết mạng tơ của nó mà phán đoán ra là cát lợi hay không, mắt thấy còn nhện đó đang bận rộn chăng tơ. Cẩu Nhi thật sự rất vui mừng.

Mã đại tẩu không nhịn nổi mà cười nói: “Còn phải cần con nói sao. mẹ đã nhìn thấy rồi, nhìn con vui mừng kìa. Mới chưa tới mười tuổi mà đã vội vàng cái gì. Nào. Thử loại táo này xem, giòn lắm đấy.”

Cẩu Nhi Cẩm lấy quả táo, đút luôn vào trong mồm, kháng nghị lờ mờ nói: “Không phải, Câu nhi đã mười một tuổi rồi.”

Mã đại tẩu nói: “Ai bảo mười một. con gái của ta mà ta không biết sao?”

Cẩu Nhi không phục nói: “Con sinh vào chính nguyệt. Giờ cũng gần tới mười một tuổi rồi.”

Mã đại tẩu dở khóc dở cười, lắc đầu nói: “Được được được rồi. Con nói là mười một thì là mười một. Được chưa.”

Lúc này. Từ cánh cửa vang lên mấy tiếng, bên ngoài của có một giọng nói lanh lánh kêu lên: “Mã đại tẩu.”

“A. Là Tú Nhi tỷ tỷ.”

Cẩu Nhi chạy vọt tới của, đẩy cửa ra. mày mày hớn hở nói: “Tú Nhi tỷ tỷ.”

Tú Nhi thấy cô gái nhỏ đang ở trong phòng liền vui vẻ thi lễ nói: “Tú nhi tham kiến tiểu sư thúc tổ.”

“ỏi trời, không phải đã nói là khi gặp riêng thì không cần phải gọi như thế sao.” cẩu Nhi tươi cười kéo nàng ta vào nhà. thấy nàng ta đang ôm một thứ gì đó trong lòng, liền tò mò hỏi: “Đây là cái gì vậy?”

Tú Nhi cười nói: “Đây là ma­hor­aga, đây là quà ta tặng cho tiểu sư thúc tổ.”

Q

Ma­hor­aga là đồ chơi dành cho những cô bé trong ngày lễ Thất Tịch, là một búp bẻ bằng đất mặc Y phục lá sen, tay cầm lá sen, mỉm cười. Ma­hor­aga lớn nhất cao khoảng ba thước nhỏ thì khoảng bằng lòng bàn tay. đôi ma­hor­aga mà Tú Nhi tặng cho cẩu Nhi cao khoảng một thước, tròng rất đáng yêu. cẩu Nhi tuy ngày ngày đều mong mình lớn thật nhanh, nhung rốt cuộc vẫn mang trong mình một trái tim đứa trẻ, vừa nhìn thấy thứ đô chơi này lặp tức đã yêu thích vô cùng.

Mã đại tẩu nói: “Đặng cô nương, đôi ma­hor­aga này chắc không ít tiền, để cho cô nương tốn kém rồi.”

Đặng Tú Nhi mỉm cười nói: “Đại tẩu không cần khách sáo. ở trên ngọn núi này Tú Nhi chi có mỗi mình tiểu sư thúc tổ làm bạn, ngày Thất Tịch đến. tặng một món quà nhỏ có đáng là gì.”

Căn nhà này của Mã đại tẩu cũng không phải là lớn. Ngay cả ghế cũng chỉ có một cái. Câu Nhi lưu luyến nhìn đôi ma­hor­aga một hồi. Rồi xách chiếc giỏ lên. nói với Tú Nhi: “Tú Nhi tỷ tỷ, trong phòng hơi ngột ngạt, chúng ta ra sân ngồi ăn táo nói chuyện đi.”

“Được.” Tú Nhi vui vẻ trả lời, chào một tiếng với Mã đại tẩy, rồi đi theo cẩu Nhi ra sân, tìm một tàng đá sạch rồi ngồi xuống.

Bầu trời đêm lấp lánh ánh sao. Đêm hạ thu trong lành, một làn ánh sáng mờ ảo chiếu xuống dòng sông huyền ảo. Mọi thứ hai bên bờ như được thay một chiếc áo màu bạc mới. Hai cô gái nhỏ ngồi chống cằm ngắm nhìn bầu trời xinh đẹp. Bất giác ngẩn ra.

“Thời gi­an trôi qua thật nhanh, ngày mai đã là Thất Tịch rồi.” Để Tú Nhi thở dài một tiếng.

Cẩu Nhi buông hai tay xuống, cũng thờ dài nói: “Muội lại thấy thời gi­an trôi thật chậm.

lâu như vậy rồi mà mới qua một ngày Thất Tịch, cũng không biết phải bao lâu nữa mới lớn.”

Đặng Tú Nhi đang nghĩ tới cảnh tượng lúc cùng người nhà đón Thắt Tịch, trong lòng đầy thể lương thì lại bị câu nói của câu Nhi làm cho bật cười, nói: “Tiêu sư thúc tô căn cốt cực gi­ai, là kì tài võ học. nếu không tổ sư gia bây giờ tổ sư gia cũng sẽ không để tâm đến việc võ công của tiêu sư thúc tô đã tiên cảnh, nhưng về võ công thì tiêu sư thúc tổ có thể một ngày tiến bộ lên rất nhiều, sao lại phải canh cánh chuyện tuổi tác chứ? cẩn phải biết rằng trẻ con cũng có cái vui của trẻ con. một khi lớn rồi muốn trờ lại cũng không thể được.”

Cẩu Nhi có chút xấu hổ. nhưng tâm sự trong lòng nó lại không thể nói cho người khác nghe, chi nói: “Đã bảo rồi mà, khi gặp riêng thì Tú Nhi tỷ tỷ chỉ gọi tên muội là được, không cần phải lúc nào cũng tiêu sư thúc tổ đâu.”

Đặng Tú nhi cười nói: “Lễ tiết khòng thể bò, nếu không sư phụ ta biết được sẽ trách tội ta, hơn nữa, ta còn nhờ tiểu sư thúc tổ chi điểm cho kiểm nghệ, chi dựa vào điểm này cũng đã không thể có nửa phần bất kinh rồi.”

Cẩu Nhi cười nói: “Nếu như tính toán như vậy thì muội còn phải gọi tỷ một tiếng sư phụ ý chứ. Muội tuy dạy tỷ kiếm thuật nhưng không phải là còn học thi từ ca phú, thêu thùa từ tỷ sao?”

Đặng Tú Nhi lắc đầu thở dài. lờ mờ nói: “Thi từ ca phú, thểu thùa thì có ích gì cơ chứ?” Nàng nhìn về vâng trằng phía chân trời sâu thẳm, cúi đầu nói: “Lại là một đêm Thất Tịch. Nhở lẩn trước cùng người nhà đón Thất Tịch, hình như đã là chuyện của rất lâu về trước rồi, ánh trằng lúc đó cũng sáng văng vặc như đểm nay, nhưng người lúc đó đã xa ta mãi mãi. xa tận chân trời.”

Lần này, thiếu nữ nhỏ tuổi vốn không biết mùi vị của buồn tủi cẩu nhi lại gật gật đầu, tán đông nói: “Đúng vậy. Lần trước ngắm trăng cứ như mới là chuyện của hôm qua. Ánh trăng lúc đó cũng sáng giống như đêm nay, nhưng người lúc đó đã cách xa ta.”

Cô gái nhỏ vẫn còn nhỏ khi đó cơ thể bé nhó gẩỵ gò của mình được đại thúc bế. ngực của đại thúc rất rộng rất rộng, cánh tay rất có lực, ghé vào trong lòng đại thúc lại cảm thấy như thể đó là nơi an toàn nhất trên trái đất này. Lẽ nào không phải sao? Khi nó bị người ta bỏ rơi trên thảo nguyên hoang vắng, hai bên là đại quân hung hăng, họ chỉ cần xông tới là trong khoảnh khắc đã có thể dẫm nát nó thành bùn. Trên trời là ánh mặt trời chói lóa, nó ngay cả bò dậy cũng không dám, lúc đó chính là đại thúc đã đột nhiên xuất hiện trước mặt nó. Mặt trời chói lóa không có chỗ trốn, đại quân sát khí đẳng đằng cũng không thể bằng được với một tiếng hét của đại thúc. Khi được đại thúc bế lên, trái tim bất lực của nó thoắt cái đã tìm được điểm tựa.

Đêm đó. trằng cũng tròn như đêm nay. Đại thúc đã nói với nó. ớ phía đông vùng đất rộng lớn có một thành trì không có đêm. ớ đó cho dù là buổi tối nó cũng sẽ không thấy cô đơn. Đêm đó, dưới ánh trăng, đại thúc còn đặt cho nó một cái tên, Mã Diệc.

Ánh trăng chiếu vào khuôn mặt họ. Một người chìm trong sự thể lương, một người lại đầy hy vọng trong cõi lòng.

Đặng Tú Nhi thầm cầu khẩn: “Mùng bảy tháng bày. Bái Thất tỷ, Thất tỷ có linh, nhìn thấu lòng hiếu nghía thành tâm của ta. Ban cho ta sự ngộ tính và căn cốt giống như tiểu sư thúc để ta sớm có thể học thành võ nghệ, xuống núi trá thù cho người cha bị hại và người mẹ đã tự tử của ta.”

Cẩu Nhi chởp chởp đôi mắt to đen như bảo thạch, cũng nhìn về phía những ngôi sao đang lấp lánh trên bầu trời rồi ngây thơ nghĩ ngợi: “Thất tỷ thật là bi thảm, tỷ ấy có một người mẹ lúc nào cùng cho là mình tốt với con gái, không cho phép tỷ ấy thành thân với người phàm, một năm chi có thể gặp mặt nhau một lân. Nhưng ta còn thám hơn Thất tỷ nhiều, sư phụ gia gia của ta và vương mẫu nương nương đáng ghét giống nhau, thực ra chi Cẩn để cho ta một năm gặp đại thúc một lẩn cũng đủ rồi, thế mà ông ấy không chịu. Nói cái gì mà chỉ có ta mới có thể kế thừa được y bát của ông ấy, nhưng điều ta muốn chi là có thể ớ bên c đại thúc mà thôi, như vậy mới vui. Thắt tỷ tỷ tấm lòng lương thiện nhất định sẽ đồng cảm với Cẩu Nhi, mong Thất tỷ phù hộ. Sớm để ta có thể gặp được Dương Hạo đại thúc, cho dù giống Thất tỷ, mỗi năm chi gặp một lẩn.”

“Một năm gặp một lần? Ha ha ha.”

Dương Hạo ngẩng cổ lên cười: “Ngọc Đình, đừng nghe tứ tẩu nói cản, đó đểu là thẩn tiên trên trời lừa gạt đám phàm phu tục tử chúng ta đó thôi.”

Trong sân có rất nhiều người, ngoài Đông Nhi. Diễm Diễm. Oa Oa, Diệu Diệu và Đinh Thừa Tông, Đinh Ngọc Lạc còn có mấy người thiếp của Đinh Thừa Nghiệp và thứ nữ Ngọc Đình của hắn. Đám người Hạnh Nhi và Tiêu Nguyên đang bận rộn với công việc chuẩn bị hoa quả. tiệc rượu trong đình viện để cả nhà cùng cúng tế nhị tinh Ngưu - Nữ.

Vốn tối ngày mai mới là ngày chính thức tế lễ. Nhưng sáng sớm ngày mai Dương Hạo phải xuất binh chinh phạt. Thất Tịch không chi là ngày lễ tình nhân, mà còn là ngày lễ tình thân, đây là một ngày trọng đại của cả gia đình, cho nên cả nhà đã bàn bạc, chuyển ngày tế lễ sang tối nay. Dù sao đã qua nửa đêm. Lúc này cũng coi như là đã đến Thất Tịch rồi.

Ngọc Đình tuổi còn nhỏ. nên mới qua giờ tý mà đã cảm thấy buồn ngủ, Diệu Diệu liền kéo nó lại gân, kể cho nó nghe câu chuyện Ngưu Lang - Chức Nữ. làm cho nó ngẩn ngơ ra. Đúng lúc Dương Hạo ý rượu đang lên liền không nhịn nổi mà cười lớn.

Diệu Diệu không phục nói: “Các cụ đã tương truyền từ xưa, vốn cũng kể như vậy, thiếp nói có gì là không đúng chứ?”

Dương Hạo nhịn cười nói: “Bắc câu Hi Thước. Thiên Hà tương hội. Đúng không?”

“Đúng thế.”

“Bao lâu một lẩn?” “Một năm một lẩn.”

“Vậy thì đúng rồi.” Dương Hạo làm ra vẻ nghiêm trang nói: “Một ngày trên trời bẳng một năm ở dưới đất. chúng ta ờ đây một năm có một ngày Thất Tịch, thế chẳng phải là trên trời ngày nào cũng gặp mặt nhau hay sao?”

Ngọc Đình như tỉnh ngộ. ngây thơ nói: “Wa. Nghĩ kỹ lại thì đúng là như vậy. nhị ca quả thật là lợi hại, ngay là quỷ kế của thần tiên cũng đoán ra.”

Lời nói ngây ngô của đứa trẻ này không những làm cho đám nữ tử đều bật cười mà ngay cả Đinh Thừa Tông cũng không nhịn nôi mà lộ ra một nụ cười trên khuôn mặt vốn lúc nào cũng nghiêm nghị.

Đòng Nhi sắng giọng nói: “Rõ ràng đang là một đêm tốt lành lại bị chàng nói một câu làm cho mất hết cả ý vị. thật là…đám tỷ muội không cần phải để ý đến chàng ấy. Giờ tý đã qua rồi. chúng ta cùng bái nguyệt cầu may thôi.”

Đám nữ tử đều đồng thanh đáp lời, rồi quay mặt về phía ánh trằng đang sáng tỏ, tiến tới chiếc bàn đang bày đầy hoa quá và mấy lư hương đang nghi ngút khói. Đám nữ tử tiến lên, vọng nguyệt tế bái. Dương Hạo và Đinh Thừa Tông là nam nhân, những chuyện lễ bái cẩu may này không liên quan đến họ. Hai người nhìn nhau cười, ngâm đưa chén lên chạm một cái rồi cùng uổng cạn.

Đám nữ tử yên lặng cẩu khấn một hồi. Rồi mang chi ngũ sắc ra để xâu vào chiếc kim chin lỗ. Nếu như có thể xâu được sợi chi ngũ sắc qua chín lỗ kim thì coi như là đã nhận được may mắn mà Thất tỷ ban cho. Xâu kim dưới ánh trăng không phải là việc dễ dàng gì, nhưng những cô nương này đểu là những người chân tay nhanh nhẹn, khéo léo. Nên chi một lúc sau Đông Nhi đã kêu lên: “Thiếp xâu qua rồi.”

Dương Hạo mừng rỡ. Chạy tới trước để nhìn một lượt. Hạnh Nhi cũng chạy tới mang ngọn đèn đến cho Dương Hạo soi. Sợi ngũ sắc đó quả nhiên đã xuyên vào trong chín chiếc lỗ của cây kim. Lúc này đám người Diệu Diệu. Diễm Diễm cũng ào ào nói: “Thiếp cũng xâu qua rồi.”

Dương Hạo nhìn một lượt rồi cười nói: “Thật không ngờ những nữ tử chân tay nhanh nhẹn khéo léo lại đều tụ hợp trong nhà của ta. ha ha ha. Đông Nhi bây giờ không được uống rượu, nhưng còn các nàng thì có thể. Nào nào lại đây, một người một chén chúc mừng một chút. Này tiêu Đình, muội uống nước hoa quả thay cho rượu nhé.”

Đám nữ tử nhảy nhót tới bàn tiệc rượu, Dương Hạo nhìn Đông Nhi cười, nhẹ nhàng nói: “Trong tất cả mọi người thì Đòng Nhi là người khéo léo nhất.”

Đông Nhi hơi nhăn mũi lại, nhẹ giọng nói: “Không phải đâu. là mọi người đều để cho thiếp làm trước mà thôi.”

Dương Hạo nghe thấy thế không khỏi bật cười: “Nếu nói như vậy thì cảng không cần Thất tỷ ban tặng may mắn nữa rồi nữ tử trong phủ ta ai cũng đều cơ linh vô cùng.”

Đóng Nhi cười khúc khích, liếc nhìn Diễm Diễm, Oa Oa, Diệu Diệu đang vui vẻ uống rượu ở phía bàn rượu, thấp giọng nói: “Đêm nay bái nguyệt họ chẳng để tám tới việc xâu kim cầu may đâu. Bọn họ à, đều đã chuẩn bị để tối ngày mai mới thật sự cầm ra để xâu chi dưới ánh trăng.”

Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại phải làm thế?”

Đông Nhi liếc mắt nhìn bọn họ rồi lại nhỏ tiếng nói: “Bọn họ đều đắp một ít đất ở dưới gầm giường, rồi gieo mấy hạt ngô giống, để cho chúng nảy mầm lên. rồi lại đặt một số nhà cỏ, hoa và cây cối làm bằng đất sét ở bên trên, làm giống như điểm xá vậy, đây gọi là “chúng sinh”, đợi đến đêm Thất Tịch, xem mẩm non của ai tốt nhất thì đó sẽ là đại cát đại lợi.

Dương Hạo cười nói: “Bọn họ đúng là có đủ nhẫn nại để chơi trò này. Thật sự làm việc nhà e rằng chỉ có nàng, cũng không biết họ sẽ trồng thành thứ gì đây, cái này là để cầu gì vậy?”

Đòng Nhi mỉm cười xinh đẹp nói: “Đây à, người ta gọi là chủng sinh cầu tự. thứ cầu không phải là may mắn.”

Dương Hạo nghe xong liền ngần ra. Đòng Nhi lại cười nói: “Đây e là tâm nguyện lớn nhất của bọn họ lúc này. Quan nhân ngày mai phải xuất binh rồi. Đêm nay cũng coi như là một ngày đại cát, quan nhân đêm nay hãy đến chỗ bọn họ nghỉ ngơi đi.”

Dương Hạo lắc đầu nói: “Không được, không được, đêm nay đến chỗ của bất kì ai thì e rằng hai người còn lại cũng sẽ cảm thấy u oán trong lòng.”

Đòng Nhi cười nói: “Vậy thì để cả ba người họ cùng hầu hạ đi.”

Dương Hạo lắc đầu nhanh như sóng vỗ. nghiêm nghị cự tuyệt, nói: “Như vậy sao được, quá hoang đường. Ta sao có thể làm vậy?

Đòng Nhi liếc nhìn hắn, cười mà như không cười nói: “Quan nhân hòm nay lại đổi tính rồi sao? Sao thiếp nghe nói đại quan nhân nhà ta đã từng làm rất nhiều chuyện hoang đường rồi mà?”

Dương Hạo mặt đỏ cả lên, cười khúc khích nói: “Không phải chứ. chuyện này mà bọn họ cũng kể cho nàng nghe sao. Là Diễm Diễm nói hay là Oa Oa nói? Ta sẽ không tha cho họ đâu.”

Đòng Nhi cười nói: “Chàng không cẩn phải để ý xem ai nói, dù sao thiếp cũng đã đồng ý rồi, đi hay không đi tùy quan nhân quyết định.”

Dương Hạo cười khan nói: “Đi đi đi. uống rượu, uống rượu.”

Đòng Nhi nói: “Thiếp sao có thể uổng rượu chứ?”

Dương Hạo chi tay vào mũi mình nói: “Phần của nàng quan nhân ta sẽ thay nàng uống là được chứ gì.”

Gió đêm thổi thoáng qua mặt, Dương Hạo đột nhiên cảm thấy đêm nay thật lãng mạn. Một đêm phong nguyệt, một giường phong nguyệt, cái mùi vị đó thật là sung sướng. Hắn uổng đầy một bụng rượu rồi ho khan một tiếng, làm ra vẻ buồn ngủ, nói: “Được rồi, được rồi cũng muộn rồi, mọi người trở về phòng cả đi, nghỉ ngơi sớm đi.”…..

Tại Phủ Cốc. nơi ờ của đại thương cồ Lý Ngọc Xương, nơi trước đây mà Đường Diễm Diễm ớ bây giờ đã có một nữ chủ nhân mới: Chiết Tử Du.

Đêm đã khuya, nàng ta vẫn còn chưa ngủ, đang ngồi dưới ánh đến, chăm chú nhìn thứ gì đó. Nhìn một hồi lâu Chiết Tử Du liền bó chụp đèn ra, đưa bức thư vào gân ngọn nến và đổt. trên khuôn mặt lộ ra một ánh mắt như cười như không: “Người trong đội “Tùy Phong” của chúng ta hoàn toàn không dò hỏi được chút tin tức nào của Ngân châu sao?”

Một người mặc hắc V đứng ở phía trước cung kính nói: “Ngũ công tử. Chúng tiểu nhân đã dùng hết sức rồi, nhung Ngân châu không biết vì sao lại đột nhiên đổi gió, binh sĩ phong tỏa khắp nơi. Tất cả cắm chốt canh phòng từ công thành ra xa tới 30 dặm, nghiêm cấm tuyệt đối tất cả mọi người tới gần. Không, chính xác mà nói là có thể tiến mà không thể xuất. Ngay cả những thứ mà họ thu mua từ Thổ Phồn. Hồi Hất và người Khương Hoành Sơn như dê cừu cũng là đểu phái người đến, gi­ao dịch ớ nơi cách thành trì ba mươi dặm, rồi tự mang hàng hóa về. Cho nên chúng tiểu nhân đã dốc hết sức nhưng cũng không lấy được tin tức gì chuẩn xác. Có điều chúng tiểu nhân đã từng mạo hiểm vượt qua phòng tuyến canh giữ để tiếp cận một chút, hình như bây giờ Ngân Châu đang hăng hái xây dựng các công trình, chỉ là quá nguy hiểm nên không có cách nào lại gần hơn, do thám đó suýt chút nữa đã bị binh sĩ tuần thành bắn chết.”

Chiết Tử Du suy nghĩ một lát rồi nói: “Nếu như ta đoán không sai thì Dương Hạo cho dù thật sự có bản lĩnh mượn được mười vạn đại quân thì lần này đi e là sẽ đá phái một táng sắt lớn. Ngươi về đi, tiếp tục thăm dò tin tức.”

“Vâng, khi nào có tin tức thì có phái báo về Lô châu không?”

“Không.” Chiết Tử Du lờ mờ nói: “Ta sẽ đi cùng Dương Hạo tới Ngân châu, nếu như ngươi có tin tức cấp bách thì hãy tìm ta ớ trong doanh trại của Kha Đoàn Luyện .”

Đại hán mặc hắc y đó kinh ngạc nói: “Kha Đoàn Luyện giờ đã trung thành với Dương Hạo. sẽ không chịu cho chúng ta lợi dụng đâu. Việc này. Dương thái úy đã từng nhắc trước mặt đại soái ta, đại soái cũng đã đồng ý.”

Chiết Tử Du nhíu mày lên. Hừ lạnh một tiếng nói: “Cho dù ta có vào trong quân của hắn thì sao chứ? Hắn dám cản ta sao?”

Chương 422: Đánh úp

Trong không trung truyền đến những tiếng chim ưng, một con chim ung xuất hiện, bay lượn một vòng xung quanh, nhắm đúng mục tiêu là đinh xe của Dương Hạo thì đột nhiên bay như tên xuống, đại quân nhân mã nối đuôi nhau hành quân về phía trước. Dương Hạo tháo ống trúc buộc ớ chân con chim ưng, mở nắp lấy mẩu giấy ở trong ra, đọc kỹ một lượt, thuận tay lấy một thanh than, viết mấy chữ đáp lời lại lên giấy rồi nhét trở lại vào ống trúc rồi buộc vào chân của con chim ưng, tung tay lên một cái thả con chim bay lên trời.

Dương Hạo lúc này mới quay đầu lại nói với Mộc Án đang thúc ngựa ớ bên cạnh, nói: “Đại vương nam viện Khià Đan Da Luật Tà Chẩn đã xuất binh, đại quân hai ngày sau sẽ tới thành Ngân châu.”

Mộc Ân mừng rỡ, vui vẻ nói: “Họ xuất binh rồi sao? Không biết lần này Da Luật Tà Chẩn thống soái bao nhiêu quân?” Dương Hạo nói: “Da Luật Tà Chẩn thống soái năm vạn tinh binh của Điệp Lạt lục viện bộ. ngoài ra còn có hai vạn phụ binh giáp vận đê vận chuyển các loại vũ khí công thành đi theo sau.”

“Điệp Lạt lục viện bộ?”

Mộc Ân vuốt vuốt chòm râu quai nón, mỉm cười nói: “Binh mã Khiết Đan do cung trướng quân, đại lĩnh bộ tộc quân, bộ tộc quân, ngũ kinh hương đình và mấy bộ phận quân thuộc quốc tổ hợp thành. Trong đó đội quân tinh nhuệ nhất chính là cung trướng quân mã trong cung trướng quân thì Điệp Lạt ngũ viện bộ, Điệp Lạt lục viện bộ là tinh nhuệ nhất. Bây giờ Điệp Lạt ngũ viện bộ binh đang bảo vệ thượng kinh, Tiêu nương nương đã phái ra Điệp Lạt lục viện bộ tinh nhuệ nhất trong tất cả các đội quân của nam viện. Quả nhiên giống như tiết soái đã dự liệu. Tiêu nương nương Khiết Đan không chịu để cho Khánh Vương có cơ hội lấy lại sức và ngồi vững. Cái gai trong mắt này nương nương phải nhanh chóng nhổ ra.”

Dương Hạo mỉm cười nói: “Chúng ta bây giờ đã có thể tăng nhanh hành trình, truyền lệnh tam quân, tăng tốc độ. nhanh chóng trong hai ngày có thê hội họp dưới thành Ngân châu với Da Luật Tà Chân.”

“Tuân mệnh!” Mộc Ân chắp quyển đáp một tiếng. Lệnh liền được truyền xuống dưới, từ trên không trung vang lên một tiếng rít. đột nhiên một mũi tên bắt vụt tới, mang theo một tiếng kêu thê lương. Dương Hạo bất giác đứng dậy. kinh ngạc nói: “Phía trước có địch?”

Tam quân lập tức dừng lại, trung quân đứng yên tại chồ cũ, đặt các vật chắn và bày bộ trận hình, một lộ quân từ phía sau di chuyển sang bên cánh trái, một lộ quân khác thì sang cánh phải, thành lập hình thế dạng cánh chim ưng, hô ứng tương trợ với trung quân. Đây là một loại hình trận công thủ kiêm phòng bị. Đội quân chuyển vận lương và khí giới công thành lấy xe làm vật cản, bắt đầu bố trí thế trận hình bán nguyệt. Cả đội quân từ trạng thái hành quân chuyển sang trạng thái chiến đấu.

Một lát sau, một tham mã xuất hiện ở phía trước, phi ngựa tới trước xe của Dương Hạo thì dừng lại. một đại hán đang ngồi trên ngựa liền chắp quyển nói: “Báo. tiết soái, phía trước có một đại đội binh mã xông tới, cắm cờ hiệu của Ngân châu.”

Dương Hạo hòi: “Có bao nhiêu người? Cách chỗ này bao xa?”

Thám mã đó nói: “ít nhất thì không dưới hai vạn, cách ta còn khoảng hai mươi dặm đường nữa.”

Dương Hạo xua tay nói: “Đi thăm dò tiếp đi.”

Thám mã đó lại phi ngựa rời đi, Dương Hạo hơi nhíu mày nói: ‘Tên Khảnh vương này, đúng ta là đã xem thường hắn. Trọng binh trấn áp như thế mà hắn còn dám chủ động xuất kích, phái hơn một nửa binh mã đến ngăn cản ta.”

Lúc này Kha Trấn Ác cùng với mấy vị đại tướng Mộc Khôi đều phi ngựa đứng vây xung quanh, Mộc Ân vội nói: “Địch có tói hai vạn, binh lực gấp đôi ta, quân ta lại có rất nhiều thứ mang theo nặng nể, e là khó có thể địch nổi, tiết soái.”

Kha Trấn Ác nói: “Từ chỗ này đi về phía tây khoảng mười lãm dặm có một khe núi, chúng ta có thể di chuyển đại quân vào đó, dựa vào núi mà cố thủ. quân địch tập kích bất ngờ cũng không dám đánh lâu.”

Mộc Khôi lại nói: “Chúng ta đa phần là bộ tốt, lại có một lượng lớn xe ngựa, tốc độ di chuyển chậm, e là chưa tới được cửa núi đã bị địch đuổi đến. Tiết soái, hay là cho ta một đội binh mã. ta sẽ xông lên phía trước sống chết với chúng một phen, tiết soái hãy dẫn đội quân còn lại đi tìm nơi thuận lợi để hạ trại.”

“Binh tĩnh, nhất định cần phải bình tĩnh.”

Đây là lần đầu tiên Dương Hạo thống lĩnh một đội quân tác chiến cùng với một đội quân chính quy thiện chiến, cho nên trong lòng thấy có chút không yên. Hắn cố gắng trấn tĩnh lại. suy nghĩ cẩn thận một lượt rồi dứt khoát nói. Cái chức chỉ huy tiết độ sứ này của hắn bây giờ chỉ là chung quy, không phải chinh quy. hắn không phải là một chiến tướng có kinh nghiệm phong phú. Trước đây một số đặc điểm chiến thuật cổ đại mà hắn biết được từ trong sử sách cũng không đủ để hắn trông cậy, càng không thể biến hắn trở thành quân thẩn, một người mà sau này được hậu nhân biết tới. Những quân sĩ khi đó đã từng sinh tử với kẻ địch lễ nào lại thật sự không biết ư? Họ còn hiểu rõ hơn cả bất kỳ ai, nhưng hiểu là một chuyện, còn có thể phá giải được hay không lại là một chuyện khác. Kinh nghiệm lâm trận, năng lực ứng biến thì hắn mãi mãi sẽ không thể có đủ. Lần này xuất binh, hắn vốn mang một thái độ toàn công đổi với toàn thủ. Chứ thực ra chưa từng nghĩ tới với tình huống này mà Khánh vương lại có khá năng chủ động xuất binh, binh của hắn có bảy phần là tân binh, trang bị cẩn thận, đã từng huân luyện một thời gi­an dài. nhưng lại hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến đấu thực. Lần đầu ra trận, một khi chi huy thất bại hoặc bị thất thế thì hậu quả chỉ cần nghĩ cũng biết.

Nghĩ tới đây hắn liền cố gắng duy trì thái độ bình tĩnh, suy nghĩ cách tháo gỡ: “Được. Mộc chi huy dẫn một đạo quân đến phía trước ngăn cản. Kha đoàn luyện hộ vệ chi huy quân rút lui về phía tây. Bòn soái sẽ dẫn trung quân ứng chiến từ bên trong, luân phiên rút lui, không được hoảng loạn.”

“Mạt tướng tuân mệnh!” Hai viên đại tướng mồi người nhận một nhiệm vụ riêng. Khi vừa mới định chi huy quân rời đi thì Dương Hạo đột nhiên quay đầu lại nhìn lên mặt trời trên đầu. trong lòng đột nhiên động, vội phất tay lên nói: “Chờ đã.”

Chúng tướng đểu quay lại nhìn Dương Hạo. Dương Hạo đặt kiếm lên càng xe ngựa, trầm ngâm một lát rồi chậm rãi nói: “Thủ quân Ngân châu bây giờ mới xuất binh ra tập kích là vì chúng ta đã cách Ngân châu rất gần. chư Khương Hoành Sơn, chư bộ lạc thảo nguyên đều đã nghe hiệu lệnh của Lô châu ta. cho nên chúng không dám tập kích ta ớ nơi cách xa chốn căn cơ.”

Chúng tướng không hiểu Dương Hạo nói thế này là có ý gì. Quay mặt lại nhìn nhau. Dương Hạo lại nói: “Ngân châu xuất một nửa tinh binh, bỏ ra một lượng lớn sức mạnh như vậy mục đích không ngoài việc muốn đánh tan ta. để tránh cả hai mặt đều bị công kích. Cho dù thực lực có yếu kém thì cũng phải áp chế nhuệ khí quân ta, húy đi sức mạnh của chúng ta. Nhưng, đại quân Khiết Đan đang tiến lại gần. mấy vạn đại quân hành tiến thì phía Ngân châu lại không thê thăm dò được tin tức gì, bây giờ chúng phái hơn một nửa binh mã đến. trong thành Ngân châu đương nhiên là sẽ trống không, so sánh mà nói thì đương nhiên căn cơ mới quan trọng, cho nên đội quân này của Khánh vương nhất định cần phải trở về thủ thành Ngân châu trước khi kỵ binh Khiết Đan đến. Bây giờ đã là cuối chiểu rồi. Chúng chỉ có một cơ hội công kích, nếu chi có một cơ hội công kích thì ưu thế của chúng tất sẽ không thể phát huy hết được, chúng ta lại có thừa sức để đánh một trận.”

Kha Trấn Ác nói: “Tiết soái, nếu như khoái mã của chúng tới đây. Sáng sớm ngày mai lại lên đường trở về thì vẫn có thể về kịp. Cho dù chúng ta có chống đỡ được chiều hôm nay nhưng nếu như dã chiến, chúng ta mang theo nhiều đồ nặng nề như thế này thì sẽ không tránh khỏi càng tổn thất nặng nề hơn. Để cho an toàn tiết soái vẫn nên thống lĩnh đoàn người ngựa nặng nề này tìm một chỗ nào thuận lợi chiếm cứ, như thế mới có thể tự thủ.”

Lúc này lại có một khoái mã phi như bay tới. lớn tiếng bẩm báo: “Tiết soái, địch kỵ chi còn cách mười tám dặm.”

Dương Hạo hòi: “Có phải chúng đã tăng tốc độ không?”

Tham mã đó nói: “Địch kỵ vẫn từ từ mà tới, có điểu có lẽ chúng đã nắm bắt được nơi quân ta ớ. Trận hình có sự thay đổi.”

Dương Hạo nghe xong lại càng kiên trì tin tưởng phán đoán của minh, nói: “Chúng sẽ không tấn công vào đêm nay đâu. Kha đoàn luyện không phái đã thống soái mấy mươi thợ săn hay sao. nhân đêm tối lên núi dựng mấy cái bẫy không có gì là khó khăn. Tác chiến ban đêm chỉ dựa vào nhạc khí chỉ huy thì cho dù là quân đội được luyện tập nhiêu thì dã chiến cũng dễ dàng bị tan rã. Huống hồ quân địch đểu là kỵ binh, đến rất nhanh. Chủ tướng chi huy điêu động càng khó khăn hơn. Trận chiến này nếu ta thua thì chúng vẫn sẽ phái đổi mặt với cường địch Da Luật Tà Chẩn. Nhưng nếu chúng thua thì chi còn có thể dựa vào hai vạn quân thủ thành Ngân châu, như vậy thì sẽ tôn hao sức lực nhiêu hơn, chúng không dám mạo hiêm như vậy đâu.”

Hắn đột nhiên đứng dậy, lớn tiếng ra lệnh: “Truyền lệnh, tam quân kết trận tự thủ. Đứng nguyên tại chỗ đợi địch!”

Chúng tướng đểu đồng thanh đáp lời. tất cả về lại vị trí của mình. Khi trận hình vừa mới được phục hôi thì mặt đất bắt đâu rung chuyên, kỵ binh Ngân châu đã triển khai trận hình công kích, tốc độ càng lúc càng nhanh, tiến về bộ phủ mà quân Dương Hạo đang kết trận tự thủ. Lập tức bụi đất bay mù trời, đám kỵ binh giống như nước lũ trào lên, đi theo đó là những tiếng gào thét vang vọng, quả nhiên làm cho người ta bị trấn động.

Thấy đội hình xung kích dày đặc đó. Chiết Tử Du đang mặc trang phục hiệu úy bình thường liên nhái mày lên, thâm nghĩ: “Lúc này mà Khánh vương lại dám xuất hơn một nửa binh ra công kích trước, quá thật là nẳm ngoài dự liệu. Dương Hạo mang nhiều bộ binh và đồ như vậy thì cho dù hắn có lấy kỵ binh làm chủ thì với nhiêu thứ nặng nề cân phải quân đến thế thì cũng khó tránh được mũi nhọn của địch, chi có cách đối đầu trực diện với nhau thôi. Quân địch nhiêu gấp mấy lẩn hắn, trận chiến lẩn này lại là trận đâu tiên của quân sĩ thành Lô châu, nểu như bại thì sĩ khí lòng quân rất khó có thê lấy lại.”

Đứng bên cạnh nàng có một người thiếu niên cũng mặc trang phục hiệu úy. Bất ngờ đó chính là Chiết Duy Chính, hắn lại tán thưởng nói: “Chính là vì có nhiều đồ nặng nhọc như vậy. thêm nữa đa phần lại là bộ binh và xe cộ. nếu như Dương thái úy thật sự để lại một bộ binh ngăn cản địch giúp đại đội tránh khói nơi nguy hiểm thì như thế quá mạo hiểm. Địch kỵ đang từ từ đi tới, tuy là đê tiết kiệm mã lực, nhưng e răng mục đích lớn nhất chính là để hù dọa binh mã của Dương thái úy. Nếu như Dương thái úy thật sự muốn đưa quân đi tránh khí thế mạnh mẽ của địch thì trận hình sẽ hỗn loạn. Lúc đó binh mã Ngân châu sẽ đuôi nhanh tới. đẩu tiên là nuốt gọn bộ quân đã được phái ra ngăn cản. rồi sau đó sẽ dùng chủ lực đuổi theo, bao vây đại quân, lúc đó muốn quay trớ lại cũng không được, vô cùng nguy hiểm.

Phần lớn quân đội của Dương thái úy đểu là tân quân, tân quân có cái lợi cũng có cái hại. Lợi là vì khi con bê mới sinh ra nhuệ khí rất nhiều, hại là chưa từng chịu một thất bại nào. Một khi thất bại thì binh bại sẽ như núi đổ, chỉ dựa vào ba nghìn binh tinh nhuệ đã từng xông pha trăm trận thì đến lúc đó cũng sẽ không phát huy được tác dụng gì. Bây giờ Dương thái úy đã kết trận kháng địch, đó chính là để phát huy sở trường và hạn chế nhược điểm của họ. Nếu như luận về chiến lực thì binh mã Lô châu không hể yếu hơn thiết kỵ Ngân châu. Nếu luận về trang bị thì binh mã Lô châu càng mạnh hơn nhiều. Đó chẳng phái đểu là dùng tiền tạo ra còn gì, còn sợ không chống đỡ nổi thời gi­an nửa ngày sao? Phải biết rằng điểm yếu của Dương thái úy là mang theo một đống những thứ nặng nể. Còn điểm yếu của Ngân châu lại là chỉ có thời gi­an tác chiến nửa ngày, bất luận là thắng hay bại chúng cũng đều phải rút lui, ham chiến cũng không được.”

Chiết Tử Du quay đầu nhìn những chiếc xe nặng nhọc đã xếp thành nửa vòng tròn phía sau, giọng nhàn nhạt nói: “Ngươi nói đúng, gánh nặng của Dương Hạo chinh là những chiếc xe nạng nề. Bây giờ Dương Hạo đã không bị mắc lừa. bày ra thế trận tấn công kiêm phòng thủ để kéo dài thời gi­an, nhưng đáng tiếc sự chi huy của hắn tuy đúng quy cách nhưng vẫn có một sơ hở cực đại. Hắn lấy ít nghênh nhiêu, không dám chia binh ra. Chủ lực đều ở phía trước, nhưng sớ trường của kỵ binh chính là phát hiện chồ yếu của đối phương, nhanh chóng di chuyên công kích, nểu như kỵ binh của Ngân châu có chút não thì khi đánh tiền trận gặp khó khăn sẽ đi vòng ra đẳng sau, thiêu hủy lương tháo khí giới, sau đó sẽ chém giết từ phía sau.”

Chiết Duy Chính đào đào tròng mắt. Xoa xoa cằm nói: “Tiểu cô cô, có cẩn phải nhắc nhở hắn không?”

Chiết Tử Du hất cằm lên. Khinh bỉ nói: “Dương Hạo hắn chẳng qua chi là đánh thắng được mấy trận mà mất đã cao hơn đinh, tự cho rằng mình là đại tướng quân bách chiến bách thắng, kiến nha khai phù, binh uy hiển hách, ngay cả cha ngươi và Dương Sùng Huấn cũng đều phải đến nịnh nọt hắn, người ta có năng lực như vậy còn cần chúng ta đến xuất mưu họa sách hay sao?”

Chiết Duy Chính hít hít mũi, cảm giác như trước mặt mình có đặt một hũ dấm đã được ủ cực lâu vậy. Hắn cười khan hai tiếng rồi nói: “Phải phải phải. Dương Hạo là đó không biết tốt xấu. Tự cao tự đại, đúng là đáng bị cho một bài học. Có điều, khụ khụ… Nếu như quân địch phá trận thì chúng ta khó tránh dinh phải liên lụy, cháu cho rằng không phải giúp hắn mà là nghĩ cho chúng ta, muốn cho hắn một trận thì sau này vẫn còn có cơ hội. tiểu cô cô nói có phải không?”

Chiết Tử Du hừ lạnh một tiếng, quay mặt sang hướng khác không thèm trả lời hắn. Chiết Duy Chính liền cười mấy tiếng rồi chạy đi.

(ỳ

Cả mặt đất đều đang rung lên. Mấy mươi vạn quân đang ùn ùn kéo tới. Trận hình của Dương Hạo vẫn không động, hai nghìn quân ở trong trung quân đều là quân chính thống của Lý Quang sầm, họ đều có kinh nghiệm chiến trận phong phú, đương nhiên không thèm đê ý tới uy thế của ké thù trước mắt.

Dương Hạo để họ ở trung quân chính diện nghênh địch cũng chính là suy nghĩ tới điều này. Binh của hắn tuy nói là tinh binh, nhưng chỉ là trang bị tốt các thứ. Tiến hành luyện tập chính quy nhiều chứ không hề có kinh nghiệm chém giết trên chiến trận. Tuy nói thắng bại là chuyện thường của binh gia, nhưng Dương Hạo bây giờ không thể bại. Bình thường thì trong một đội quân lão binh đêu chiếm đa số, lão binh sẽ dẫn tân binh, nhưng trong đội quân này của Dương Hạo thì tân binh lại chiếm đa số, trận chiến đầu tiên này tuyệt đối không thể loạn, tuyệt đối không thể bại. Nghĩ đến điều này càng làm cho hắn kiên quyết từ bỏ cái cách tháo lui. Cách tháo lui có quy củ chi có lão binh bách chiến mới làm được, nếu không rất có thể sẽ bị kỵ binh Ngân châu đuôi chém giết như trâu như bò.

Quân địch khí thế hung hăng, đội quân hai bên cánh tuy không chịu sự xung kích trực diện với chúng những vẫn có chút xao động với uy lực vô hình đó. nhung sự ổn định của trung quân làm cho họ có thêm niềm tin tưởng cực lớn, ngọn cờ tướng soái giương cao làm cho họ rất nhanh ổn định lại. Mắt nhìn thấy quân địch càng lúc càng tới gần. trung quân đột nhiên đây ra mấy mươi chiếc xe bắn nỏ. Tám trăm bước, bày trăm bước, địch kỵ còn cách chưa tới sáu trăm bước nữa, chiếc thương trong tay Mộc Khôi dứt khoát chi về phía trước, một loạt những mũi tên, mũi nỏ kích thước cực lớn được phóng ra, kèm theo nó là tiếng xé gió chói tai bay xuyên tới phía quân địch, chiến mã xung trận chạy như bay của địch lập tức bị ngã xuống, người cũng ngã dúi theo.

Kỵ binh phía trước của địch bị té xuống đất. kỵ binh phía sau lại không kịp giảm tốc độ liền bị dẫm đạp lên nhau mà ngã. Không ít kẻ bị ngã xuống làm cho trận hình công kích bị hỗn loạn, địch lập tức mở rộng trận hình. Bất luận là hàng dọc hay hàng ngang thì giữa các kỵ sĩ đều có một khoảng cách nhất định. Đợi kỵ binh Ngân châu này cũng là những kẻ có kinh nghiệm chiến đẩu lâu năm, độ xung kích không hể bị giảm. Xe bắn nó vẫn đang bắn, nhưng hiệu quả sát thương đã không còn được rõ như lúc nãy.

Đại cờ trung quân lại được phất lên, trung quân cùng với các cung thủ. Nỏ thủ hai bên cánh lập tức lấy cung nỏ ra, loại cung mà họ sử dụng là cung nhất phẩm, tẩm bắn vượt xa hẳn loại cung tên bình thường. Cung bình thường thay tên trong khoáng hai đến ba giáp, địch kỵ càng có thể xông nhanh tới trước mặt. Chuyển thành đấu tay không, nhưng khi sử dụng cung nhất phẩm thì cho dù cung mã chưa đủ thành thục thì ít nhất cũng có thể tăng thêm cơ hội bắn nữa, cung huyền như mưa. tiễn không cẩn phải nhắm trúng đích., thì những mũi tên bắn ra nhanh và dày đặc như mưa cũng đã làm cho địch kỵ liên tiếp rớt ngựa, chưa thê thiến gân thì chúng đã chịu một sự tôn thất không nhỏ. Điều quan trọng là việc luân phiên sử dụng xe bắn nỏ và cung tên tay đã làm cho nhuệ khí của chúng càng bị ảnh hưởng.

Kỵ binh Ngân châu không ngờ rẳng cung nỏ trong tay Dương Hạo lại lợi hại đến như vậy, trong khoảnh khắc đã làm cho chúng phải trả một cái giá cực lớn, có điêu sự hi sinh của đám binh sĩ cũng là đáng. Chúng càng lúc càng lại gần. cung nỏ lập tức mất tác dụng, chỉ cần để cho kỵ binh của chúng xông qua được thì đó sẽ chính là một mảnh đất để tàn sát. khi mà kỵ binh của chúng vượt qua được trung quân của Dương Hạo thì những thứ để lại chỉ còn là một đổng thi thể.

Mắt thấy kỵ binh sát khí đẳng đẳng xông tới gần, trận hình trung quân hình như bị nâng chuyển, xe bắn nỏ bị đẩy sang hai bên. Đám binh sĩ bắt đầu lùi dẩn. Thiết kỵ Ngân châu nhe răng cười nham hiểm. Hai mắt đầy sự thèm khát máu nhìn chăm chăm vào kẻ địch trước mặt. Đao thép trong tay nắm thật chặt và giơ lên.

Đột nhiên, binh sĩ Lô Châu ở trước mặt lại nhanh chóng lùi về phía sau, cùng lúc đó lại có một đám sĩ tổt vững bước đi từ bên trong ra, từng bước tiến về phía trước, cách ăn mặc của họ không giống với binh sĩ thông thường. Cung thủ. nỏ thủ lúc nãy chi có mặc một chiếc áo giáp da, còn bọn họ cả người lại mặc giáp sắt. Dáng người khôi ngô, bước chân vững trãi, cho dù mặt đất có rung chuyên thì bước chân của họ vẫn nặng và ông định. Rất nhanh họ đứng sóng vai xếp thành một hàng, tiếp nối lại là hàng hai, hàng ba.

“Bộ binh trọng giáp? Bộ binh trọng giáo có thể ngăn cản được bước chân của chúng ta sao?”

Kỵ binh Ngân châu không chút sợ hãi, ngược lại còn hưng phấn hơn nắm chắc lấy vũ khí, thúc ngựa phi thật nhanh về phía trước, chuẩn bị xông tới chém giết.

Lúc này. đội bộ binh trọng giáp đột nhiên nhất tề lớn tiếng hét. giương cao đại đao trong

tay.

“Đây là cái gì?”

“Soạt!”

Một loạt đại đao được rút ra và giơ lên, ánh mặt trời chiếc vào mặt đao làm hắt ra ánh sáng chói mắt. Những kỵ binh xông tới trước trợn trừng mắt lên nhìn. So với chiếc đao cực lớn khủng bổ trước mắt thì chiếc loan đao trong tay mình quả thật là một thứ đồ chơi nực cười. Không kịp nghĩ thêm gì, chiến mã vẫn điên cuồng xông về phía trước, những chiếc đao sáng quắc liền tiến tới nghênh chiến, chém trực diện.

Sự va chạm cực mạnh đúng là sản sinh ra hiệu quả. Hàng trọng giáp thứ nhắt tuy đã chém trúng vào đối thủ nhưng cũng bị lực va chạm cực đại làm cho ngã về phía sau, có một số người bị va chạm mạnh ánh hưởng tới phổi mà phun cà ra máu, nhưng cả đội hình vẫn không bị rối loạn. Họ lại được hàng binh sĩ thứ hai nhanh chóng chống đỡ. còn địch kỵ xông tới lại bị đao chém cho đứt người, ngã ngựa, làm cản trờ bước tiến của đám kỵ binh phía sau.

Đám đao thủ lại bắt đẩu theo tiết tấu của trống trận mà từng bước tiến về phía trước, khua đao chém ngã. dậm chân, lại khua đao…

Đội khinh kỵ binh này vốn là muốn xông vào trận địch., dùng đao nhọn mà xé nát trận hình của địch, làm đảo lại hình thế phòng ngự, chém nát binh mã Lô châu ra. nhưng đội khinh kỵ binh vừa mới mất đi ưu thể xung kích đã hoàn toàn mất hết nhuệ khí. Đám đao thủ như tường thành tiến tới, đánh chém tan tác. Hình thế kỵ binh địch hoàn toàn tan tác, cùng lúc này binh sĩ hai bên cánh liền rút trường thương và chiến rìu ra, xông lên đánh địch, chém đầu chém chân ngựa, bắt đâu áp sát vào phía trong của địch.

Chiết Duy Chính thấy vậy thì mạch máu liền sôi sục. mắt nhìn chẳm chẳm vào trận chém giết. Đầy hứng khởi nói: “Quá lợi hại, đúng là đã đánh cho chúng tơi bời. Nếu như Phủ châu ta cũng có được một đội mạch đao như thế này thì tốt biết mấy.”

“Đó chỉ là hào nhoáng bên ngoài mà thôi!”

Chiết Tử Du hình như giờ đã mắc phải cái tật chuyên bới móc. Cả chặng đường hình như không tìm ra được một tật của Dương Hạo thì nàng ta sẽ không phục vậy. Nàng ta lạnh lùng nói: “Mạch đao binh có lực phòng ngự và lực tấn công cực cao. Nhưng họ lại thiếu lực duy trì tác chiến. Nếu như là trên một chiến trận rộng hơn, cũng là đấu với du kỵ binh thì họ chi có thể đi theo sau mông người ta mà hít bụi thôi.

Mạch đao trận thích hợp với trận địa chiến, cẩn có sự phối hợp của cung thủ. bộ tốt, khinh kỵ binh, trong thời khắc mấu chốt cường đao xuất kích, hóa giải trận thế và sĩ khí của đối phương, tạo cho những đội quân khác có cơ hội xông trận tốt hơn. Nhung nuôi một đội mạch đao nghìn người lại hao tổn một khoản tiền và thời gi­an bằng hao tổn cho việc chiêu mộ. luyện một đội quân mấy vạn người, một đội quân mấy vạn người chẳng nhẽ lại không có uy lực bẳng một đội mạch đao trận nghìn người sao?

Dương Hạo là vì địa vực Lô châu có hạn, binh lực có hạn. Bất đắc dĩ mới tiêu tốn một khoản tiền lớn đến vậy đê luyện cái gì mà mạch đao trận. Nếu như địa bàn của hắn lớn them một chút, quân dân cũng nhiều hơn thì từ góc độ thực tế nhất mà suy nghĩ, ta tin chắc rằng hắn cũng sẽ không thiết lập cái gì mà mạch đao đội đâu. Mạch đao trận chỉ có thể thắng được địch trong nhất thời và công kích được vào chỗ sơ hở của địch., Dắt mũi được địch, ai mới có thể nắm được thể chủ động trên chiến trường, ai đã nắm được thể chủ động đó, cho dù nhất thời chịu thiệt thì cũng có thể giành được thắng lợi cuối cùng, pháp bảo chiến thắng cuối cùng chỉ có một, lấy kỵ chế kỵ. chứ không phải là mạch đao trận.”

Chiết Duy Chính thở dài một hơi, lẩm bẩm nói: “Nuôi mạch đao trận chi cẩn có tiền là được. Còn nuôi kỵ binh ư. Ngựa từ đâu mà có? Đất phía tây thiện nuôi ngựa, lại đều trong tay tộc Đảng Hạng, Thồ Phồn, làm thế nào để lấy kỵ chế kỵ đây?”

Máu tươi chày khắp nơi. những mảnh thi thể cụt tay chân lăn lóc dưới đất. đội mạch đao đã tổn thất khoảng hơn trăm người. Nhưng sổ kẻ địch chết dưới tay họ ít nhất cũng không dưới nghìn người, nhưng Dương Hạo vẫn cảm thấy rất đau lòng. Tỷ lệ tôn thất 1-10 cũng được coi là thành tích huy hoàng lắm rồỊ đặc biệt đây là lần đầu tiên mạch đao thủ lên trận nghênh địch. Nhưng tiền của hắn cũng có hạn, đặc biệt là mạch đao thủ bồi dưỡng không phải là dễ. không thê tiêu hao như thế được.

Vốn loại tiến công của mạch đao thủ này tác dụng là để nhanh chóng giải quyết được thế xung kích của quân địch, nếu như có thể kết hợp với khinh kỵ binh, nhân khí thế khi đối phương rút như thủy triều, trận hình tan tác mà truy kích thì có thể đạt được chiến quả lớn nhất. Nhưng đáng tiếc binh lực trong tay Dương Hạo bây giờ còn rất ít, một vạn binh mã mà hắn có toàn bộ đã được điều đến để tham gia trận chiến công thành với Ngân châu rồi, căn bản không làm tiêu hạo cực đại, lại còn cần trích ra một lượng nhân lực theo dự liệu. Trong trận công thành lại không phát huy được một chút tác dụng nào của chiến mã, cho nên khi đột phá vòng vây của kỵ binh Ngân châu, mạch đao binh đã dừng truy kích, chi để cung thủ. Nỏ thủ bắn tên theo, làm cho quân địch chết thêm mấy trăm tên nữa.

Địch kỵ lại không chạy thoát luôn từ đây mà vì mang theo một lượng lớn các vật nặng là nhược điểm lớn nhất của đội quân Dương Hạo. Nên chưa cần nói đến hắn không có lượng lớn khinh kỵ binh trong tay, mà cho dù có cũng không thể bỏ lại đô mà đuổi theo địch, cho nên tuy đã bị tôn thất nặng trên trận chiến với Lô Châu, nhưng kỵ binh Ngân châu vẫn ung dung rút lui ra bên ngoài, rồi bắt đầu cứu chữa cho người bị thương, chinh li lại đội hình.

Trận chiến đại thắng, hơn nữa lại là lấy bộ thắng kỵ, thoắt cái đã làm cho sĩ khí của đội quân Lô châu tăng thêm mấy lần. Cho dù cũng đã có thương vong, nhưng nhìn thấy đám thi thể của kỵ binh Ngân châu để lại. Mỗi một binh sĩ lại có một cảm giác hưng phấn vô hình. Họ bắt đầu nhanh chóng thu dọn chiến trường đâu ra đấy, trong lòng lại sục sôi nhiệt huyết đợi đến lúc xông lên chiến đấu tiếp với kẻ địch.

Sau khoảng chừng nửa canh giờ, địch kỵ đột nhiên xông lên từ cánh tả. vừa trải qua một trận hỗn chiến, chúng cũng phát hiện ra rằng trung quân của Dương Hạo là miếng xương khó gặm nhất, còn chiến sĩ hai bên tả hữu thì rõ ràng là thiếu kinh nghiệm nắm bắt cơ hội và lâm trận. Lần này. chúng đã đeo vào phía trước ngựa một tấm thuẫn nhò. rồi men theo đường vòng cung, hướng sang cánh tả. có cơ hội thì sẽ xông lên đánh giáp lá cà, không có cơ hội thì sẽ phi nhanh ngựa chạy thoát. Lẩn này đội hình của địch lộ rõ sự thưa thớt, cho dù phía Dương Hạo có dựa vào cung tiễn bắn xa thì cũng không phải là dễ dàng chiếm được thuận “Bọn chúng tập kích như vậy là để làm loạn trận hình của chúng ta. nhất định phải phòng cánh hữu tiến công.”

Chiết Tử Du quan sát tình hình trận chiến trong chốc lát, đột nhiên bừng tinh, lúc này Mộc Ân , một người am hiểu về chiến thuật du kỵ cũng đã phát giác ra có điểu không ổn. liền phất cờ cảnh báo phía cánh hữu. Quả nhiên, khi tam quân Lô châu đang chú ý tới cánh tả. nơi quân địch dừng chân nghỉ dưỡng thương thì đột nhiên lại có động tiến công ờ bên cánh hữu.

Lẩn tiến công này lại rất có mùi vị thực như hư. hư lại như thực. Hai bên cánh tả hữu đều bị tiến công. Bên náo loạn trước, bên nào thoát được tập kích thì đều sẽ trở thành thực công. Những chiếc xe bắn nỏ nặng nể với mạch đao trận di chuyển chậm chạp trong cái tình huống tấn công nhanh này không có cách nào kịp thời điều động đê ứng đẩu với địch. Đám kỵ binh Ngân châu vừa mới ăn một vố đắng chát đã nhanh chóng tìm ra được cách ứng biến, chỉ cần không thể ép bọn chúng vào trong vòng quyết chiến thì chúng có thể lợi dụng ưu thế du kỵ để tránh những vũ khí sát thương đáng sợ đó.

“Thu lại binh lực, kết trận vòng tròn phòng thủ.”

Dương Hạo rất nhanh đã phát hiện ra ý đồ của kỵ binh Ngân châu, lập tức hạ lệnh xuống, thế trận đã có chút xao động dưới sự tập kích bất ngờ của kỵ binh Ngân châu. Hai bên cánh đã bắt đầu dần dần thu gọn lại, hậu trận bắn tên, tiền trận dùng đao rìu uy hiếp địch, trung quân thì bày ra thế tiếp ứng trận. Hai bên cánh thu hẹp lại cùng kết hợp với hậu bộ dựa vào những xe chở khí giới đang xếp hình bán nguyệt dần dần chuyên thành trận hình tròn.

Trận đầu giành được thắng lợi. Vừa nâng cao được sĩ khí của binh sĩ lại vừa kéo dài được thời gi­an. Mặt trời đã dần hạ xuống ở phía tây. chi cẩn đánh bại âm mưu này của định, thì đã đạt được mục đích chiến lược của mình. Dương Hạo vẫn chua đắc ý vênh váo, vì thắng lợi nhỏ mà đã vọng tưởng đến việc tiêu diệt đội ngũ kỵ binh có số người chiếm ưu thế và có thể tiến lui như kỵ binh Ngân châu. Bây giờ hắn rất cẩn thận cho thu hẹp lại đội hình, tăng cường phòng ngự chính là để bảo vệ thành quả thắng lợi.

Kỵ binh Ngân châu đã phát giác được ý đồ của Dương Hạo. Bắt đầu lo lắng, cách đánh nghi binh đã bắt đầu chuyển thành tiến công mạnh mẽ bất chấp tất cả, muốn đánh tan trận hình vòng tròn phòng ngự của đối phương. Địch ta hai bên đang tranh đấu khổ chiến, quân địch hậu trận đột nhiên tách ra một đội hình năm nghìn người, xông pha nên điên cuồng tập kích vào hậu trận, nơi mà yếu nhất, được cản bời các xe khí giới.

Đây chính là chỗ hiểm yếu nhất của đội quân Dương Hạo. Nếu như để cho chúng mở được một đường vào thì sẽ giống như bị một lưỡi dao nhọn xuyên, qua người, trận hình phòng ngự lập tức sẽ bị phá tan. Toàn bộ chủ lực của Dương Hạo đang khổ chiến ờ tiên trận, trong trận hình phòng ngự dày đặc này cho dù địch ở chính diện lập tức lùi lại thì họ cũng không kịp quay lại cứu viện cho hậu trận. Nhưng… đội quân này vốn đã lập được đại công, họ cũng đã giúp cho Lô châu một lần nữa được ghi vào sử sách. Đội kỵ binh gặp phải mạch đao trận đúng là vẫn phải chịu một kết cục xui xẻo. Có lẽ lão gia binh của Lô châu phải xuất mã rồi.

Lão gia binh là tên của đội trọng giáp kỵ binh đã từng làm cho Chiết Ngự Huân và Dường Sùng Huấn nhìn mà phát thèm.

Bọn họ người được yêu chiều, ngựa cũng được yêu chiều. Riêng đống áo giáp của họ cũng làm cho người ta phải tốn sức. Sau khi mặc áo giáp vào thì không tự lên nổi ngựa, lên được ngựa lại không thể tự xuống được. Khi họ hành quân thì phải dùng xe để chở áo giáp của họ và ngụa, một khi bắt đầu chiến đấu thì họ cũng phải chậm chạp mặc áo giáp trong khi các chiến sĩ khác đang hăng hái chiến đấu. Chậm chạp lên ngựa. Vì lực xung kích quá lớn nên nếu như không chuẩn bị cẩn thận thi khi xông trận sẽ tự diệt mình, cho nên họ cũng phải chậm chạp mà xếp ổn đội hình.

Khi mà rời khỏi sự bảo vệ của bộ binh hoặc khinh kỵ binh thì họ sẽ chẳng làm được gì, hơn nữa tuy là kỵ binh nhưng lại không tập kích nhanh bất ngờ bằng bộ binh, họ không thể chạy xạ nếu không chiến mã sẽ mệt chết mất. Không thể chiến đấu quá lâu nếu không người cũng sẽ mệt mà chết, không thê lên núi. xuổng hồ, vào trong sa mạc. vào rừng sâu. không thể đụng phải dây chắn ngựa, hố kháng ngựa…

Trong quân của Lô châu, một đội quân như thế này vừa hao tiền của vừa không thực dụng, dường như chi có lúc xếp làm nghi trượng thì có tác dụng phô trương thanh thế. Khi Chiết Ngự Huân và Dương Sùng Huấn nhìn thấy những con quái vật giáp sắt này thì mắt đều không ngừng đó lên. cái đội binh mã Lô châu mà họ tự cho 1′ẳng mình hiểu rất rõ căn bản lại là một đội binh bỏ đi. lão gia binh. Nhưng sau trận chiến ngày hôm nay. tất cà mọi người đều phải ngậm mồm lại.

Cả người nón giáp sắt, ngay cả những con ngựa to lớn Ara­bia cũng được khoác giáp toàn thân. Đội quái vật sắt hùng hục lao về tới đội kỵ binh năm nghìn tên ờ phía trước. Trong tay họ đểu cẩm trường mâu. những mũi tên sắc nhọn bay tới. Va vào lóp áo sắt của họ. làm phát ra những tiếng kêu ting tang, sau đó thì rơi leng keng xuống đất. Đám kỵ sĩ trên lưng ngựa mặt ngẩn ra, bất động như những pho tượng, đội kỵ sĩ trước mặt giống như một bức tường thành làm bằng sắt, không coi ai ra gì mà tiến thẳng về phía trước, dễ dàng xé tan trận hình của Ngân châu, những tiếng kêu thảm thiết lại tiếp tục vang lên, những nơi đoàn kỵ binh giáp sắt đi qua thì nơi đó lập tức trở nên điêu linh.

Những chiếc trường mâu khủng khiếp đâm thẳng, xuyên qua cơ thể kẻ địch, kẻ địch ngay cả cơ hội phản kháng cũng không có. Kỵ binh giáp sắt ùn ùn kéo lên như hồng thủv. Kẻ nào may mắn vừa thoát khỏi dàn giáp sắt thứ nhất, sợ hãi ngẩng đầu lên nhìn thì một làn sóng kỵ binh giáp sắt thứ hai lại trào lên. Những kẻ may mắn sống sót thì chỉ có thể đứng nhìn đoàn binh đẩy sát khí đang chém giết, chúng hoàn toàn không có cơ hội tiếp xúc với cơ thể của đối phương, cũng hoàn toàn không có cách nào dùng lực để va chạm với đối phương.

Kỵ binh trọng giáp ẩm ẩm công kích tói. Họ tuyệt đối sẽ không dừng lại để đấu giáp lá cà, dừng lại chính là tìm cái chết. Một khi dừng lại thì họ sẽ từ một ké vừa đoạt được sự sống từ tay tử thần lại biến thành một đống phế vật mà ai cũng có thể chà đạp. Nhưng khi mà bọn họ vẫn còn xông về phía trước thì họ sẽ giống như một đoàn xe tăng, họ chính là vua của trận chiến. Trà khi một đội quân bộ binh và xe thương dàn trận dày đặc với trận thế nghiêm chỉnh mới có thể đối kháng lại đội kỵ binh trọng giáp đáng sợ này ra thì không có bất kì kẻ nào có thể địch lại được. Đám kỵ binh Ngân châu trước mặt căn bản chưa từng nhin thấy một đội kỵ binh trọng giáp nào đáng sợ như thế này. Chúng dùng tốc độ nhanh nhất xông lên vốn là muốn tách một đường đi từ trong trận hình phòng ngự của binh mã Lô Châu, kết quả chưa kịp xông lên thì đã trở thành hoa màu đang thu hoạch của đám tử thần kỵ binh trọng giáp.

Lần này xông lên. Kết quả thu được từ lực sát thương mà đội kỵ binh trọng giáp tạo nên còn lớn hơn nhiều so với trận chiến lúc nãy. Những tên kỵ binh Ngân châu may mắn sống sót thì vô cùng sợ hãi, hoảng loạn tháo chạy khắp nơi, để lại rất nhiều ngựa vô chủ đang kêu thảm thiết.

Dương Hạo thẩm thấy đáng tiếc, nếu như bây giờ mà hắn còn có một đội bộ tốt hoặc một đội khinh kỵ dự phòng, thích hợp phối hợp với kỵ binh trọng giáp xuất chiến thi lẩn đẩu ra quân của đội kỵ binh trọng giáp này sẽ càng thu được kết quả lớn hơn, rất có thể làm cho ngay cả một tên cũng không chạy thoát. Trải qua trận chiến lẩn này. tuy uy lực cực lớn của kỵ binh trọng giáp vẫn không phải là thứ mà chúng có thê phá giải được, nhưng lại không có hiệu quả đánh bất ngờ. muốn lại một lần nữa có được cơ hội chiến thắng hoàn toàn thì thật là khó.

Có điểu tuy có chút nuối tiếc, nhưng thấy được uy lực cường đại của chiến thuật này, Dương Hạo vẫn rất hài lòng. Hắn đương nhiên biết rằng kỵ binh trọng giáp trên chiến trường có rất nhiều hạn chế. Nhưng khi hắn có được đi kiện thuận lợi, có thể kiến tạo một đội binh như thế này thì hắn vẫn sẽ không do dự mà hao tổn thêm khoản tiền lớn để tạo thêm một đội quân nữa.

Khả năng công kích phá trận của bọn họ thật sự rất lớn. Dương Hạo đã từng tận mắt chứng kiến trận chiến ác liệt giữa Tống quốc và Khiết Đan với hơn mười vạn đại quân ờ Tử Ngọ cốc. Quân Đại Tổng dưới sự chỉ huy của Triệu Khuông Dận đã bố trí thành một chiến trận tảng tầng lớp lớp: Trận tiên phong, trận sách tiên phong, đại trận, tiền trận, đông tây rẽ tử mã trận, trận chống ớ phía sau, hậu trận sách điện…

Từng cụm tiểu quân trận giống như một cỗ máy giết người được bổ trí dày đặc vô số búa. rìu, đao. Trùy…kết họp rất khớp với nhau. Cho dù một đội quân cả nghìn người thì một khi rơi vào cái bẫy này, trong nhất thời cũng sẽ bị chúng xé nát vụn. Sự phối hợp tinh vi như thế đã giúp cho quân Tống quốc chi với mười vạn bộ tốt đã có thể khiến mười vạn kỵ binh Khiết Đan đổi diện không còn cách nào chống đỡ. Nếu như không thể làm loạn được trận thế Tống quân chì chúng sẽ không dám dốc sức ra mà xuất kích.

Nhưng kỵ binh trọng giáp lại là một vũ khí giòi nhất cho việc phá trận. Nếu như nói kỵ binh đổi lập với bộ binh, lại tương đương với xe tăng trong lục quân thì kỵ binh trọng giáp lại chính là xe tăng trong xe tăng. Khi đó nếu phía Khiết Đan có một đội kỵ binh trọng giáp như thế này, lại lợi dụng thêm đông nặng cực lớn của họ thì nhất định có thể phá được chiến trận của đối phương. Trong thời đại binh khí loạn lạc này, quân đội không giống như đám quân ô hợp là bởi vì tính ki luật và phối hợp nhịp nhàng nghiêm minh của họ. Mà tất cả những điều này lại dựa vào sự ổn định của trận hình. Một khi đột phá được trận hình của đối phương thì sẽ làm loạn sự phối hợp của hộ, đả kích vào sĩ khí của họ. Cho nên, cơ hội biểu diễn duy nhất của đoàn kỵ binh trọng giáp đốt tiền này chính là xung phong, nhung nuôi một đội quân mà bình thường chẳng có tác dụng nào như vậy lại rất đáng. Nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một giờ. Nuôi kỵ binh trọng giáp, chẳng phải là không dùng trong một giờ đây sao?

Hai đội quân lại bước vào trạng thái cầm cự. Mặt trời đã hạ dần xuống phía tây. đỏ rực như máu. Trên chiến trường cát bay mù mịt. máu tanh khắp nơi. Bóng tối dẩn dẩn hạ xuống, từ ngoài xa truyền lại những tiếng ngựa kêu thảm thiết. Binh mà Ngân châu không biết bên phía đối phương đang vững vàng kia sẽ còn phá ra những thứ gì cổ quái nữa, chiến cục bắt đầu rơi vào gi­ai đoạn giằng co.

Đêm đã khuya, ánh trăng vẳng vặc treo trên trời. Chiết Tử Du ngậm một nhánh có, nằm trên chiếc xe chờ lương, gối đầu lên tay nhìn ngắm mặt trăng và như đang suy nghĩ chuyện gì đó.

Chiết Duy Chính nằm sấp dưới mặt đất. áp tai nghe ngóng một hồi lâu rồi vui mừng bò đậy nói: “Tiểu cô cô. binh mã Ngân châu lui rồi.”

Chiết Tử Du ừ một tiếng, trầm ngâm một hồi lâu, lấy cọng cỏ ra, hòi: “Đoàn kỵ binh trọng giáp lúc nãy ngươi cũng thấy rồi, nếu như phái ngươi đền lãnh binh thì ngươi sẽ đổi phó thế nào với chúng?”

“Sao cơ?” Chiết Duy Chính suy nghĩ kỹ một lúc. trà lời: “Tránh mũi nhọn đi. quay về tản kích, lợi dụng cung tiến và kỵ tốc.”

“Nếu như đối phương cho khinh kỵ kết họp, bộ tốt đối ứng, tập kích nh lôi phong thì ngươi sẽ làm gì?”

Chiết Duy Chính suy nghĩ hồi lâu, cười ngượng ngùng nói: “Thế thì đành phải tìm một nơi không thích hợp sử dụng trọng giáp để quyết chiến rồi. Nếu không.. .chiếm thành tự thủ. không thì đành phải …nạp mạng thôi.”

Chiết Tử Du hừ một tiếng, lại nhíu mày suy nghĩ. Chiết Duy Chính lại trợn mắt lên, thầm than thở: “ôi! Nữ nhân, thật là không thể đắc tội được, tại sao nhất định lại phải tìm cách phá giải chứ? Có phải chi là để chứng tỏ mình giỏi hơn hắn một cái đầu không. Chiết gia ta chẳng muốn tranh thiên hạ, làm hoàng đế. Nếu như cả hai có thể thành một nhà thì đó chẳng phải là không chiến mà thu phục được binh hay không. Đó mới là vương đạo.”

Chiết Duy Chính liếc nhìn Chiết Tử Du đang ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, từ khuôn mặt xinh đẹp mĩ miều mê người hình như đã nhìn ra được một pháp bảo thông quan.

Chương 423: Lâm trận bái tướng

“rầm…rầm..rầm.”

Những âm thanh chắn động trời đất làm gián đoạn cuộc hội thoại của hai người trong cung.

Triệu Quang Nghĩa ngẩng đầu lên. Hậm hực đập bàn một cái. Đứng dậy đẩy cửa nhìn ra bên ngoài. Ngoài cửa sổ đen kịt. Hành lang tuy có đèn nhưng cũng chỉ có thể nhìn ra khoảng mười bước. Trong màn sương gió chỉ có thể nhìn thấy một mảnh trắng mờ ảo trong cung uyển Triệu Quang Nghĩa nôn nóng nói: “Lão tặc trời mưa như trút nước, mưa mãi không thổi dừng một lúc lại mưa. Đã bảy ngày rồi cũng không biết lúc nào mới thôi.”

Vương Kế Án đứng dậy cười nói: “Quan gia, mưa năm nay tuy đặc biệt nhiều, nhưng đường sông năm nào cũng gia cố. Không có gì đáng ngại, người của ti nha môn đang ở bên sông ngày đêm quan sát. Một khi có gì nguy hiểm sẽ lập tức tiến cung bẩm báo.”

Triệu Quang Nghĩa thở dài một tiếng, cạnh một tiếng đóng cửa lại, trầm mặt xuống quay trở về bàn, lại nói: “Khanh đợi thêm hai ngày nữa. đợi trời bớt mưa hãy lên đường. Lần này trẫm phái khanh đi làm lạt sứ Hà Bắc đạo kiêm nhiệm thái phòng sứ lộ Hà Bắc Tây lộ. Cho nên trẫm sè phong thưởng lớn cho khanh đồng thời cũng có đại sự gi­ao cho khanh đi làm. Làm tốt chính là lập đại công.”

Vương Kế Ân vội tiến lên trước, hơi cong người lại. Cẩn thận nghe Triệu Quang Nghĩa dặn dò: “Trẫm phái khanh đến Hà Bắc Tây lộ là. vì ở đó cách Hán quốc gần nhắt, bây giờ Khiết Đan tuy đã đồng ý bỏ mặc Hán quốc, hai nước hưu binh, nhưng loại người man di sao có thể tin tưởng được? Sau này nội bộ Khiết Đan ổn định. Tiêu hậu chưa chắc sẽ giữ lời hứa. hơn nữa…sau khi trẫm đãng cơ luôn muốn mờ rộng lãnh thồ biên cương, lặp đại nghiệp, sẽ không để cho tiên đế thất vọng. Hán quốc này nhất định phải lấy vào tay trẫm. lần này khanh đi Hà Bắc cần phải chuẩn bị cẩn thận, tập hợp binh, chuẩn bị vũ uy. tích trữ lương thảo…, phối hợp với Quách Tiến, chuẩn bị cẩn thận giống như trẫm đích thân ngự giá.”

Vương Kế Ân khom người nói: “Tiểu nhân hiểu rồi, tiểu nhân hai ngày nay đã gi­ao lại hết mọi việc trong tay cho người khác, để chuyên tâm lo lắng đại sự. Sau ba ngày nữa e rằng vẫn sè mưa lớn. nhưng cho dù có mưa lớn hơn nữa thì tiểu nhân cũng nhất định sẽ lên đường, vì quan gia làm đại sự. Mà tấu sứ của bên Lô châu…”

Triệu Quang Nghĩa cười lạnh một tiếng, cùng lúc đó một ánh chóp lóe lên. chiếu vào khuôn mặt xanh xanh ám muội của hắn đi theo đó là tiếng sấm ầm ầm làm chấn động cửa sổ.

Triệu Quang Nghĩa hé miệng, từ từ nói: “Con người này tâm tính xảo trá. trẫm tuyệt đối không ngờ hắn lại sớm đã có chuẩn bị. Kết gi­ao với một số gi­ang hồ dị sĩ. dựa vào sự tương trợ của họ mà bình yên thoát khỏi bàn tay của trẫm. có điều…, khắp thiên hạ này có chỗ nào không phải là vương thổ chứ. Hắn thoát được lúc này nhưng liệu có thoát được cả đời không? Sau khi hắn trở về Lô châu đã phát triển binh uy. Không tự lượng sức mình mà muốn thảo phạt Ngân châu. Nếu đã trung thành như vậy thì trẫm sao có thể không để hắn toại nguyện chứ?”

“Cứ để tùy hắn đi. Hắn không đánh hạ được Ngân châu thì Lô châu sẽ tổn thất binh tướng, tự tiêu hao thực lực. sau này trẫm có muốn chinh phạt thì chúng cũng khó chống đỡ. Còn nếu hắn thật sự có thể đánh hạ Ngân châu… Ngân châu vốn là đất cũ của Lý thị Hạ châu.

Hạ châu có thể dễ dàng để cho hắn chiếm đất của mình sao?”

Triệu Quang Nghĩa cười nham hiểm, lại nói: “Trên tấu sớ của hắn có giãi bày tâm tư. Khẳng khái nói rằng muốn lĩnh binh mã Lô châu đi thu hồi lại đất cho trẫm, trung thành tận tâm, đại lễ đại nghĩa như vậy trẫm sao có thể không cho phép. Ngày mai trẫm sẽ hạ chi, để cho toàn thiên hạ biết, biểu dương tấm lòng trung hậu của hắn. Nếu như hắn có thể thu phục được Ngân châu thì trẫm sẽ phong hắn làm đại nguyên soái Hà Tây Lũng, một thẩn tử tài giỏi trung thành như hắn thì trẫm đương nhiên sẽ thưởng phạt phân minh rồi ha ha ha…”

Vương Kế Àn chẩn chừ nói: “Việc này…không phải người ta đã nói rằng Chiết Ngự Huân Phủ châu, Dương Sùng Huấn Lân châu còn cả thủ lĩnh bộ người Khương Đảng Hạng và tộc người Thổ Phồn đã kết bái kim lan với hắn? Nếu như có sự tương trợ của những người đó, hắn vạn nhất thật sự đánh hạ Ngân châu.

Triệu Quang Nghĩa vuốt vuốt chòm râu. cười ha ha nhìn hắn, nói: “Trẫm lời nói nặng tựa nghìn vàng, sao có thể thất tín? Nếu hắn thật sự đánh hạ Ngân châu thì trẫm sẽ phong cho hắn làm đại nguyên soái Hà Tây Lũng, vậy thì có sao chứ?”

tiểu nhân hiểu rồi, quan gia thật anh minh.” Vương Kế Ân khom người tâm phục khẩu phục.

Đây là quan gia có ý đặt Dương Hạo lên giá nướng. Trước đây Dương Hạo ỡ trong kinh làm quan, tuy là làm quan to nhưng từ đầu đến cuối lại không có thực quyền gì, hơn nữa trong kinh lại có hai phái lớn mạnh đối đầu nhau. Triệu Phổ đã sụp đổ. phái của hắn đang ngừng công kích để tự bảo vệ lấy mình, còn một phái khác chính là nam nha, mà Dương Hạo lại dùng cái chiêu bài nam nha này để huyên hoang, cho nên cũng chưa từng có người nào đến tổ cáo, động chạm đến hắn. Nhưng lần này thì khác, nơi hắn đi vốn là một nơi cách xa hoàng đế thiên cao. Xung quanh đều là đám vương vô dụng.

Tuy nói đại nguyên soái Hà Tây Lũng chi là một hư danh, giống như cái chức đại nguyên soái của Việt vương Tiễn Thục. Ngoài binh mã bản bộ của hắn thì không thể huy động được thêm ai khác và cũng không thể thật sự kiềm chế được chư phiên, nhưng cái chức đại nguyên soái trên danh nghĩa này thử hòi cái đám chư phiên tây bắc hống hách kiêu ngạo sao có thể tiếp nhận? Một kẻ ngoài đến. Ba chân bốn cẳng mà đời trèo lên đầu chúng sao?

Nhị đào sát tam sĩ sao. Cho dù vốn có muốn liên kế với Dương Hạo cùng chống lại Hạ châu thì Chiết Ngự Huân Phủ châu. Dương Sùng Huấn Lân châu và các bộ tướng khác e là cũng không chịu để cho tên tiêu tử này vênh mặt làm cao với họ, nó rất có thể làm tan vỡ liên minh tam phương, mà cho dù hai tiết độ sứ Phủ - Lân có con mắt nhìn xa trông rộng, không bị mắc lừa, không có cách nào phá hoại được liên minh tam phương của họ thì nhất định Hạ châu cũng sẽ liệt Dương Hạo vào danh sách những kẻ tử địch cần phải diệt.

Dương Hạo nhân lúc Hạ châu đang tranh giành với Thổ Phồn, Hồi hất. chiếm lấy đất tổ tông của hắn, lại chấn động vị trí đệ nhất phiên Tây Bắc của Hạ châu, cảng như thêm dầu vào lửa. Hạ châu một khi đã nhảy ra khỏi sự kìm kẹp. không lập tức dụng binh với Lô châu mới là lạ, một hư danh đã nhẹ nhàng thêm cho hắn một cường địch không chết không thôi, cuộc mua bản này đương nhiên là rất có lòi.

Triệu Quang Nghĩa cười nham hiểm, vừa mới mở miệng ra muốn nói gì đó thì cửa điện đột nhiên bị đẩy ra. Triệu Quang Nghĩa rất tức giận, chưa được sự cho phép của hắn mà ai lại dám xông vào trong cung điện? Vương Kế Àn cũng vội vàng quay người nhìn ra cửa thì nhìn thấy một bóng người bước tới. Người đó mặc y phục màu trắng, đầu tác hơi rối. Ngay cả ngũ quan cũng nhìn không rõ, giống như một hồn ma, đi theo kèm còn có tiếng sấm đùng đoàng, làm cho một ké gan không nhó như Vương Kể Àn cũng phải lắp bắp nín sợ.

Triệu Quang Nghĩa lại không hề sợ hãi, đập bàn quát lớn: “Chưa được sự cho phép của trẫm ké nào lại dám vào cấm cung?”

“Phụ thân, là hài nhi. hài nhi có chuyện muốn thỉnh giáo phụ thân.”

Người mặc bạch bào đầu tóc bù xù ớ phía cửa đã mờ lời. Vừa nghe giọng đã biết chính là trướng tử Triệu Đức Sùng của mình, Triệu Quang Nghĩa bất giác ngẩn ra. sự tức giận trên khuôn mặt đã tiêu tan, giọng ôn hòa hỏi: “Là Đức Sùng à? Muộn vậy rồi, con vẫn chưa đi ngủ sao, đội mưa gió đến đây làm gì?”

Người mặc áo bào trắng liền bước vào, cả người hắn ướt đẫm. Nước mưa rò tong tong xuống nền đất. Đầu tóc hắn cũng buông xuống, ướt dinh vào má vào cổ, hai mắt như phát sáng. Vương Kế Ân nhìn thấy liền vội vàng khom người thi lễ với Triệu Đức Sùng: “Nô tài Vương Ke Àn tham kiến hoàng tử.”

Triệu Quang Nghĩa xua tay nói: “Kế Ân, khanh lui ra ngoài trước đi.”

“Vâng.”

Vương Kế Ân đáp một tiếng rồi vội vàng lui ra khỏi đại điện, lại đóng cửa lại, quay đầu nhìn thấy mấy thái giám đang hoảng hổt chạy tới điện, người nào người nấy ướt như chuột lột. Đến dưới mái hiên cung, vừa nhìn thấy Vương Kế Àn mặt mày âm trầm đứng ớ đó. Mấy tên thái giám liên vội bước tới trước hành lễ: “Tham kiến tổng quản.”.

Vương Ke Ân tức giận quát: “Các ngươi chăm sóc hoàng tử trưởng thế nào vậy? Trời mưa to như vậy, nếu mua ướt làm ảnh hưởng đến ngọc thể của hoàng tử trướng thì chặt đẩu tất cả các ngươi cũng không đền được đâu.”

Cửa cung điện đóng lại. Ngăn cách tiếng mưa lớn với tiếng quát của Vương Kế Ân, trong cung tĩnh lặng.

Triêu Quang Nghĩa nhìn dáng vẻ đứa con. bất giác nhăn mày lại, vội vàng quay người lại lấy một chiếc áo bào ở bên cạnh tấm bình phong, ân cần nói: “Qua đây. mặc áo này của phụ thân vào đã. Tránh để phong hàn, trời mưa lớn như vậy có chuyện gì nhất định muốn gặp phụ thân mà vội đến mức không mang theo ô? Con nhé. đã lớn như thế này rồi…”

Triệu Đức Sùng là con trai do của Triệu QuangNghĩa và chính thất Lý phi, hắn là hoàng tử trướng, một bậc nhân tài, thông minh lanh lợi. hơn nữa còn rất hiếu thuận. Bây giờ những đứa con khác của Triệu Quang Nghĩa vẫn còn nhor, chi có một đứa lớn như thế này. theo như quy tắc thì nên lập phủ đệ ỡ bên ngoài cung, có điêu Triệu Quang Nghĩa lại không lập phủ bên ngoài mà đã lập một cung điện đơn độc bên cạnh cửa Đông Hoa cho hắn, nghiễm nhiên là địa vị thái tử Đông cung nên sự sủng ái của Triệu Quang Nghĩa với đứa con này chi cần nghĩ cũng biết.

“Phụ thân, hài nhi có một chuyện trọng đại muốn hỏi ngươi, hi vọng phụ thân có thể nói thật cho hài nhi nghe.”

Triệu Quang Nghĩa có chút kinh ngạc, ngưng thẩn nhìn con mình một hồi lâu. rồi tươi cười nói: “Được rồi, con hòi đi, có chuyện gì đáng để cho con lồ mãng như vậy.”

Triệu Đức Sùng hít một hơi thật sâu. bước lại gần hai bước, trầm giọng hỏi: “Phụ thân, bá phụ…thật sự là bị bạo bệnh mà băng hà?”

“Cái gì?”

Triệu Quang Nghĩa run run đầu ngón tay. đôi mắt của hắn mở to. Mắt lạnh nhìn thẳng vào Trinh Đức Sùng, lớn tiếng nói: “Đức Sùng, con đang nói cái gì?”

“Hài nhi là muốn hỏi phụ thân, bá phụ…thật sự bị bạo bệnh băng hà sao?”

Sắc mặt Triêu Quang Nghĩa xanh lại, nghiêm giọng nói: “Con đã nghe thấy những gì?”

Triệu Đức Sùng khẳng khái nói: “Hài nhi nghe nói bá phụ không phải vì bệnh mà băng hà, mà do có người mưu hại. Hài nhi còn nghe nói bá phụ vốn có ý lặp Đức Chiêu ca ca làm người kế vị. Chứ không muốn truyền vị cho phụ thân. Hài nhi còn nghe nói bá phụ băng hà vào buổi tối, phụ thân cũng đã từng nhập cung vào đêm đó, hài nhi còn nghe nói đêm đó trong nam nha cảnh giác cao….”

Hắn còn chưa nói hết câu thì Triêu Quang Nghĩa đã đi tới gần. Giơ tay ra tát một phát vào mặt hắn, Triệu Đức Sùng lào đào: “Súc sinh, dám nói như thế với phụ thân sao?”

Khóe miệng Triệu Đức Sùng chảy ra một vệt máu. Lại hoàn toàn không tỏ ra sợ hãi, lớn tiếng nói: “Phụ thân, tại sao lại không trả lời câu hỏi của con. trong việc này có phải thật sự có âm mưu gì không? Có phải phụ thân đã âm mưu soán vị? Có phải phụ thân đã hành thích phạm thượng tiên đế? Có phải.”

“Nghịch tử!”

Triệu QuangNghĩa nổi giận lôi đình, hắn túm lấy cổ áo Triệu Đức Sùng, một tay giơ lên cao, nhưng nhìn thấy trên má đứa con in năm vệt ngón tay, trong lòng lại mềm lại, hất tay ra. làm cho Triệu Đức Sùng ngã xuống đất, Triệu Quang Nghĩa lớn tiếng quát: “Những lời đại nghịch bất đạo như vậy mà ngươi cũng có thể hỏi sao? Nếu như những lời này không phải là ngươi nói thì ta hôm nay sớm đã chặt hắn ra làm nghìn mảnh rồi.”

Triệu Đức Sùng không buông tha. vẫn truy hỏi: “Phụ thân, hài nhi chi hỏi người, những lời đồn đại đó có phải là thật không? Hài nhi chỉ muốn biết chân tướng, chỉ muốn biết phụ thân của mình có phải là loại tiểu nhân hèn hạ nham hiểm không, phụ thân không dám trả lời hài nhi sao?”

“Không phải, đương nhiên là không phải.”

Triệu Quang Nghĩa rít lên nói: “Vì từ cuối Đường cho đến nay chính quyền lúc lên lúc xuống, tiên đế rất để phòng, lo lắng gi­ang sơn Triệu thị ta mới định, rất dễ bị đồ, lập ấu tử sẽ làm cho cục diện bị suy yếu, làm cho gi­ang sơn Triệu Tống ta bất ôn. như vậy mới quyết ý truyền cho đệ mà không truyền cho con. để củng có gi­ang sơn Triệu gia ta, làm sao lại có chuyện soán vị mưu nghịch?”

Triệu Đức Sùng hồ nghi nói: “Phụ thân nói thật chứ?”

\\

Triệu Quang Nghĩa nổi giận lôi đình: “Đồ hồn xược, lẽ nào còn muốn ta phải thề mới trời thì ngươi mới tin.”

Triệu Đức Sùng đột nhiên đứng dậy nói: “Được, hổm nay hài nhi sẽ tin lời của phụ thân, trời mua tâm tã, thiên hạ bi thương, nhưng dù cho mưa có to hơn nữa cũng sẽ không thể rửa sạch được tội ác! Hài nhi không dám lừa gạt phụ thân, càng không dám lừa gạt quân vương. Hài nhi không muốn làm một đứa con bất hiếu, lại càng không muốn làm một thân tử bất trung. Nếu như có một ngày để cho hài nhi biết được phụ thân lừa gạt hài nhi, hài nhi sẽ thà chế cũng không theo phụ thân làm một loạn thần tặc tử!”

Triệu Quang Nghĩa bị đứa con trai từ trước đến nay luôn ngoan ngoãn nghe lời chọc tức làm cho giận đến nín cả người. Hắn cầm lấy tách trà ném xuống đất. tách trà rơi xuống kêu choang một tiếng vỡ vụn. Triệu Đức Sùng lại mắc phải cái tính bướng binh, hắn lau máu ờ khóe miệng, quay ngươi bước đi. Triệu QuangNghĩa tức giận quát lớn: “Đứng lại, những lời đồn đại này ngươi nghe được từ đâu, những yêu ngôn mê hoặc dân chúng, đáng tru di.”

Triệu Đức Sùng dừng bước ngẩng cổ nói: “Người trong sạch tự sẽ trong sạch, người nhơ bẩn tất vẫn nhơ bẩn. Nếu đã là phong ngôn thì sớm muộn cũng sẽ tiêu tan, phụ thân nếu muốn lấy chém giết để diệt lòi phi bảng, không sợ sẽ thực sự ngồi vào cái tội danh hành thích vua sao?”

Triệu Quang Nghĩa giận dữ đến cực độ, quát to: “Nghịch từ, cút ra ngoài.”

Triệu Đức Sùng cất bước đi, Vương Kế Án đang đứng ở bên ngoài thấy Triệu Đức Sùng ra liền khom người chào. Triệu Đức Sùng mắt cũng chẳng thèm liếc nhìn, xông thẳng vào trong màn mưa. Mấy tiêu thái giám vội vàng chạy theo, khoác áo mưa lên người hắn, bật ô ra che, hộ tống Triệu Đức Sùng đi.

“Tên tiểu súc sinh này, tên tiểu súc sinh này…”

Triệu Quang Nghĩa tức giận đập bàn quát, nhưng cũng không biết phải làm thế nào. đứa con trai này của hắn thông minh lanh lợi. nhân từ hiếu thuận, cái gì cũng tốt, chi có mối cái tính thẳng thắn đến mức ngu xuẩn, cứ thích xoáy vào chỗ có vấn để. gặp phải đứa con như thế này thì người làm cha ngoài việc thổi râu trợn mắt cũng không còn cách nào khác.

Triệu Đức Sùng vừa bước đi thì Vương Kế Ân lại giống như một con chuột rón rén bước vào, Triệu Quang Nghĩa hai mắt hơi híp lại, nghiêm giọng hỏi: “Đức Sùng y phục không chỉnh tề, đầu tóc bù xù. xem ra là đang định đi ngủ thì lại chợt chạy đến gặp trẫm, đứa trẻ này bề ngoài thì yếu đuối, nhưng nội tâm lại rất mạnh, nhất định là đã nghe những lời nói khiến nó không chịu nổi. Lúc nãy…khanh có từng nghe nói vừa rồi có ai vào tẩm điện của Đức Sùng không?”

Vương Kế Ân khom lưng nói: “Quan gia. Đã giờ này rồi ai còn đến chỗ ở của hoàng tử chứ, tiểu nhân đã hỏi thử; cả ngày nay đều mua, chưa từng có người đến cung hoàng từ.”

“Sao cơ?” Triệu Quang Nghĩa nhìn Vương Kế Ân, ánh mắt như dao nhìn hắn, làm cho Vương Ke Àn lạnh toát cả người.

“Kế Ân, khanh hăy thay hết tất cả người bên cạnh của Đức Sùng, sau đó…. ùm, không được, không thể thay. nếu như thay người thì ta e là sẽ làm cho nó sinh nghi, hãy sắp xếp mấy người đáng tin đi chăm sóc cho nó. ai dám nói năng xằng bậy trẫm tuyệt đối sẽ không tha.”

“Vâng!”

“ừm, bên hoàng tẩu. Triệu Đức Chiêu. còn…Vĩnh Khánh, bao gồm cả Triệu Đức Phương, tất cả đều phải giám sát chặt, gi­am lỏng trong cung uyển, không được xuất nhập, không được để cho bọn họ gặp nhau.”

“Vâng!”

“Đi đi. trẫm muốn đi nghỉ rồi.”

Vương Kế Ân gật đầu cúi người rời khỏi cung điện. Triệu Quang Nghĩa chán nản ngồi xuống bên cạnh thư án. đột nhiên không nhịn được mà rùng mình lo sợ. lúc này mồ hồi đà thắm cả vào áo.

“Đức Sùng nghe được tin này từ đâu? Hoàng huynh bạo tử. đệ kế hoàng vị. vốn đã có nhiều nghi ngờ. nhưng không có bằng chứng gì cả. Cho dù là có ngầm bàn luận thì ai lại dám nhắc đến với con trai ta chứ? Có phải là vì mấy ngày nay mưa liên tiếp, sắm chóp đầy trời đám nội thị trong cung sợ uy trời lúc nói xằng bậy đã không cần thận đẻ cho con ta nghe thấy. hay là… Vương Kế Ân có lòng dạ khác, sợ ta qua cầu rút ván dùng cách đối phó với Dương Hạo để đối phó với hắn. Có ý sai khiến đám người tai mắt trong cung của hắn cố tình thị uy với ta?”

Triệu Quang Nghĩa suy đi tính lại. nhưng mãi vẫn không nghĩ ra được khúc mắc ờ chổ nào. hắn bây giờ đứng ở vị trí cao nhắt trong cung, bất kể là chuyện gì thì đều sai người đi làm. nhưng lúc này lại sinh sự cảnh giác, ai cũng muốn phòng. Nghe tiếng gió mưa rít gào bên ngoài hắn thật sự nảy sinh cảm giác cô gia quả nhân.

Chính vào lúc này thì cánh cửa cung điện lại vang lên tiếng gõ. Triệu Quang Nghĩa giật nảy mình, hắn thật sự tức giận, lúc này rồi ai lại còn dám to gan. chưa được truyền mà lại đến tẩm cung của hắn?

Hắn quát lên hỏi một tiếng, thì nghe thắy một giọng nhỏ nhỏ của tiểu hoàng môn ở bên ngoài: “Quan gia. ngoài cung truyền đến tin cắp bách, tiểu nhân không dám trì hoãn. Kinh động quan gia nghỉ ngơi, đáng chịu tội.”

“Tin cắp bách ngoài cung?” Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc, vội nói: “Mau mau vào đây. đưa cho trẫm xem.”

Từ sau khi Triệu Quang Nghĩa đãng cơ xưng đế. hắn đã thay đổi chế độ trong cung, trước đây Tống đình cung nghiêm căn bản không nghiêm, nói rằng đến giờ phải đóng khóa tất cả các cửa. nhưng thực ra mười ngày thì có đến chín này không cấm cung môn. Tâm phúc đại thần, bao gồm cả hoàng tộc giống như hắn nhưng có chuyện gì thì vẫn có thể đến như thường. Triệu Khuông Dận từ trước đến nay không hề ngăn cấm. Nhưng từ sau khi hắn xưng đế lại thay đổi thỏi quen lười nhác này. Đến giờ thì cửu môn cung cấm nhất loạt đóng cửa. Bất kể ai cũng không được vào. Nếu như có đại sự vô cùng cấp bách, ngoại thằn cũng không được nhập cung, chỉ có thể viết ra chuyện muốn bẩm báo. Cho vào trong hộp nhò. đóng phong ấn rồi đút vào một cái lỗ nhỏ phía bên trên cửa cung, nếu như không phải là chuyện quan trọng thì trở về sẽ là bị chịu phạt. Từ sau khi hắn đãng cơ đây là lần đầu tiên có ngoại thần ban đến dâng tấu sớ khẩn, hắn sao có thể không lo lắng.

Cửa mở ra, một tiểu hoàng mòn bẻ một chiếc hộp vội vàng chạy vào, cả người ướt hết. Dính chặt vào người. Triệu QuangNghĩa mở chiếc hộp ra. Lấy tờ tấu chương ra xem, bất giác mặt hắn biến sắc: Hoàng Hà ngập lụt. Thế nước nguy hiểm, để của huyện Tuấn thượng du có xuất hiện ba lỗ hổng và đã bị nước phá vỡ, buổi tối hôm nay đưa các quan viên quản lý để Hoàng Hà đi tuần sát đến huyện Tuấn. Hiện giờ huyện lệnh Vi Tam Đạo đã đưa gia quyến đi trốn chạy, bách tính già trẻ gái trai huyện Tuấn đã chạy tháo mạng cả đêm, quan viên tuân thị đang ngăn cản tráng đinh, điều động quân đội gia cố để điều, thinh cầu bệ hạ lập tức rời kinh thành.

Để huyện Tuấn một khi đã bị phá thì nước lũ sẽ đổ xuống, cả thành Khai Phong đều sẽ biến thành một đại dương mênh mông, còn có cục diện nào nguy hiểm hơn thế? Rời khòi hiểm địa sao? Làm thế nào để rời khỏi hiểm địa? Triệu Quang Nghĩa lo lắng đển mức cảm thấy mắt mình tối đen cả đi. vô số tiền bạc lương thực đều ớ Khai Phong, bảy. tám phần tích lũy đều ớ đây, một khi nơi đây biến thành đại dương thì cho dù hắn có thoát đi thì còn có cái gì nữa? Thoát đi rồi hắn thoát được rồi thì dán chúng Khai Phong phải thoát như thế nào? Nếu như Khai Phong bị…

Triệu Quang Nghĩa tái nhợt mặt đi, hắn không ngờ nguy cơ đẩu tiên mà hắn gặp phải sau khi kế vị không phải đến từ Khiết Đan , cũng không phải vì hành vi soán vị của mình dẫn đến sự công kích tiêu diệt từ triều đình mà lại là từ họa trời Với cái uy thiên tử khi đứng trước họa trời cao thám khó lường thì liệu có bao nhiêu sức mạnh để phán kháng chứ?

Rời khỏi hiểm địa. Rời khỏi hiểm địa… Nếu như Khai Phong bị nhấn chìm thì còn có mảnh đất nào không nguy hiểm chứ… Chính vào mấy tháng trước, tiên đế ớ Lạc Dương đã đưa ra việc rời đô, trong đó một lý do quan trọng chính là Khai Phong dễ chịu họa thủy, bây giờ tin đồn soán vị lại đang truyền trong triều đình, nếu như Khai Phong bị mất thì tất cả sự hiềm nghi trong triều đình, những lời đồn thổi khắp thiên hạ cũng đủ kéo hắn xuống khỏi cái hoàng vị này. Lần nguy hiểm này hắn nhất định phải ngẩng đầu mà xông qua, tuyệt đổi không thể tháo chạy.

Triêu Quang Nghĩa đột nhiên nắm chặt lấy tờ tấu chương. Hét lớn: “Mở cửa cung, lập tức cho truyền lục bộ tuyên lưỡng phủ. Công khanh toàn triều, tất cả các quan viên từ tứ phẩm trở lên đến Văn Đức diện hậu giá. Trẫm muốn dẫn tất cả văn võ triều đình đích thân đến Hoàng Hà thủ để. để còn người còn, để mất người mất!”

Dưới thành Ngân Châu , những mũi tên sắc bên đảm xuyên qua cơ thể người. Chủ khách gi­ao chiến với nhau, sơn xuyên chấn động…

Trong những chiếc hào hộ thành rộng và sâu đã chất đầy những thi thể. Không phân biệt quý nhân hay thiện nhân, tất cả đểu là xương khổ…, gió đêm thổi qua. làm cho từng đợt khí tanh nôi lên. có thể ấy sự thảm khốc của cuộc chiến buổi sáng giữa hai quân.

Dương Hạo thật sự không ngờ phòng ngự thành trì Ngân châu lại vững trãi, không thể làm chấn động như vậy. khắp nơi đểu là bẫy giết người. Bốn phía tường thành, hắn chi phụ trách một phía, hơn nữa lại còn là phía yếu nhất mà kết quả đã như vậy. mười mấy ngày đại chiến hắn cũng đã tổn thất hai phần nhân mã, một vạn binh mã đã tổn thất hai phần, vậy năm vạn đại quân của Da Luật Tà Chân sẽ tôn thất bao nhiêu đây?

Dương Hạo không dám nghĩ, nhưng cả ngày chi nhìn thấy những thi thể chất đống, người bị thương đấy lán. Ý chí của hắn sắp vỡ tan rồi đã chết hai nghìn quân, thương ba nghìn, thương vong nhiều như vậy là trách nhiệm to lớn mà hắn không có cách nào tiếp nhận được. Trước đây hắn đã nghĩ mọi chuyện thật đơn giản, nhưng hiện thực đẫm máu cuối cùng đã làm cho hắn nhận thức được tranh bá thiên hạ là một cuộc chiến tranh tàn khốc như thế nào. Vinh quang và quyền uy của hắn được xây dựng trên xương cốt của biết bao người.

Phía Ngân châu sao lại có thể xây dựng thành một địa ngục tử vong như thế? Dương Hạo biết vũ khí công thành của mình lợi hại hơn nhiêu đối phương, nhưng vẫn có một cảm giác không thể nào triển khai hết sức lực. Mỗi lần khi hắn muốn tìm một chiến thuật công thành nào đó thì trong thành hình như cũng có thể đi trước một bước mà tìm ra đối sách, làm cho hắn không thể nào thi triển được.

Hắn mới công kích một phía, nhung mỗi lẩn ra tay hình như luôn bị đối phương tìm ra khuyết điểm của mình, đánh phản chế lại. Những cỗ máy chiến tranh đối diện với đối thủ cao minh vẫn phải lực bất tòng tâm. Một chiếc đại chùy mấy trăm cần hoàn toàn có thể đập nát những tảng đá cực lớn trước mắt. cho dù không thể đập nát nó thì cũng có thể đập nó thành những mảnh nhỏ. nhưng người giơ chiếc chùy nặng đó lên lại là một đứa trẻ. chưa cần nói đập nát nó. chi cẩn không đập thương chán chính mình đã là tốt lắm rồi.

Rõ ràng Ngân châu đang thủ thành, hắn đang công thành vậy mà Dương Hạo lại luôn có một cảm giác như kiểu chịu sự tấn công của địch ở bốn phía. Trận này nếu có thắng thì tất cả tổn thất cũng có thể lên tới mười lần. Một trăm lần. Nhưng khi mà hắn đã xuất ra một vốn lớn như vậy, nếu như còn không thể công phá được thành Ngân châu thì phải làm sao? Lô châu sẽ trở thành không bị tấn công mà tự diệt, hắn, một người có hi vọng thống nhất Tây Vực nhất lại sẽ có thể sụp đồ nhanh nhất.

Trời không lạnh, một ngày đầy trăng và sao. Chi ngắm bầu trời đẩy sao đã lãng mạn lắm rồi, nhưng Dương Hạo lại cảm thấy lạnh lẽo vô cùng. Hắn biết lần này tấn công thành đã không phải là việc hắn có thể quyết định tiến lùi tự do nữa, Khiết Đan cần cơ thảm hậu, có thể tiêu hao, còn hắn thì không, nếu như không công hạ được Ngân châu thì đó sẽ là thất bại lớn nhất của hắn.

Hắn cũng biết khuyết điểm lớn nhất của mình là gì. Chỉ dựa vào thân phận đặc biệt của hắn và bản tính làm người của hắn thì hắn có thể lấy tướng chiêu binh. Nhưng hắn lại không thiện thống binh, hắn vừa không có chiến thuật chiến pháp cao minh lại cũng thiểu cả việc xem chuân thời cơ. Hắn có thể làm cho tướng lĩnh tin phục, quyết tâm trung thành với hắn. Nhưng bên cạnh hắn lại thiếu những minh thần lương tướng văn năng an bang, võ năng định, quốc, nếu không trận này chưa chắc đã thảm hại như vậy.

Kha Trấn Ác nhẹ nhàng bước đến cạnh hắn. Dương Hạo hai nay nắm vào đầu gối. nhìn lên trời, vẫn không nói gì.

“Tiết soái, thắng bại là chuyện thường của binh gia. nhất thời gặp trắc trờ mà thôi, chủ động nắm vững trong tay chúng tạ tiết soái hà tất phải nản lòng như vậy. Tiết soái vẫn là thống soái tam quân ta, nếu như tiết soái không chấn tĩnh thì sĩ khí tam quân sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.

Hán cao tổ Lưu Bang lặp nên nhất thế bá nghiệp, nhưng lúc đầu ông ta rất thảm hại, để thoát mạng ngay cả hai đứa con trai cùng đây xuống xe; Lưu Bị chạy trốn khắp nơi. binh chưa tới nghìn người, tướng chi có Quan Vũ với Trương Phi. tan thương như khuyển mất nhà, so với bọn họ thì tình hình của chúng ta bây giờ không phái là vẫn mạnh hơn sao? Chí ít vẫn là chúng ta đang công thành, chi là công thành gặp trắc trờ. chúng ta vẫn chưa bại. tiết soái còn có hai đại quân ngầm mai phục vẫn chưa điều động, chưa chắc đã không có cơ hội chuyển bại thành thắng.”

Dương Hạo lắc lắc đầu: “Huynh không cần phải khuyên ta nữa, những đạo lí này …ta đều hiểu cả. Nhưng hiểu là một chuyện, có thể làm được lại là chuyện khác. Một đao một thương, từng sinh mạng đều như đang cứa vào tim ta.”

“Tiết soái lòng nhân từ. đây chính là nguyên nhân chúng tiểu nhân đi theo tiết soái, nhưng trên chiến trường chém giết hỗn loạn, tử thương là chuyện khó tránh, tiết soái không cần phải tự trách mình như vậy. Lẩn này chúng ta chủ động đến công thành Ngân châu là không sai. đây là một cơ hội. một cơ hội có thể làm lớn mạnh mình, bảo vệ mình. Nếu như chúng ta không đến. ngồi đợi Ngân Châu vững mạnh rồi đến công phá Lô Châu ta. Lô châu một khi thành thì vô số người già trẻ, đàn bà đểu chết trong tay chúng, lúc đó sẽ không còn là hai nghìn quân chết, một vạn quân bị thương mà sáu. Bày vạn dân Lô châu, đàn ông đều bị chúng chém giết như heo chó, đàn bà lại bị chúng làm nhục, làm nô tì hạ tiện.”

“Bây giờ có gì khác chứ…, Ngân châu sao lại có thể có lực phòng bị mạnh như vậy? Lại không phải là binh lực của chúng chiếm ưu thế, ưu thẻ cứ thành tự chủ cũng chưa chắc đã có thể khống chế lượng lớn vũ khí công thành của chúng ta. chúng ta trước đó đã chuẩn bị rất đầy đủ. Nhưng.. .khi thời cơ đến chúng lại lại để mất đi tiên cơ. Trong thành. ..trong thành nhất định có một cao thủ thủ thành, Khánh vương Khiết Đan là một hán tử trên thảo nguyên, hắn sao có thể tinh thông thuật pháp thủ thành như vậy?”

Nói đến đây. mắt Dương Hạo lại sáng lên. đột nhiên tinh ngộ. ánh mắt hồi phục lại mấy phần tinh minh, hắn từ từ quay đẩu lại. như thể lẩn đầu tiên quen Kha Trấn Ác vậy. Hắn chậm rãi nói: “Ta luôn chi nhớ rằng Kha huynh là tay săn ớ trong sơn trại, lại quên mất tô thượng của Kha huynh cùng là tướng lĩnh đại Đường, lấn trước nhắc nhở ta chú ý hậu trận, hổm nay lại nói ra những lời này…không biết Kha huynh có cao kiến gì có thể dạy ta không?”‘

Kha Trấn Ác nói: “Thật là xấu hổ. tổ thượng nhà ta tuy là tướng lĩnh đời Đường nhung cùng không phải là danh tướng lập được chiến công hiển hách gì, truyền đến đời Kha mồ thì bản lĩnh kế thừa lại từ tô thượng còn chưa tới một. hai phần mười, có điêu…Chưa chắc là trong quân ta không có người từng đọc thuộc binh thuộc binh thư. thiện dụng binh pháp.”

“Ai?”

Kha Trấn Ác xoa tay khom người nói: “Ngũ công tử Chiết gia.”

Dương Hạo mắt sáng lên. nghiêm giọng hòi: “Là Tử Du cử huynh đến đây?”

“Tiết soái không tính toán chê bai. vẫn chịu dùng Kha mỗ, Kha mồ và nương từ đã từng nói tính mạng này từ giờ về sau sẽ gửi lại cho tiết soái, sao có thể lại chịu sự sai khiến của người khác chứ? Ngũ công tử lần này đến Lô châu, nhưng không được vào mật thất hậu sơn, trên dưới lô châu thì đều được xuất nhập, đây là dặn đò của tiết soái, thuộc hạ sao dám kháng mệnh? Lúc đầu ngũ công tử vào trong quân ta. thuộc hạ cũng lập tức bẩm báo với tiết soái.”

Kha Trán Ác khẳng khái nói.

Chương 424: Thay đàn đổi dây

“Bây giờ thuộc hạ đến gặp tiết soái là muốn tiến cử ngũ công tử. đó là vì cả chặng đường thuộc hạ đã thấy Chiết cô nương cùng luận binh với Chiết thiếu công tử, rất có những kiến nghị độc đáo. tướng môn gia thế. từ nhỏ đã được khai trí, những kiến thức thực tế mà họ học được không hề kém những người xuất phát từ cỏ hoang như chúng tiểu nhân. Bây giờ lại thấy tiết soái đứng trước thành địch tiến thoái lưỡng nan nên mới có lòng muốn chia sẽ nỗi ưu tư với tiết soái, chứ không hề chịu sự sai khiến của bất kì ai cả. Những lời này của thuộc hạ trời đất có thể chứng giám.”

Dương Hạo vội vàng đứng dậy, tiến tới phía trước, xấu hổ nói: “Dương mồ công thành gặp trở ngại. Hỏa khí ứ đọng, cho nên có hơi nôn nóng một chút, xuất ngôn lỗ mãng vô lễ. Vẫn mong Kha huynh chở trách.”

Kha Trấn Ác từ từ thả lỏng sắc mặt. nói: “Thuộc hạ không dám. Thuộc hạ chỉ tiến cử với tiết soái, còn tiết soái có mời ngũ công tử tương trợ hay không thì vẫn phải do tiết soái quyết định.”

Dương Hạo gật đầu. ánh mắt nhìn lướt qua bờ vai của hắn. Nhìn những ngọn đèn lốm đốm bên xa xa nói: “Tấm lòng kim ngọc của Kha huynh, bổn soái hiểu, ngày mai bổn soái ngày mai sẽ đi gặp nàng ta.”

Lời nói vừa dừng lại liền thấy một hàng lửa dài như rồng, bốn phía tiếng gào thét vang lên từ xa. Dương Hạo nhái mày lại nói: “Quân thủ thành Ngân châu lại đến tập kích doanh trại Buổi sáng chúng ta công thành, buổi tối chúng đến tập kích doanh trại, đúng là ngựa người nhàn rỗi, không có khắc nào chịu dừng, chúng ta xuống núi thồi!”

Trời đã sáng rồi, doanh trại đặt bên nam thành là một đống đổ nát. Có người mang vác thi thể chất thành một đống, có người lại đào bới tìm lấy những chiếc nôi sắt từ trong đống lô đất võ vụn. Đặt lên trên tảng đá, chuẩn bị nấu cơm. Những thanh gỗ đáng được xếp thành đống trước doanh trại để gia cổ lại doanh trại, những doanh trướng bị đạp đổ đang được dựng lại. Tôn thất do trận tập kích đêm qua gây ra không phải là nghiêm trọng, quân thủ thành luôn không dám xuất thành tấn công quy mô lớn, mỗi lần chỉ dùng một ít người. Nhưng nếu đã là tập kích doanh trại thì thủ quân lại không dám khinh xuất, chi phái một đoàn binh mã ra nghênh địch, chư bộ yên tâm ngủ ngon để tránh địch thừa cơ cho nên đã đánh cho tận sức.

Bây giờ trời sáng rõ. lại đến lúc quân Dương Hạo công kích rồi

Dương Hạo cẩm kiểm đi tuần quân doanh, vừa mới bước được mấy bước thì một quả cẩu từ không trung bay vụt xuống, rơi ờ một nơi không xa. “Bùm” một tiếng nô banh ra. Tiểu Vũ vội vàng chạy nhanh như bay đến đứng chắn trước người Dương Hạo, lưng đeo một cái thuẫn, bộp bộp hai tiếng, những mánh vụn văng tứ tung, những mánh vụn đó đập vào chiếc thuẫn nhưng lại không rơi xuống mà lại bị gim ở trên đó. rồi bắt đầu bốc khói nghi ngút. Tiểu Vũ vội vàng áp cái thuẫn đó xuống, khói bay vào mũi, khuôn mặt nhỏ đó cả lên. Không chịu được mà ho khan mấy tiếng.

“Hôm nay tạm hoãn công thành, thu thập lại những xe đá, xe bắn nỏ nhắm về phía đầu thành làm tăng tính áp chế.”

Dương Hạo lớn tiếng hạ lệnh, lại nói với tiểu Vũ: “Mau đi rửa mặt đi.”

Đây là quả thuốc nổ từ trong thành bắn ra. lúc này thuốc nổ đã được ứng dụng trong chiến trường, bên Dương Hạo không thiêu các thợ có tay nghề, cũng đã chế tạo một lượng lớn VŨ khí dùng thuốc nổ, hoàn toàn có thể dùng máy bắn nỏ nhắm vào thành tiến hành phân công áp chế.

Loại hỏa dược mà trong thành bắn ra là dùng lưu huỲnh, quặng ni­torat kali, mạt than, hắc ín, rễ trúc, rễ gai. cây trầu. nến. hoàng đan…để tạo thành. Trong đó lưu huỳnh, ni­torat kali, mạt than, rễ trác rễ gai là nguyên liệu chủ yếu, những thứ còn lại tạo thành khí độc.

Dương Hạo rất có hứng thú với thuốc nổ. hắn đã từng hỏi qua cách chế tạo thuốc nổ. trong thời đại này thuốc nổ đen đã được ứng dụng trong chiến tranh, hơn nữa còn được những người thợ thủ công mở rộng dùng phối hợp với đủ loại vũ khí. Người thợ chế tạo thuốc nổ mới là người trong nghề thật sự. So với người ngoài ngành chi biết phối hợp ba loại cơ bản như Dương Hạo thì giỏi hơn nhiều.

Loại thuốc nổ được điều chế các thành phần với tỷ lệ gần đạt tiêu chuẩn nhất hắn cũng có. Có điều thuốc nổ ở thời này độ tinh luyện vẫn không đủ. Những viên thuốc nổ sản xuất ra cũng không có cách nào làm cho nó đều đặn như một. hiệu quả đốt và nổ cũng không phái là lý tưởng. Nếu như chỉ sản xuất loại thuốc nổ với sức nổ lớn nhất như thế này thì vốn bò ra là không nhỏ. Để bù đắp khuyết điểm này. Những người thợ đã trải qua vô số lần thử nghiệm, đã chế tạo ra đủ các loại vũ khí dùng thuốc nổ với những khả năng công kích khác nhau. Loại đạn khí độc này cũng chính là một trong số những loại Ngân châu dùng để thủ thành.

Dương Hạo ngoài việc biết về sự phối hợp các thành phần của ba loại thuốc nổ cơ bản theo một tỷ lệ khá tiêu chuẩn ra thì đối với việc làm sao giải quyết được sự tinh khiết của nó thì hắn hoàn toàn không biết chút gì. Làm thế nào để chế tạo ra những viên đạn. Viên thuốc nổ đều nhau, sức nổ đầv đủ hắn cũng không biết, ngay cả một số thao tác an toàn trong quá trình chế tác hắn cũng không hiểu như những người thợ thực thụ. Là một người bình thường, ở tiền kiếp hắn cũng chẳng có thời gi­an đi tìm hiểu kĩ càng về công nghệ chế tác thuốc nổ, đặc biệt còn là về loại thuốc nổ đen mà từ lâu đã bị thời đại đào thải, cho nên cũng không có được bước tiến lớn. Chỉ có thể dựa vào công nghệ và trí tuệ của đám thợ thời đại này mà thôi.

Dương Hạo vừa hạ lệnh xuống thi liền có một đám binh sĩ đẩy những chiếc xe ném đá từ trong trung quân ra. hướng về phía trước. Bây giờ dùng những thứ này để phá vỡ sự phòng ngự ở đầu thành, xe bắn nỏ cũng được kéo ra, tiến hành áp chế hỏa lực, cung tiễn và quả thuốc nổ. Trong đạn độc khí ngoài thành phần thuốc nổ còn có cả cò ở đầu. ba đậu. lang độc, thạch tín, đốt tất cả lên sẽ làm cho người ta muốn ói mửa. Làn khói này một khi đã kết hợp dày đặc lại thì đủ làm cho người ta phải chảy máu mũi. mất đi khả năng chiến đấu.

Hôm nay không có gió, cho nên hai bên không hẹn mà cùng dùng vũ khí hóa dược, đám xạ thủ đã lấy khăn ướt che mặt. nhắm bắn về phía đẩu thành, đẩu thành rất nhanh đã bên lửa. bao phù dày đặc bời lớp khí độc.

Khi Dương Hạo quay trở lại trung quân thì trời đã sáng hẳn. Tiểu Vũ đã bê một chậu nước lên cho hắn, lại đi bày đồ ăn ra, Dương Hạo cởi bỏ áo giáp, rửa mặt rồi đột nhiên đứng bất động nhìn vào cái bóng trong chậu nước.

Hắn đứng ớ đó. nhìn chăm chú vào trong, xoa xoa cẳm mình một hồi. rồi xoay người lại đến bên giường, mặc áo giáp lại. Không có sự giúp đỡ của Tiểu Vũ nên chiếc áo giáp xiêu xiêu vẹo vẹo, Dương Hạo lại bước tới bên chậu nước rồi nhìn chăm chú. Sau đó gật gật đẩu hài lòng. Cất bước đi ra ngoài.

Tiểu Vũ đang bưng cơm bước vào thì thấy Dương Hạo bước ra khỏi trướng, ngạc nhiên hỏi: “Đại nhân, ngài lại muốn đi đâu vậy?”

Dương Hạo nói: “Ta muốn ra ngoài đi lại một chút.”

Tiểu Vũ vội nói: “Đại nhân, đợi đã, để tiểu nhân đi cùng.”

Dương Hạo cười nói: “Ngươi cứ ăn cơm đi rồi hãy tính. Không cẩn phải đi theo bổn soái đâu.” Nói xong hắn liền vén tấm trướng bước ra ngoài.

Nơi ở của Kha Trấn Ác là phía tà doanh, Dương Hạo đi thẳng vào trong doanh bàn, đến gần quân trướng của Kha Trấn Ác. cũng không cẩn người thông báo. Hắn đi vòng qua quân trướng của Kha Trấn Ác. tới cái trướng phía sau cái trướng đó.

Trong trướng, phía dưới đất có mấy hình tròn được vẽ bẳng mũi kiếm. Chiết Tử Du mặc một bộ hiệu úy. tay cẩm kiếm chi về những hình tròn chẳng chịt phúc tạp dưới đất. lẩm bẩm nói. cũng không biết nàng ta nói gì. ở góc trướng, Chiết Duy Chính đang bẽ một bát thức ân đầy ăn nhồm nhoàm, hoàn toàn không để ý xem tiểu cô cô đang bận cái gì.

Dương Hạo đứng ngoài trướng ho một tiếng, cất cao giọng nói: “Ngũ công tử, xin hỏi bổn soái có thể vào không?”

“ơ.”

Chiết Duy Chính mồm đang ngậm cơm. Ngẩng đầu nhìn, không hiểu nói: “Dương thái úy?”

Chiết Tử Du vội dùng giày gạt đi những hình vẽ dưới đất. Chiết Duy Chính kinh ngạc nhìn nàng. Chiết Tử Du liền chạy tới trước mặt hắn, nhìn vào chiếc bát không ở dưới đất. ngạc nhiên hỏi: “Con của ta đâu?”

Chiết Duy Chính nói: “Tiểu cô cô. không phải nói là không có khẩu vị sao? Cháu đã ăn hết rồi.”

Chiết Tử Du tức giận trừng mắt nhìn hắn. Trách mắng: “Như con lợn ý, thế mà ngươi lại dám ăn, bê ra ngoài đi. làm bẩn cả trướng của ta.”

“Vâng vâng vâng.” Chiết Duy Chính bê bát cơm đã hết chạv ra ngoài, gặp Dương Hạo ở phía cửa chính, Chiêt Duy Chính liền cười khan hai tiếng nói: “À…tiểu tử Duy Chính. ..tham kiến tam thúc…”

Tuy nói hai người tuổi tác tương đương nhau, nhung Dương Hạo là huynh đệ kết bái với phụ thân hắn, tiếng tam thúc này hắn phải gọi. Dương Hạo gật gật đâu chi vào trong trướng. Chiết Duy Chính cũng gật gật đầu, rồi lắc lắc đẩu, bĩu môi bước ra ngoài.

Những dấu yết Chiết Tử Du đã xóa đi xem ra đã không còn sơ hờ. lúc này nàng ta mới lắc người đến bên giường, lấy một chiếc gói từ trong người, mở ra, trong đó là mấy miẻng điểm tâm. Chiết Tử Du cắn nhẹ một cái, nói: “Vào đi.”

Dương Hạo bước vào trong trướng, thấy dáng vẻ của nàng liền hòi: “Thức ăn không hợp khẩu vị sao? Nàng là quý khách, lát nữa ta sẽ sai người mang thêm một chút thức ăn đến cho nàng nhé. Tử Du. ta…”

Chiết Tử Du trừng mắt lên. sắng giọng nói: “Có phải là lại muốn ãn đòn không, không phải đã nói là không cho phép gọi tên ta cơ mà.”

“À, ngũ công tử.” Mồm Dương Hạo nhanh như nước chảy, lập tức đã thay đổi cách xưng hô.

Chiết Tử Du lật mặt nói: “Dương thái úy quân vụ bận rộn, hôm nay sao lại có thời gi­an đến chỗ ta thế, có việc gì à?”

Dương Hạo cười ha ha. không hề coi mình là người ngoài. Hắn bước tới. ngồi xuống chiếc giường Chiết Tử Du đang ngồi. Chiết Tử Du như thể dưới mông có lò xo, nhảy dựng lên. Tức khí trừng mắt nhìn hắn. Dương Hạo lại hồn nhiên như không biết gì, mỉm cười nói: “Ta đến đây kỳ thực là không có chuyện gì, vì quân vụ bận rộn chưa có thời gi­an đến thăm hai người.

Đêm qua quân ta bị địch tập kích, doanh trại bị công kích lại gần với trướng của ngũ công tử. ta quả thực không yên tâm, cho nên đến xem một chút.”

“Vậy thì vất vả cho Dương thái úy rồi.”

Chiết Tử Du lạnh lùng nói: “Gia chủ Chiết thị ta kết nghĩa kim lan với Dương thái úy. Hỗ trợ công thủ. hai bên là liên minh. Phủ châu ta đương nhiên phải có chút hiểu về tình hình quân lực của Lô châu, nên đã cho nữ tử và con cháu theo quân đến đây. Lần này đến chi mang theo đôi mắt. sẽ không can dự vào đại sự quân cơ của Dương thái úy đâu. Còn về việc tự bảo vệ mình thì chi cần tam quân của Dương thái úy không bị tan thì cũng sẽ không có trờ ngại gì. Thái úy có rất nhiều đại sự cần làm, không cần phải phân tâm.”

Dương Hạo xoa xoa mũi, cười gượng nói: “Ta đương nhiên là không có nghi kị gì với nàng, chi là lo lắng cho an nguy của nàng thồi, giờ thấy nàng không sao ta đương nhiên cùng yên tâm rồi.”

Chiết Tử Du liếc mắt nhìn hắn. Thấy áo giáp xiêu vẹo. mặt đầy phong trần, bất giác động lòng, lại nhìn kỹ hơn. Dương Hạo bình thường cũng được coi là người chủ ý vẻ bên ngoài, đặc biệt là sau khi trờ thành thống soái tam quân, nhưng lúc này hắn lại đây phong trần, dáng vẻ như là vừa từ chiến trường trờ về đã chạy thẳng đến chỗ nàng ta vậy. Thấy thế, ngữ khí của Chiết Tử Du cũng ôn hòa hơn, hói: “Đêm qua thương tổn như thế nào?”

Dương Hạo lắc đầu nói: ‘Quân địch luân phiên tập kích doanh trại, đều dùng chiến thuật quấy rối, đánh một trận rồi chạy đi, không có tổn thất gì lớn, nhưng nếu muốn đuổi thì quả thật không dễ. Tường thành, cổng thành, ủng thành, mã diện, máy bắn nỏ. Địch lâu.. .đều tạo thành một mạng lưới xạ kích dày đặc. truy binh của ta một khi áp sát vào sẽ trở thành bia ngắm sống, trong đêm tối truy kích khấn cấp. Lại không thể dùng được những vũ khí cỡ lớn. Haizzz, thật là làm cho người ta đau đầu.”

Dương Hạo thở dài. nặng nể nói: “Ta vốn tướng rằng mình có thể thao luyện trên triều đình thì trên chiến trường cũng có thể gánh vác được trọng trách như thế, nhưng đi tới đây mới biết trên chiến trường không cho phép một chút hư giả. Chiến công đó đểu là từng nhát đao từng mũi kiếm, dựa vào thực lực bản thân để giành về. Bày binh bổ trận như thế nào. Điều binh khiển tướng như thế nào. Làm thế nào để điều động chư quân trở thành trận hình phối hợp tác chiến hoàn hảo nhất, làm sao để nắm bắt chiến cơ kịp thời chuẩn xác…Những việc này không phải chi cần dựa vào một chút thông minh là có thể làm được. Đó đều phải là học được từ trong binh thư chiến lược mà vô số tiền bối đã dùng tính mạng mình viết nên. Là vô số những thành công, thất bại do bản thân đích thân xông trận đổi lấy được. Ta vẫn còn kém rất xa. Nhưng binh mã Lô Châu ta sẽ không chịu nổi một tiêu hao cực đại như thế để ta trở thành một lương tướng tài giỏi.”

Hắn cười khổ một tiếng: “Ta bây giờ đã mệt mỏi lắm rồi. Haizz! Cũng chính là trước mặt nàng ta mới dám nói ra những lời này. Ra đến ngoài cánh cửa kia, sẽ không nói nữa. Ta bây giờ đã cưỡi lên lưng hổ. Bất luận như thế nào cũng phải cắn rằng mà chống đỡ tiếp.”

Hắn đứng dậy nói: “Việc trong tay quả thật là quá nhiều, nếu như nàng không có chuyện gì thì ta cũng yên tâm rồi.”

Hắn đi tới cửa trướng, đột nhiên quay đầu lại dặn dò: “Lát nữa nàng hãy chuyển sang bên hậu trận, ta sẽ sắp xếp mấy kị khoái cho nàng, nếu như thật sự không còn cách nào khác thì hãy xem tình hình mà rời sớm khỏi đây.”

Chiết Tử Du nhìn hắn thật lâu. khuôn mặt hắn rõ ràng là đã gầy đi nhiểu. bên má phải còn dính mấy vệt máu tươi, râu cũng chưa cạo hết. ánh sáng mặt trời chiếu lên khuôn mặt hắn, trong mắt hắn đã đỏ thêm mấy phần tia máu, nhưng hắn lại vẫn rất ân cần với nàng. Chiết Tử Du đã mềm lòng, thốt lên nói: “Bây giờ đã biết mình không làm nổi thống soái một phương rồi chứ? Bản thân ngài, bao gồm cả binh tướng thuộc hạ của ngài nữa, nào có ai là tướng lĩnh thật sự? Chỉ dựa vào đám quân ô hợp, cho dù có chuẩn bị tốt vũ khí thì sao có thể phát huy được điểm mạnh của nó chứ, may mà trước khi ngài xuất quân vẫn còn có đẩy lòng quyết tâm.

Hừ! Nếu như mà do ta chi huy thì những người đó và cả những quân bị đó tất sẽ dùng cao minh hơn ngài.”

Hai mắt Dương Hạo sáng lên. vội hỏi: “Thật sao? Vậy Tử Du có chịu giúp ta một tay không?”

Chiết Tử Du tỏ ra giận đỗi. quay đẩu nói: “Đây là binh mà Dương thái úv đích thân chi hụy. Ta có thân phận gì chứ, giúp thế nào được cho ngài? Hơn nữa, để một nữ nhi thay ngài chổng binh, ngài không sợ anh hùng trong thiên hạ chế nhạo sao?”

Dương Hạo nói: “Sao có thể chứ. Từ xưa nữ kiệt đã không thua gì đấng mày râu. Công chúa Lý Tú Ninh ở Bình Dương thời Đường đã lấy thần phận nữ như để triệu tập bảy vạn binh. Khi Lý Uyên vẫn chưa tiến quân vào thành thì Lý Tú Ninh đã giúp hắn lấy được gi­ang sơn rộng lớn, lúc đó mấy vị bào huynh của nàng ấy vẫn còn chưa được lập vị. Ta tuy chưa từng thấy được kì nữ Đại Đường nhưng ta tin với văn thao vũ lược của Tử Du. Nếu thi triển ra bất luận thế nào cũng sẽ không hề kém Lý Tú Ninh.”

Chiết Tử Du tức giận trợn mắt lên. thẩm nghĩ: “Xem người lấy ví dụ kìa. Nữ trung hào kiệt ngày xưa có những người như Phan tướng quân, Tiền phu nhân, đó đều là những nữ kiệt không kém đấng mày râu. Nhưng ngươi lại đi lấy Lý Tú Ninh làm ví dụ. Người mà Lý Tú Ninh giúp đỡ là cha nàng ta, thế ta là con gái ngươi sao?”

Nghĩ đến đây. nàng đột nhiên nhớ đến Phan tướng quân, Tiền phu nhân đều là giúp cho tướng công của họ. bất giác má nóng cả lên.

Dương Hạo đi tới trước mặt nàng, thành khẩn nói: “Tử Du, trước đây có những chồ có lỗi với nàng, đều là tội của mình Dương Hạo ta. Bây giờ Lô châu. Phủ châu có phúc cùng hưởng, đồng tiến đồng thoái. Đây là đại nghĩa, vì thế có rất nhiều tư oán hãy buông ra đi. Nếu như nàng vẫn còn canh cánh vì những điều sai trái của ta ngày xưa thì nàng cứ chém ta ba nhát đi. chi cẩn nàng chịu tương trợ ta một tay, việc này có đáng là gì. nàng bớt giận là được rồi.”

“Ai thèm chém ngài ba nhát chứ. ta…ta…ừm.”

Chiết Tử Du nhìn Dương Hạo rát dao ra. không khỏi choáng váng, chiếc dao đó rất sắc bên, nhó nhắn, là dụng cụ dùng để cắt thịt khi dùng bữa, nếu như dùng nó để đâm lên người có lẽ vẫn có thể tạo thành thương tổn nhất định, nhưng dùng nó để chém thì…, Chiết Tử Du vắt óc suy nghĩ mà cũng không tường tượng được ra dùng mấy ngón tay thon nhỏ cẩm vào chiếc chuôi của chiếc dao nhó đấy. làm thế nào để có thể chém xuống được.

Nàng không nhịn được cười, bật cười rồi lại cố gắng nhịn lại, gắt giọng nói: “Sao ngài lại vô lại đến thế.”

Dương Hạo nghiêm trang nói: “Nếu như dùng đại đao chém tạ thượng thế nghiêm trọng, ta không che giấu được, sợ là sẽ làm tổn thương hòa khí của hai nh Chiêt Dương. Nàng dùng chiếc dao nhó này làm cho hả giận là được rồi. Nói ra thì chúng ta cũng đâu có thâm thù đại hận gì.”

Chiết Tử Du sịt mũi tức giận nói: “Miệng lưỡi xảo quyệt, càng ngày cảng chẳng ra gì!”

Miệng thì nói như vậy. nhưng ánh mắt nàng ta lại trờ nên hiển dịu hơn. Nàng liếc mắt nhìn cái ké mà luôn làm cho người ta dờ khóc dờ cười kia, lật mặt nói: “Ba dao này tạm thời để đấy đã, bổn cô nương khi nào muốn chặt đẩu ngài thì ngài đểu phải ngoan ngoãn mang đầu đến là được rồi.”

Dương Hạo mặt mày tươi cười nói: “Được, chúng ta định như vậy.”

Chiết Tử Du trong lòng như dễ chịu rất nhiều, nói: “Trong thành Ngân Châu nhất định có người giỏi công thủ thành tri Mấy ngày hôm nay ta đã quan sát rất kĩ. đoán chiến thuật của hắn, hơi có chút tâm đắc, có điểu ta cũng không nắm chắc sẽ thắng hắn, nhưng tính ra thì vẫn cao minh hơn so với sự chi huy hồn loạn của ngươi bây giờ một chút. Cũng mạnh hơn bảy, tám phán, còn về có thể hạ được thành hay không thì ngươi cũng đừng hi vọng nhiêu quá chúng ta vẫn còn phải đợi thời cơ.” A ‘

Dương Hạo biết tiểu nha đẩu này đầy một bụng oán trách đối với hắn. Hắn chi cười khổ nói: “Việc này ta đương nhiên hiểu, chi cẩn có thể phát huy được chiến lực của quân ta, áp chế được sự kiêu ngạo của thủ quân trong thành thì sẽ có rất nhiều cơ hội cho chúng ta.”

Chiết Tử Du lúc này mới tỏ ra vui mừng, yêu kiều nói: “Đúng là Dương thái úy là người luôn biết điểu. Được thôi, ta đồng ý giúp ngài. Có điểu ta sẽ không xuất đẩu lộ diện. Dương thái úy muốn bái tướng chống binh thì ta xin tiến cử một người.”

“Ai cơ?”

“Đương nhiên là đứa cháu lớn của Dương thái úy. Đại công tử trong tiểu tự bối Chiết gia

ta.”

Nàng dừng một chút rồi gọi lớn từng chữ: “Chiết, Duy. Chính!”

Chiết Duy Chính vội bê bát cơm chạy vào trong trướng, không hiểu hỏi: “Cô cô gọi ta?”

“Muốn tấn công thành đầu tiên phải thủ, làm ổn định căn cơ, mới có thể tiến thoái theo ý muốn. Nếu không quân sĩ trong thành còn có thời gi­an nghi ngơi, nhưng chúng ta lại ngày đêm ứng phó với tập kích, phòng bị đêm ngày. Người ngựa đều mệt mỏi mà chết, đó là do các ngài. Các ngài không thổng hiểu phá cắm doanh bố trận. Vị nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn chiến công hiển hách đó cảng chỉ thiện công mà không thiện thủ. hoàn toàn không biết cắm doanh. Ngài hãy thương lượng một chút với Da Luật Tà Chân, tạm thời ngừng công thành trong ba ngày, ta muốn bố trí lại từ đẩu. Tây thành thủ quân rút quân, tập trung công đánh tam điện.”

“Mớ ra một mặt?”

“Đúng vậy. Mở ra một mặt. vây quanh ba mặt khác. Ép họ vào đường có phải là các ngài muốn ép cho thủ quân thể chết kháng cự là không? Mờ một mặt của thành ra. bất kể là thủ quân hay là dân chúng trong thành sẽ có một con đường sống, họ sẽ không kiên quyết như bây giờ, cho dù họ biết rõ đó là kế, nhưng cái ý nghĩ tất chết cũng sẽ bị dao động.”

“Việc này… Tiêu hậu tuyệt đối sẽ không để cho Khánh vương có cơ hội chạy thoát về phía tây đâu. e là Da Luật Tà Chân cũng sẽ không chịu tổn binh hao tướng, cho dù là năm rưỡi nữa cũng không chịu.”

“Buông tây thành không phải là để cho hắn tùy cơ bó đi. Hừ! Hai vị nghĩa huynh đó của ngài còn có quan hệ thân thiết hơn nhiều so với hai vị huynh đệ đồng minh này, lẩn này công thành Ngân châu, ngài vẫn chưa mời họ tương trợ sao?”

“ừm…được, để ta đi thuyết phục Da Luật đại vương.”

Dương Hạo đích thân đi đến doanh trại của người Khiết Đan , nói suốt cả một buổi chiểu cuối cùng Da Luật Tà Chẩn mới chịu nghe theo kế của hắn, tạm thời hoãn công thành, buông lòng tây thành, thu lại đại quân, chuân bị bố trí lại quân doanh theo như cách của Dương Hạo.

Rất nhanh Dương Hạo đã phái người đưa đến cho hắn kế hoạch chi tiết. Dựa vào những vũ khí tấn công từ xa như xe bắn nỏ. máy ném đá…để áp chế hỏa lực phía đâu thành. Tam diện đại quân bắt đâu trùng kiến lại doanh trại.

Trước trại của Dương Hạo đã bắt đẩu đại hưng thổ mộc. Một doanh trại tuyệt đổi không phải chi dùng làm nơi nghi ngơi. Một doanh trại thiết kế hoàn mỹ không chỉ có thể phòng chống được sự tập kích của quân địch mà thậm chí có thể làm tấm lá chắn phần kích khi tiến công thất bại. một hệ thống công sự xây dựng chu đáo sẽ rất khó công phá. giống như tòa thành Ngân châu trước mặt vậy, một tòa đại phòng ngự như tường đồng vách sắt. Dương Hạo và Da Luật Tà Chẩn đang có một cơ hội rất lớn. cho nên hoàn toàn không do dự mà tiếp nhận kiến nghị này.

Chiến hào thứ nhất rộng gần bảy mét, chiến hào thứ hai rộng năm mét. trong hào có bố trí đầy cọc nhọn, sau đó dẫn nước vào. Ở phía sau là để hộ phòng, tường ngăn bao ngang ngực và tường thấp, trên tường có chống nhiêu cọc gỗ nhọn hướng ra bên ngoài. Trên hộ để cứ cách hai mươi lăm bước lại cho dựng một lâu bắn tên, phía trước giữa hai chiến hào lại được bố trí dày đặc các bụi gai. Giữa hộ để và chiến hào thứ nhất lại được Kha Trấn Ác, người giỏi về các cơ quan cạm bẫy bố trí rất nhiều cơ quan giết người. Chưa cần nói đến công kích ban đêm. Mà ngay cả dưới trời sáng tỏ. không bỏ ra thời gi­an cả buổi cùng đừng hòng phá vỡ được những chướng ngại này dưới trận mưa tên của đối phương, trừ khi có một thông hào thông hành rộng khoáng bốn trượng để xuất nhập, nếu không quân đội tập kích sẽ hoàn toàn mất đi tác dụng, chi cần một số ít tiễn thủ thủ vệ thì binh sĩ trong doanh có thể kể cao gối mà nghi ngơi rồi.

Dương Hạo và Da Luật Tà Chẩn lại phái người đi đến sông gần nơi hộ thành để cắt đứt nguồn nước. Trong thành tuy có nguồn nước để sống, nhưng nếu dòng sông hộ thành rộng hai mươi mét. sâu trên ba mét một khi bị cạn khổ. sau khi mặt đất khô lại thì các loại vũ khí công thành hạng nặng có thể tiếp cận được tường thành, đồng thời dòng sông hộ thành hết nước cũng dễ có thể đào được địa đạo. Đương nhiên thủ quân trong thành cũng có thể đào địa đạo ra ngoài để tiến công phần chế. Nhưng đào địa đạo chưa chắc nhất định cẩn phải ẩn phía dưới, nếu như muốn phá vỡ tường thành thì đầu tiên phải giải quyết dòng sông hộ thành này đã.

Sau khi thay đổi sự bố trí quân bao vây tam diện, vũ khí công thành của các diện hướng về phía thành đã bắt đầu tập hợp lại. Dương Hạo lại làm theo kiến nghị của Chiết Tử Du, thêm một bước tập trung vũ khi công thành, một lượng lớn vũ khí công thành đã được tập trung đến một mặt của tường thành, hơn hai trăm chiếc thang mây nếu như cùng một lúc bắc lên tường thành thì cũng đủ che lấp cả tường thành, vô số binh sĩ trèo lên như kiến, rất nhanh sẽ làm mất đi ưu thế địa lợi của thủ quân.

Đủ các loại xe công phá cũng bắt đẩu được điều động đến. Dựa theo công dụng của từng loại mà tiến hành điều phối, tập kết. Sự thay đổi lớn của quân Dương Hạo và Khiết Đan lập tức dẫn đến sự chú ý của quân thủ thành. Trong thành đã dừng bắt đá và khí độc. Dương Hạo đứng trên vọng lầu cao hơn mười trượng, có thể nhìn rõ binh mã trong thành đi qua đi lại như đàn kiến, hình như đang tính cách đối phó lại với phản ứng của hắn, đang bố trí lại binh mã.

Dương Hạo cảnh giác nói: “Trong thành đã phát giác rồi, không biết vị tướng quân thủ thành sẽ có ứng biến gì. Kha huynh, huynh hãy mời ngũ công tử đến đây. Để cho nàng ấy nhìn thấy những động tĩnh của quân địch trong thành, xem có thể đoán ra được điều gì không.”

“Vâng!.” Kha Trấn Ác đáp mộ tiếng rồi bước xuống dưới, Mộc Ân đợi Kha Trấn Ác đi rồi liền tức giận bất bình đấm tay vào lan can, nhìn xuống dưới, nói: “Chiết cô nương lần này điểu động binh, chúng ta là người ngoài ngành nhìn thì có vẻ như rất có lý, bản lĩnh của cô nương ấy ta phục, nhưng…bất kể như thế nào đây cũng là binh mã của Lô châu chúng ta. Chỉ thừa nhận cờ hiệu của thiếu chủ. Chiết cô nương nếu như đã thẳng thắc đồng ý tương trợ, đứng sau nghĩ kế sách cho thiêu chủ, trên dưới Lô Châu ta nhất định sẽ nhớ đến ân tình của cô nương ấy, nhưng cô nương ấy lại còn đề ra điểu kiện nữa.”

Dương Hạo không nghĩ như vậy, cười nói: “Tử Du nàng ấy, hi hi. nàng ấy có lúc nào để ý đến người bên cạnh nghĩ gì về mình đâu. Sao lại có thể để ý đến việc trên dưới Lô châu ta cảm ân nàng ta chứ. Nếu như ôm ý niệm muốn người ta cảm ân mình thì đó không phải là nàng ấy nữa.”

Mộc Ân do dự. nặng nể hừ một tiếng. Trừng mắt nhìn nói: “Nàng ta đồng ý tương trợ thì thồi đi. lại còn nâng cháu của nàng ta lên làm quân soái trên danh nghĩa. Hừ. Đây không phải là lợi dụng binh của chúng ta để dương oai Chiết gia hay sao? Trận này mà đánh xuống, nếu thật sự lấy được Ngân châu thì e là thanh thế của Chiết gia Phủ châu e rằng sẽ còn cao hơn thiếu chủ một bậc. Thuộc hạ.. . Thuộc hạ càng nghĩ càng tức.”

Dương Hạo cười ha ha nói: “Việc, người ta giúp; lợi. Để cho mình lấy; một chút lợi ích cũng không chia cho người ta sao? Nếu như cứ ăn độc như vậy thì sao có thể thành đại sự?”

Mộc Ân mặt đỏ lên. nói: “Nhưng thiếu chủ vẫn đang gánh vác trách nhiệm lấy vị trí của Hạ châu, nếu như có thể từ đầu đến cuối bào vệ được binh quang vô thượng đệ nhất Tây Bắc. thì những anh hùng hào kiệt tất sẽ nhiều hơn.”

Dương Hạo mim cười, quay đầu nhìn về phía thành Ngân châu, thấp giọng nói: “Tòa thành này nếu lấy được xuống thì không chi là một tòa yếu địa chiến lược, nguồn binh mã lương thảo dồi dào không dứt. Nếu như chúng ta có bản lĩnh đó. có thể đứng lên thì sớm muộn cũng sẽ đứng lên được, vội cái gì?

Đại Trạch Hương, Trần Thắng. Ngô Quàng khởi nghĩa vũ trang mà đứng lên, người ngồi trên thiên hạ phải biết cách đi từng bước vững chắc. Ngõa Cương Tắc dùng mười tám lộ phần vương, ba mươi sáu lộ nghĩa quân hấp tấp vội vàng, nhưng cuối cùng người khoác long bào lại là Lý Uyên Thái Nguyên. Chi có thể duỗi, chứ không thể khuất phục. Mới có một chút vấp váp mà đã không chịu được thì sao có thể thành đại nghiệp?

Có điều trải qua trận chiến này ta mới nhận thức được rẳng mọi người tuy có lòng trung thành tận tâm, kiêu dũng thiện chiến, nhưng lại đểu chi mạnh một mặt. khó có thể làm thống soái tam quân. Lô Châu ta thật sự cần một nhân tài thảm hiểu binh pháp, mình đầy mưu lược, mọi. Mọi người đều là Phàn Hội, Quân Anh, nhưng Trương Lương, Trằn Binh, Tiêu Hà. Hàn Tín của ta. họ ở đâu chứ?”

“Thái úy, thái úy!”

Từ phía dưới vọng lầu truyền đến những tiếng hét Dương Hạo bám vào lan can nhìn xuống, thấy có hai hán từ đang nghiêng cánh tay. vác túi da đi dưới sự hộ tống của mấy binh sĩ. Một người hiệu úy chắp tay nói lớn vọng lên vọng lậu. Dương Hạo nhìn kĩ, vui mừng nói: “Đám Tiểu Lục về rồi. Đi, chúng ta xuống dưới.”

Tiểu Lục và Thiết Ngưu sau khi rời thượng kinh Khiết Đan , không lập tức trở về Lô châu mà họ gửi tin tức về Lô châu băng phi vũ trước, rồi đợi xác định được chính xác nam viện đại vương xuất binh rồi dùng phi vũ truyền tin cho Dương Hạo. sau đó làm theo như dặn dò của Dương Hạo, đi liên lạc với Tiêu Dã Khá Nhi, Xích Bang Tùng rồi đến lúc này mới gặp Dương Hạo.

Dương Hạo vui mừng chạy vội xuống vọng lâu, ba huynh đệ ôm lấy nhau, hàn huyên mấy câu rồi Dương Hạo liên hòi đến chuyến đi Khiết Đan, nghiêm túc hỏi: “Khi Tiêu hậu Khiêt Đan cho mọi người về, ừm.. .nàng ta ăn mặc như thế nào?”

Tiểu Lục và Thiết Ngưu trong lòng đều cảm thấy khó hiểu, không biết đại ca sao lại để ý đến cách ăn mặc của Tiêu hậu, nghĩ lại một lúc, Tiểu Lục liền trả lòi: “Tiêu hậu à. hổm đó mặc áo bào trắng. ừm…rất đẹp…”

Thiết Ngưu gãi gãi đẩu. cười ngây ngô nói: “Đúng đúng đúng, mặc áo bào trắng, rất dịu dàng, vừa nhìn đã làm cho người ta ngứa ngáy.. Ánh mắt đó…mệt mỏi. à. Đúng rồi. Giống như con mèo Ba Tư mà Nhã công chúa nuôi, sắc mặt rất tốt, khách khí hơn nhiều so với ngày đầu gặp chúng đệ.”

Chương 425: Chiến trường thứ hai

Tiểu Lục và Thiết Ngưu đều không phải là người hay bận tâm tới nữ sắc, nhưng tình hình khi mà họ gặp Tiêu hậu lại đểu nói đến thân thái của nàng ấy động lòng người như thế nào. Có thể tưởng tượng thấy lúc đó nàng ta thật sự phong tinh vạn chủng. Dương Hạo nghĩ đến dáng vẻ yêu kiều thướt tha của Tiêu Hậu, trong lòng cũng trào lên một cảm xúc khó tả, lại hòi: “ừm…, nàng ấy khi đó có mang theo trang sức gi không?”

Thiết Ngưu và Tiểu Lục quay sang nhìn nhau, không biết Dương Hạo để ý đến những thứ này để làm gì. Tiêu Lục nghĩ một hồi lâu, chân chừ nói: “Việc này…đệ thật sự không nhìn kĩ, đó là Tiêu hậu nương nương, huynh đệ ta làm sao dám nhìn chẳm chẳm vào nương nương, chọc giận nương nương chắc chắn sẽ bị giết. ừm…. hổm đó nương nương hình nhu…hình như không đeo bất kì thứ­trangsức­nào. Thiết Ngưu, còn nhở gì không?”

Thiết Ngưu trừng mắt một cái. thành thật nói: “Đúng, không đeo gì cả.”

Trong lòng Dương Hạo đột nhiên thấy lạnh buốt, tình cảm giữa hắn và Tiêu Xước không cắt được, nhưng với thân phận của hắn tuyệt đối không thể ỡ cùng nhau. Tiêu Xước đang dùng lí trí để kháng cự lại tình cảm trong lòng, hắn thì sao? Nhưng Tiêu Xước cho dù có lí trí thì chi cẩn hắn có tình thì trên phương diện quyết định chính sách với tây bắc sau này ít nhiều cũng sẽ suy nghĩ đến sự tồn tại của hắn, nếu như có thể lấy được sự giúp đỡ của người thống trị Khiết Đan này thì con đường sau này của hắn hoàn toàn có thể nhẹ nhàng hơn.

Có lẽ phải qua sáu mươi năm nữa. Ở phía tây xa xôi sẽ ra đời một đứa trẻ tên là Hen­rv, sau khi nó lớn lên sẽ xây dựng một vương triều tên là Plan­ta­genet. Thực lực nền tảng mạnh nhất của nó chính là do được kế thừa, kế thừa Nor­mandv từ mẫu thân, kế thừa An­jou từ phụ thân, kế thừa Aquitaine từ vương hậu. Chính những điều này đã làm cho nó cuối cùng đã trở thành vị quân vương lớn mạnh, sang sơn của nó không phải có được từ hai bàn tay trắng, nhưng lịch sử có ghi địa vị của nó. là nó đã tạo lập nên chế độ bôi thám đoàn, được tôn xưng là cha của pháp luật Anh Quốc.

Từ cổ những người thành đại sự có thể dùng các biện pháp phi chiến tranh để chinh phục đổi phương như làm thông gia. liên minh, li gián…, chẳng có ai mà tự tìm cái khó cho mình cả. Nếu như nhất định phái dùng máu của thuộc hạ mình để chứng minh năng lực của mình thì đó là một kẻ ngu xuẩn, chỉ có thể làm bạn với sơn đại vương. Dương Hạo vốn cho rằng con đường tranh bá của minh ớ Tổng thì có thân phận hợp pháp làm khó Triệu Quang , ớ Khiết Đan thì có một oan gia ân oán khó phần, hắn ứng phó với một Lý Thị Hạ châu có căn cơ thâm hậu sẽ dễ dàng hơn một chút. Nhưng bây giờ xem ra nếu như không thể ăn V với phía Khiết Đan thì e rằng ngư ông đắc lợi lại chính là Triệu nhị thúc rồi.

Lúc này, Tiểu Lục đột nhiên vỗ trán một cái. nói: “Đúng rồi, Tiêu hậu còn đặc biệt sai chúng đệ mang một chiếc hộp về cho đại ca.” Dương Hạo chấn động tinh thần: “Nàng ta bào hai người mang hộp về ư? ở đâu, mau đưa đây.”

Tiểu Lục liền đi tới chỗ con ngựa, lấy một chiếc hộp từ trên lựng ngựa xuống, mang đến trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo cẩm trong tay. cảm thấy nhẹ hơn rất nhiểu. Lúc trước trong hộp đựng sa bàn bằng đất bùn, cũng phải nặng đến ba mươi, bốn mươi cần. Dương Hạo trong lòng hoan hi. vội vàng đặt hộp xuống đất. Mở niêm phong ra nhìn, bên trong có một xếp lụa. mờ ra nhìn, ờ giữa lại bọc mấy thứ: “Một chiếc hoa tai, một chiếc vòng tay, một mánh ngọc bội…

Dương Hạo nửa vui nửa ngờ. khó mà đoán được ý của Tiêu Xước: “Vốn là những thứ này đểu là một đôi. sao lại trả về một nửa? Nàng đã phát hiện ra bí mật bên trong hộp, nàng quá nhiên là có để tâm đến ta. nhưng…sao nàng ta lại trả lại một nửa. đây là có ý gì?

Dương Hạo đang cau mày suy nghĩ, thì Kha Trấn Ác lại dẫn Chiết Tử Du tới. Thấy Dương Hạo ngỗi xổm dưới đất. trước mặt có một chiếc hộp đang mở. trong tay Dương Hạo lại câm mấy đồ trang sức, Chiết Từ Du không kìm nổi tò mò, hỏi: “Đây là gì vậy?”

Dương Hạo ánh mắt sáng lên, từ từ cất những thứ đó vào trong hộp. đứng dậy. nhìn Tiểu Lục và Thiết Ngưu, hai hàng lông mày cau lại, trầm giọng nói: “Hai người thật là giỏi, xem xem chuyện tốt mà hai người đã làm ra này.”

Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu nhìn nhau kinh ngạc, Thiết Ngưu lắp bắp nói: “Đại ca…hai bọn đệ…”

“Hai người sao chứ? Còn dám cãi lại!”

Dương Hạo chỉ vào những thứ trong chiếc hộp. Chánh khí lẫm liệt mà nói: “Lô châu ta muốn đứng được ớ Tây Bắc phải giành được sự tin tưởng và ủng hộ của các tộc Tây Bắc. không phải là dựa vào vũ lực lớn mạnh, mà là dựa vào quân kỷ không mảy may tơ hào. quỵ tắc bình đẳng. Hai người ngày trước tuy là những tên vô lại của Bá Châu, nhưng nếu như đã đi theo đại ca thì chính là quân nhân, cho dù các người có gặp thương nhân Khiết Đan thì có sao chứ? Sao lại có thể cướp đồ của người ta? Vậy chúng ta và đạo tặc có gì khác nhau?”

Dương Hạo tức giận vung tay, đau lòng nói: “Nếu như các đệ mà không phải là huynh đệ của bổn thái úy. thì hôm nay ta đã xử hai người theo quân pháp rồi! Câm đi đi. lập tức trả về, nếu còn tái phạm tuyệt đối sẽ không tha.”

Thiết Ngưu ngần ra, lắp bắp nói: “Đại ca. huynh…huynh bảo bọn đệ mang đồ trả…trả…trả cho ai?”

Dương Hạo quát: “Còn dám giả vờ ngây ngô nữa sao. có tin là đại ca sẽ đánh cho đệ một trận không?”

Loan Đao Tiểu Lục đúng là một người cơ cảnh, vội vàng kéo lấy Thiết Ngưu, gật đẩu nói: “Đại ca. huynh đừng nóng giận, chúng ta…chúng ta chi là nghĩ dù sao bọn họ cũng không phải là dân chúng dưới quyền cai trị của đại ca. Cướp một chút đồ vật làm quân tử cũng tốt. Đại ca đừng tức giận, chúng huynh đệ sẽ không dám tái phạm nữa đâu.”

Trong ánh mắt Dương Hạo lộ ra thẩn sắc tán thưởng, sau lưng hắn Chiết Tử Du đang đứng chăm chú nhìn, hắn lại cảng nghiêm khác: “Lập tức trả về cho người ta, nếu không đừng hòng ta sẽ làm huynh đệ với hai người, mau đi.”

Loan Đao Tiểu Lục đóng chiếc hộp lại, cầm lên và phối hợp nói: “Vâng vâng vâng, chúng đệ lập tức đi trả…” Nói rồi kéo Thiêt Ngưu đang đứng mơ hồ ớ bên cạnh đi. Dương Hạo lúc này mới quay người lại nói như không có chuyện gì với Chiết Tử Du: “Hai tên này chẳng ra gì cả. Haizzz, để cho ngũ công tử chê cười rồi.”

Chiết Tử Du nhẹ nhàng nói: “Dương thái úy trị quân quả nhiên nghiêm khắc, thực ra…cướp đổ của địch quốc cũng có tác dụng của nó. cũng là thiên công địa đạo. Có điệu…thái úy bây giờ đang phối hợp với Khiết Đan tấn công Ngân châu, quả thật không nên gây tranh chấp với dân chúng nước họ.”

“Đúng thế ha ha ha, chi có điểu những đạo lí này không cẩn phải nói thẳng với hai nên khốn đó, mắng cho chúng một trận là chúng đã hiểu rồi. À. đúng rồi, ta vừa mới lên vọng lâu. thấy thủ quân trong thành đang điêu động quân với tốc độ rất nhanh, hinh như đã phát hiện ra được động thái của chúng ta, nên chúng đang chuẩn bị ứng biển. Chúng ta lên vọng lâu xem xem. Ngũ công từ, mời.”

Thiết Ngưu mơ mơ hồ hồ lại bị Loan Đao Tiểu Lục kéo đi. buồn bực nói: “Đại ca vừa nãy bị điên à, chúng ta đi cướp đồ của thương nhân Khiết Đan hồi nào chứ? Trong hộp rõ ràng là đồ của Tiêu hậu…”

“Suỵt…”

Loan Đao Tiểu Lục nhìn xung quanh, cười nhò nói: “Ta đã hiểu được mấy phần rồi. Đại ca nói những thứ này do chúng ta cướp thì chính là chúng ta cướp, đệ nhớ không được nói bừa đâu. Đặc biệt là trước mặt Chiết cô nương, nếu không…, Đại ca sẽ bị xui xẻo đấy, hai chúng ta cũng sẽ bị ăn trái đắng…”

Loan Đao Tiểu Lục ghé tai nói với Thiết Ngưu mấy câu. Thiết Ngưu trợn trừng mắt lên. thất thanh nói: “Không phải chứ, đó. ..đó là hoàng.. .hoàng hậu mà…”

Loan Đao Tiểu Lục cười hi hi nói: “Hoảng hậu không phải là nữ nhân sao? Nhớ lại lúc đó khi ở Lý gia trang nghe bọn họ nói chuyện không phải cũng nói đại tâu chúng ta vốn cũng là người tam trinh cửu nhiệt, không ai dám có ý với tẩu ấy hay sao? Thế mà đại ca ta đã dỗ dành làm cho tẩu ấy hết lòng hết dạ với mình hay sao.”

Thiết Ngưu vỗ vỗ mồm, lẩm bầm nói: “Chẳng trách đại ca chúng ta lại phải bịt miệng chúng ta trước mặt Chiết cô nương. Hì! Đại ca thật là…quá nham hiểm.”

Loan Đao Tiểu Lục cười nói: “Đây có đáng là gi chứ? Nhở lúc trước đại ca nghĩ ra kế để cho Từ Mộ Trần tự đào hố chôn mình, đó mới là nham hiểm.”

Thiết Ngưu phán bác lại: “Theo như đệ thấy đó cũng không có gì là nham hiểm, lần này đại ca hợp tác cùng Khiết Đan tấn công Ngân châu, đó mới thật sự là nham hiểm. Không những mượn binh người ta giúp mình công thành mà còn nhờ binh người ta để chiêu binh cho mình. Huynh cũng thấy Xích Bang Tùng đang làm gì rồi đấy. hi hi. lại còn là thủ đoạn làm cho người ta chịu mắc câu nữa. Đại ca thật lả quá nham hiểm, quá nham hiểm.”

Loan Đao Tiểu Lục ôm chiếc hộp, ngưỡng mộ nói: “Bao giờ chúng ta mới có thể nham hiểu nhưđại ca nhi…”

Những quốc gia Trung Nguyên lấy thiên hạ chính thống tự cư như Đại Đường, Đại Tổng, khi hành quân đánh trận chủ yếu là dựa vào hậu cần vận chuyên quân như và dựa vào dân chúng bản địa. nếu như quân kỷ không đủ nghiêm minh, hoặc chủ tướng không biết để ý đến dán chúng thì trong quá trình cắt cử quân đi sẽ thường xảy ra chuyện cướp đoạt của cải của dán chúng, đây mới chi là ỡ trong nội quốc, nếu như là ỡ nơi của địch, quốc, trong khi chiếc đấu, tùy hành không được chi bào đủ thì chuyện cướp bóc dân chúng là tất nhiên. Cho dù là những danh tướng có được hậu thế tán tụng nhiều hơn nữa và những đội quân xưng nhân nghĩa thì trong lúc quân lương không đù, cùng đểu từng làm những chuyện như thế này, sự an toàn của quân đội mình vĩnh viễn được đặt lên đầu tiên, không có sự giác ngộ này thì đừng mong làm đại tướng quân gì cả. Mà chủ soái một khi hạ lệnh cướp đoạt lương của dân chúng địch quốc, thì đốt nhà. giết chóc, hãm hiếp phụ nữ…đã trở thành chuyện phát sinh tất yếu. Chủ tướng đối với những chuyện này thường một mắt nhắm một mắt mớ cho qua. khổ chủ cũng không có gan lớn mà cáo quan, không có nơi nào cáo quan, thậm chí không còn tính mạng để mà cáo. Chi có một tình huống mà dân chúng địch quốc mới có thể may mắn thoát nạn, đó chính là địch quốc đã có ý định biến họ trở thành dân chúng của mình. Triệu Khuông Dận cũng rất nhiều lần ban thánh chi, nghiêm mệnh đại quân công đánh Đường quốc hết sức tránh sát hại không cẩn thiết. Đó cũng chính là xuất phát từ suy nghĩ chính trị này. Sau này quốc chủ Kim quốc tàn độc thích chém giết Hoàn Nhạn Lượng nhung khi công đánh Nam Tống cũng nghiêm minh quân ki, hoàn toàn không mảy may đem những kè đốt nhà dân Tống chém đâu thị chúng, đây cũng là xuất phát từ ý định mua chuộc lòng người.

Dương Hạo cũng như vậy, mục đích của hắn không phải là biến thành Ngân châu thành một bình địa. mà là đem cả thành Ngân châu nắm chặt vào tay mình. Một tòa thành không thì có tác dụng gì chứ, đương nhiên phải cần có dân chúng đầy ắp mới có ý nghĩa, cho nên từ khi bắt đầu hắn chưa từng nghĩ rằng sẽ cướp lương từ những tộc người gần Ngân châu như người Hán, người Khương, người Thổ Phồn, người Hồi Hất. cũng chính vì thế mà hắn đã tiêu tốn rất nhiều sức và của để mang lương thực, vật lực từ Trung Nguyên xa xôi tới đây.

Nhưng người Khiết Đan lại không nghĩ như hắn, người Khiết Đan thậm chí còn không có quân hương. Lúc đầu. khi thái tô hoàng đế Khiết Đan lãnh binh vào Trang Nguyên, đại tướng Hậu Tấn lần lượt quy thuận, sau đó khi họ xin quân hương của hắn thì vị hoàng đế bệ hạ này đã trả lời một cách mơ hồ: “ơ nước ta chưa bao giờ có chuyện này.” Đến tận bây giờ. ờ Khiết Đan cũng chi có một bộ phận quân đội là có quân hưởng, đó chính là Hán quân dưới sự thống lĩnh của Nam Viện, mà quân đội bôn tộc Khiết Đan vẫn không có quân hưởng, xuất ra làm quân, nhập vào làm dân. vì thế nên phải dựa vào cướp bóc dân chúng gần nơi chiến tranh để tăng sĩ khí và thưởng tam quân.

Binh mã Da Luật Tà Chẩn lần này dẫn đến đều là tinh binh của Điệt Lạt Lục Viện Bộ. đều là những võ sĩ xuất sắc của Khiết Đan . Cho nên theo như truyền thống quang vinh của bọn họ. họ cả đường đi đều cướp bóc giết người. Sau khi đến được thành Ngân châu, họ cho đóng doanh rồi phát một đội quân nhò đi khắp nơi tìm kiếm người Hán, người Khương, người Thổ Phồn, Hồi Hất để cướp bóc. Chúng cướp lương thực, cướp bò dê, cưỡng nữ nhân, thậm chí còn cướp nam nhân. Nam nhân bị cướp đi ngoài việc phải xây đắp các công trình, đào chiến hào. còn bị chúng đẩy ra chiến trận làm bia đỡ đạn.

Các bộ lạc gần đó khổ vô cùng, nông trại, trang gia của họ bây giờ đểu bắt đẩu vào lúc trâu bò bắt đầu béo mập, tích trữ lương thào, chuẩn bị thu hoạch bây giờ lại phải khăn gói bỏ chạy, cho dù tránh được họa do binh Khiết Đan gây ra thì khi trở về cũng khó mà sống qua được mùa đông lạnh lẽo.

Bộ lạc Nhã Long chính là một ví dụ, bộ lạc này tuy không được coi là quá lớn, bộ lạc chi có hơn một nghìn ba trăm hộ, vì họ ỡ khá gần với Hán cảnh, đã dẩn dẩn bị đồng hóa, bất kể là trang phục, ngôn ngữ hay thói quen cuộc sổng, bộ tộc cũng đã thay đời thành cách sống bản mục bản canh. Bộ lạc của họ cách Ngân Châu rất gân, ở giữa chi cách bộ lạc La Sa. Khi quân Khiết Đan bao vây Ngân châu, đánh bộ lạc La Sa thì người đứng đầu bộ lạc La Sa đã đem theo gia quyến, thân tín tháo chạy đầu quân vào bộ lạc Nhã Long..

Người đứng đầu bộ lạc Nhã Long là Đan Tăng Ban Châu Nhĩ nghe tin vô cùng hoảng sợ. lập tức đưa tộc tháo chạy lên núi, may mà hắn biết được tin sớm, toàn tộc thoát lên núi không bao lâu thì Thiết kỵ của người Khiết Đan đã đến. Chúng đảo vài vòng trong bộ lạc trống không, không tìm thấy thứ gì hữu dụng, mang những thứ vẫn chưa hoàn toàn thành thục đi. Còn những gì thực sự không mang đi được thì dùng lửa thiêu rụi.

Đan Tăng B an Châu Nhĩ đứng trên đỉnh núi nhìn về bộ lạc đang khói nghi ngút mà khóc hết nước mắt. Hắn tuy đã thoát được ra, trâu dê ngựa bò của bộ lạc cũng đều mang cả đi, nhưng chỉ dựa vào những thứ này thì sao có thể sống qua mùa đông? Đợi khi người Khiết Đan rời đi tất cũng sẽ đến mùa đông, đến lúc đấy liệu còn có mấy người còn sống?

Chính vào lúc hắn đi vào con đường cùng thì hắn đã gặp được một quý nhân, vị quy nhân đó thật sự là một người có thần phận cao quý, vì hắn là hậu duệ đích hệ của Á Lùng Giác A Vương của Thổ Phiền, Xích Bang Tùng. “Khách nhân tôn quý, có thể gặp được hậu duệ của Á Lũng Giác A Vương, thật là vinh hạnh không có gì bẳng . nhưng…thật là xấu hổ, bộ lạc ta gặp phải điều bất hạnh, đám lang Khiết Đan đã đến dẫm đạp bộ lạc ta, hùy cả trang gia. san bẳng thổn của ta, không có cách nào thiết tiệc mời đại nhân, thậm chí ngay cả một chén rượu cũng không có, thật là đã thất kính với khách quý.”

Sau khi mời Xích Bang Tùng tiến vào trong trướng. Đan Tăng Ban Chu Nhĩ xấu hồ nói.

Xích Bang Tùng mim cười nói: “Đan Tăng tộc trường quá khách khí rồi, ta trên đường đến đây đã gặp rất nhiều bộ lạc bất hạnh, đã biết mọi người cũng gặp bất hạnh, có thể nhận được sự tiếp đãi này của các vị, Xích Bang Tùng ta đã rất cảm động với thịnh tình của các vị.”

Hai người đểu dùng tiếng Thồ Phồn, Đan Tăng Ban Chu Nhĩbình thường nói tiếng Hán. tiếng mẹ đè của minh cùng đã không còn quen thuộc, nhung nghe Xích Bang Tùng nói tiếng Thổ Phồn chính gốc. Đan Tăng Ban Chu Nhĩ không khỏi cảm động, cảm khái nói: “Haizz. nhở lại Thồ Phồn ta cũng từng là hùng của Tây Vực, nhưng từ khi Lãng Đạt Mã Tán Phổ bị ám sát. Thò Phồn ta chia năm sẻ bảy. bây giờ mới có hơn một trăm năm, bá chủ trên thảo nguyên Tây Vực ngày xua giờ đã rơi vào bước đường cùng, đi đâu cũng bị người ta ức hiếp. Khiết Đan , người Đàng Hạng luôn đàn áp làm nhục chúng ta. khi nào người Thổ Phồn ta mới có thể có được cuộc sống an bình đây.”

Xích Bang Tùng nói: “Lý thị Hạ châu, Chiết thị Phủ châu. Dương thị Lân châu, tam phiên đã lặp, Hồi Hất đã xuống đốc, giữa chư bộ Thổ Phồn chúng ta không thẩn phục cũng không nắm được những hạt cát. bây giờ Khánh vương Da Luật Thịnh đã chạy thoát khỏi Tây Bắc. lại dẫn theo đàn lang Khiết Đan . Ở đây cảng ngày cảng bất ổn.

Nói đến đây, hắn chấn tĩnh lại tinh thẩn, nói: “May mà. Lô châu mới có một vị Dương thái úy mới đến. Tây Vực của chúng ta có thể an bình hay không thì tám chín phần phải nhờ vào hắn. Dương thái úy, ngài biết không? Đúng thế, hắn là chủ của Lô châu, cũng là Chủ của Hoành Sơn.”

Xích Bang Tùng nhìn xung quanh, có chút thần bí, ghé sát tai nói với hắn: “Ngài có từng nghe nói điều này không? Dương thái úy là Kim Cương cống Bảo chuyển thế đấy.”

Xích Bang Tùng giơ mười đẩu ngón tay ra tính, lẩm bẩm nhẩm tính, lại nói: “Đây là điểu mà phật sống Đạt La tọa sư của ta đã đích thân xác nhận, Kim Cương cống Bảo là thẩn bảo hộ của chúng tạ là thần linh mang đến cho chúng ta thái bình và an lành. Theo như ta thấy tương lai người thống nhất Tây Vực nhất định là Dương thái úy.”

Đan Tăng Ban Chu Nhĩ chần chừ nói: “Đại nhân, vị Dương thái úy đó…là người Hán à?”

“Đừng có nói bừa. sẽ thành khinh nhờn thần linh đấy.”

Xích Bang Tùng nghiêm nghị nói: “Kim Cương cống Bảo là thẩn linh, trong mắt thẩn linh làm sao là người Hán, người Đàng Hạng hay người Thổ Phồn? Ta thấy trang phục của Đan Tăng tộc trường cũng là Hán phục, bình thường cũng nói tiếng Hán, thế thì sao cơ chứ? Quan trọng là nội tâm của ngài. Dương thái úy vừa xuất hiện. Phủ châu. Lân châu đã tranh nhau gi­ao kết với ngài ấy, hai vị tiết độ sứ đại nhân và ngài ấy đã kết bái huynh đệ. Bát thị Đàng Hạng, trà Hạ châu vẫn còn cứng đầu ra, thì bây giờ các bộ khác cũng đều tò ra hòa hào với ngài ấy.

Xích Bang Tùng nói rõ: “Cả chặng đường ta đến đây, thấy rất nhiều bộ lạc chịu khổ chịu nạn đểu chạy đến nhờ cậy Dương thái úy. Dương thái úy là Kim Cương cổng Bào chuyển thế, có ngài ấy bảo vệ thì tin chắc rằng những bộ lạc này có thể qua được cửa ải này, có thể sống những ngày binh yên. Hãy nhìn mà xem. Sẽ có một ngày Tây Bắc chúng ta, Đảng Hạng, Thổ Phồn, người Hán, Hồi Hất…. Tất cả tín chúng đểu sẽ quy thuận về phía Kim Cương Cống Bào, mọi người có thể sống thêm được nhiều ngày thái bình.” “Như vậy sao…” Đan T ăng B an Chu Nhĩ vuốt râu suy tư.

Bộ lạc của hắn dựa vào tài lực của mình đã khó khăn lắm mới chống đỡ nổi qua mùa đông, đế quốc Thồ Phồn sớm đã không tồn tại. bộ lạc của hắn để sinh tồn đã từng dựa vào Khiết Đan , từng dựa vào Ngân châu, các bộ lạc lân cận, nhung trong bộ lạc bây giờ có người Hán, người Khiết Đan , người Hồi Hất. người Đảng Hạng cũng sớm không phải còn đơn thuần như thế.

Truyền thuyết Kim Cương cống Bảo chuyền thế hắn cũng đã từng nghe thấy. Bây giờ ngay cả Xích Bang Tùng đại nhân cũng nói như vậy, phật sống Đạt La lại chứng nhận cho thân phận của hắn, trong lòng Đan Tăng Ban Chu Nhĩ. Dương Hạo đã hóa thân thành Bồ Tát. Kim Cương cống Bảo. Tùng Tán Can Bố Tán Phổ, Gia Ngõa Nhãn Ba Thiết Tán Phổ…Những bậc đế vương này đều là nhưng anh hùng một phương, lẽ nào vị Dương thái úy này đang ứng mệnh sinh, thật sự sẽ trở thành vương của thảo nguyên?

“Xích Bang Tùng đại nhân, ngài nói xem…có phải rất nhiều bộ lạc đã đi nương nhờ Lô châu không?”

“Đúng vậy. người Hồi Hất, người Đảng Hạng Khương, người Hán thì không cẩn nói rồi, lại còn có chính cả người Thó Phồn chúng ta, đểu vì muốn sống tiếp, hơn nữa, Dương thái úy lại là Bồ Tát hóa thân, không dựa vào ngài ấy thì còn biết dựa vào ai đây?”

Đan Tăng Ban Chu Nhĩ chần chừ nói: “Việc này…, không biết một bộ lạc nhiều người như bộ lạc ta thì Lô châu có tiếp nạp không? Ngoài rạ khi đầu quân cho Lô Châu, không biết họ sẽ yêu cầu gì với bộ lạc ta?”

Xích Bang Tùng nhìn nhìn hắn, chần chừ nói: “Nếu như bộ lạc ngài sớm đầu quân cho Lô Châu thì chắc sẽ không có vấn đề gì, bây giờ… .ta cũng không thể nói rõ, đã có rất nhiều bộ lạc đến đầu quân cho họ. Lô châu tuy lương tháo nhưnũi. sạ là cũng không cung cấp hết cho nhiều người như vậy.”

Đan Tăng Ban Chu Nhĩ vốn còn muốn hỏi Lô châu sẽ đưa ra những yêu cầu gì với họ. ví như như chia rẽ bộ lạc, đoạt vị trí thủ lĩnh bộ lạc. Vừa nghe thấy muốn đầu quân vào mà e rẳng người ta cũng không muốn, không khỏi lo lắng, vội nói: “Xích Bang Tùng đại nhân tôn quý, ngài và ta đều là người Thó Phổn. Ngài chắc sẽ không nhẫn tâm nhìn thấy đồng tộc lưu lạc. Sinh tử lưỡng nan sao. Đại nhân là huynh đệ kết nghĩa của Dương thái úy lô châu, lại là đệ tử của phật sống Đạt La. nếu như ngài có thẻ nói hộ một câu…”

Xích Bang Tùng có chút lo lắng, do dự hồi lâu, tỏ ra vẻ khó xử nói: “Vậy…được rồi, đã uống trà sữa của thủ lĩnh Đan Tăng, thì ta đã là bằng hữu của ngài, không thể thấy chết mà không cứu được. Một lát nữa ta sẽ giúp ngài viết thư, ngài mang thư của ta đi đến Lô châu, tin chắc rằng họ sẽ nể mặt ta. Có điêu…hành động của ngài cũng phải nhanh một chút, nếu như đã bị bộ tộc khác đi trước thì ta cũng hết cách.”

Đan Tăng Ban Chu Nhĩ vui mừng nói: “Như thế thì tốt rồi, như thế thì tốt rồi, đại nhân, mời uống trà.”

Xích Bang Tùng mỉm cười, bê trà lên uống.

Trận đánh này đánh cảng lâu thì các bộ lạc bị người Khiết Đan ức hiếp cảng nhiều, cho nên dưới sự quấy nhiễu đàn áp vũ lực của người Khiết Đan và sự cám chiêu bào vệ của Kim Cương Cống Bào. người đầu quân cho Lô châu cũng cảng nhiều. Dương Hạo bây giờ không thiếu tiền, chi thiếu người, nếu chỉ dựa vào số dân vốn có của Lô Châu, không phải ít nhất hai mươi năm thi đừng mơ sẽ đầy đủ dân chúng, như vậy ngoài cách nuốt các bộ lạc thì chỉ còn cách chiêm mộ để làm tăng nhân lực. Để đạt được nhân lực sung túc. Tên gi­an thương họ Dương này phải lợi dụng triệt để đồng minh Khiết Đan .

Chương 426: Chuyển cơ

Binh mã Lô châu và binh mã Khiết Đan duy trì sự điều động thống nhất trong cuộc tấn công thành, tất cả đều nghe theo hiệu lệnh của chủ tướng mới bái trong quân Dương Hạo. Chiết Duy Chinh. Chiết Duy Chính không phải là một con rối vô năng, tuy nói sau lưng có sự tham mưu của tiêu cô cô, nhưng hắn thật sự cũng là một hổ tướng. Là trưởng tử của Chiết gia. từ nhỏ đã học binh pháp thao lược, đi theo cha, thường tham gia bàn kế ứng phó với sự xâm phạm của binh mã Hạ châu, đối với việc thủ thành có rất nhiều chiến lược tâm đắc. Lần này nhận trách nhiệm trọng đại. Chiết Duy Chính rất phấn chấn, bản bạc thương lượng tỉ mỉ vơi tiểu cô cô rất lâu. Dốc hết sức để chuẩn bị. hi vọng có thể đánh được trận này. Trong lòng có chuẩn bị thì lâm trận mới không hoang mang, chi huy điểu động quân mói ra đâu ra đấy.

Hàng loạt những máy bắn đá bắn liên tiếp như mua, làm cho đầu thành Ngân châu tan nát. Thủ thành lần lược tìm chỗ trốn. Khi máy bắn đá dừng lại mới lại chiếm cứ lại đâu thảnh. Lúc này. khi dừng để chuẩn bị cho đợt công kích thứ hai thì trên đầu thành bồng xuất hiện rất nhiêu tấm màn hình vuông có đinh có thể di chuyển. Những chiếc màn này dùng gỗ cực lớn làm cốt, da trâu làm lớp bọc che bên ngoài, da trâu vừa mềm lại dẻo dai, những chiếc mũi tên. mũi nỏ sắc nhọn đã không thể sản sinh ra uy lực gây tổn hại đến những binh sĩ trốn ở bên trong nữa. mà những binh sĩ ở bên trong đó lại có thể kịp thời quan sát trận hình di chuyển của quân đội ngoài thành, từ đó mà bổ trí lại đội hình nghênh kích. Chiết Duy Chính đang đứng trên vọng lâu nhìn thấy thế, lập tức hạ lệnh bắn lượng lởn hỏa tiễn, đạn khói độc. dùng máy bắn đá để bắn vại lửa. tiến hành công phá những chiếc màn đó. Quân ở đầu thành lại lập tức tìm cách ứng phó.

“Đặt cọc gỗ, chuẩn bị công thành.”

Cờ hiệu ở trên vọng lâu tung bay, một loạt các xe bắn nỏ xếp thành hàng hưởng về phía tường thành, khi trống hiệu vang lên thì những tiếng xé gió của tên nỏ cũng vang lên, nhắm bắn như mua vào phía tường thành, khi binh sĩ tiếp cận gân thi có thể nhân cơ hội mà trèo nhanh lên.

Một đội binh sĩ đứng sau bức màn da trâu đẩy những chiếc thang xếp bằng gỗ. Dưới sự yểm hộ của làn cung tên mà nhanh chóng xông lên phía trưởc, sông hộ thành của Ngân Châu vừa rộng vừa sâu. nhưng nưởc sông đã bị Chiết Tử Du sai người đi chặn nguồn nưởc lại, nưởc tích trữ lại trong hào hộ thành chi còn khoảng một tấc. trong nưởc lộ ra những cọc gỗ nhọn hoắt cực lởn. “Rắc rắc rắc…”

Tuy những cái trục và ròng rọc kéo nưởc đã được bôi dầu nhưng khi chuyển động nhanh vẫn vang lên những tiếng the thé. Những chiếc phi kiểu do những người thợ khéo léo ti mi chế tạo ra đã giúp cho nó có thể xông qua trận mưa tên từ dưởi thành bắn lên đẻ đáp xuống mặt nưởc, sau đó chuyển động dây treo làm cho một nửa kia đang được gấp lại của của cầu dần dần kéo dài về phía trưởc, bắc sang bờ sông đối diện. Mười chiếc cầu hào đã hình thành một mặt cẩu rộng đến mười lăm trượng, đã làm cho cả con sông hộ thành trở thành bình địa.

“Phừng…phừng…phùng…” Trong thành đã đổi mũi nó thành hỏa tiễn, không còn bắn người mà đổi thành bắn cẩu. Nhưng cẩu hào của quân Dương Hạo đã qua sự Thiết kế công phu của những người thợ khéo tay. họ cũng đã nghĩ tởi những loại tấn công thường gặp này. cây cầu đa phần đã được dùng một lởp thiếc bọc lại, tiễn nỏ khó có thể làm tổn hại. Trà phi có đại hỏa công phá còn không những đốm lửa nhỏ như trên đầu tiễn nỏ này không thể xuyên qua cẩu. rất khó phát huy tác dụng.

“Giết giết giết!” Một đại đội binh sĩ giơ tấm chắn, khiêng cự mã thương, hàng rào chưởng ngại chạy qua cầu hào.

Những cung nỏ thủ đứng từ xa, dựa vào ưu thế cung nỏ của họ, áp chế lần cuối đổi vởi đẩu thành. Trên thành ngoài xe bắn nó cực lởn. thì cho dù cung tiễn bình thường có bắn tởi trưởc mặt họ cũng khó có thể sinh ra hiệu quả sát thương, cho nên họ hoàn toàn không kiêng sợ, tùy ý cho công kích áp chế.

Đám binh sĩ nhanh chóng áp sát vào cửa thành mang theo những hàng rào chưởng ngại. Vì khi công thành, bên công thành cho dù có kị binh cũng rất khó áp sát phía dưởi thành, nhưng bên trong ủng thành phía trong thành và ngoài cửa thành lại có thể tùy ý phái ra những khinh kị xông tởi giết sĩ tốt công thành, cho nên ở phía gân thành môn cần bố trí chưởng ngại vật, để đề phòng bị phần công. Vì có sự yểm hộ áp chế bằng nỏ tiễn của hậu phương nên những thủ quân trên thành không dám tùy tiện đứng dậy bắn tên, những mũi tên lẻ tẻ bắn xuống cũng chỉ làm bị thương một số ít binh sĩ, những binh sĩ này sau khi bố trí thỏa đáng chưởng ngại vật thì một lượng lởn thang dây được đây qua cầu hào.

Lúc này bên Khiết Đan đã có tổng tấn công, binh sĩ của họ lại có kinh nghiệm chiến đấu nhiều hơn quân đội Lô châu, nhung những vũ khí công thành của họ lúc này lại hiện rõ nhược điểm. cầu hào của họ hoàn toàn được làm bằng gỗ, rất đễ bên lửa, dụng cụ công thành chi có thang dây, nhưng thang dây lại không có hai tay bám đỡ. ở đỉnh đẩu lại có tường chắc mái. Có thể bảo vệ binh sĩ một cách tốt nhất như của binh mã Lô châu.

Khi thang dây được bắc lên tường thành, trong thành lập tức xuất ra vô số những chiếc cọc dài cả chục trượng, thang dây chưa kịp ôn định thì đã có rất nhiêu chiếc bị đây đổ. mang theo hàng loạt những tiếng kêu than của binh sĩ bị ngã xuống đất.

Còn bên phía mặt trận binh chủ công của Lô châu, tuy binh mã Lô Châu có hạn nhưng vũ khi tiên tiến lại giúp cho họ phát huy được hiệu lực cực lởn. Móc câu trên đinh của thang dây khi vừa chạm vào tường thành đã bám chặt lấy, gậy cọc hoàn toàn không thể đẩy rồi nó. binh sĩ công thành căn bản không cần để ý đến thang dây đã có thể trèo hết lên. rất nhiêu binh sĩ còn dựa vào những lồ hổng để bắn tên ở trên tường thành, mồm ngậm trưởng đao đạp lên đó để trèo nhanh lên thành.

Phát hiện thang dây của đối phương không thể đẩy đổ, cờ hiệu trong thành liền phất lên. đột nhiên đẩy ra vô số những chiếc tủ màu vàng. Dương Hạo đứng trên vọng lâu nhìn sang, thấy ỡ đoạn đâu của những chiếc tủ đó đột nhiên phun ra những ngọn lửa đài, ngọn lửa chạm vào thang dây liền bên lửa. Cháy mành liệt. Thấy vậy, Dương Hạo không khỏi tặc lưỡi nói: “Tưởng thủ thành rốt cuộc là ai? Sao lại.. . Ngay cả máy bắn lửa cũng có?”

Loại vũ khí này là một loại vũ khí công thành lợi hại: Tủ mãnh hóa dầu. Cái gọi là mãnh hỏa chính là thạch dâu. Lúc đó nó còn được gọi là mãnh hỏa dầu. Những chiếc tủ màu vàng đó là dùng thục đồng đúc thành, bên trên có một cái miệng, có thể liên tục thêm vào thạch dầu. sau có lồ gió, có thể nên không khí, bắn trúng người thì người sẽ bị thối nát. Nước không thể diệt, lực sát thương cực lởn.

Chiết Duy Chính đang đứng trên vọng lâu nhìn, lập tức mệnh lệnh cho mười mấy vọng lâu hưởng về trận địch. Vọng lâu này còn cao hơn nhiều so vởi tường thành, tác dụng chủ yếu là để cho chủ tưởng có thể nhìn rõ động tĩnh bên trong thành, nhưng cũng có thể bố trí cung thủ trên diện rộng, trên đó còn được bổ trí những tiễn thủ đặc biệt. Hơn mười mấy vọng lâu áp sát vào nhau, bắn từ cao xuống dưởi, tên bay như châu chấu, nhắm bắn vào những binh sĩ thủ quân đang điều khiên tủ mãnh hòa. Tác dụng của tủ mãnh hóa đã giành được thành công lởn. Thủ quân trong thành lập tức dãn các tủ mãnh hỏa sang hai bên và bố trí thêm tấm chắn, đồng thời tổ chức những tiễn thủ chuyên dụng để bắn lại những binh sĩ tên vọng lâu.

Chiến công thành đương nhiên không chi dựa vào sự triển hỏa kì môn binh khí cũng không phái chi dựa vào những thứ tiên tiến hay không là nhất định có thể giành thắng lợi. chiến thắng cuối cùng vẫn phải do con người thao túng. ít nhất về địa thế thì thủ quân trong thành vẫn chiếm được tiên cơ, binh sĩ thủ quân và tưởng sĩ công thành quần nhau đẫm máu trên ba mặt của tường thành, trong chiến công thành, tỉ lệ thương vong cao nhất chính là vào lúc công thành như thế này.

Da xoa lôi được lăn xuống dưởi thành, bên trên vô sổ trường đinh nhọn hoắt được phóng xuống, đâm vào binh sĩ công thành, đâu rơi máu chày. những quả da xa lôi rơi xuống đè bẹp rất nhiều binh sĩ. những chiếc cọc gỗ chắc chắn dưởi đất đám xuyên bụng nát phổi họ.

Những chiếc xe lừa gỗ bị cọc trụ đâm vào đinh bộ, sau đó mãnh hòa dầu từ trên phóng xuống dưởi, đi theo nó là đại họa. Rất nhiều binh sĩ toàn thân bị bốc cháy, kêu gào thảm thiết, nhảy khói xe lửa gỗ để tránh mộc lôi thạch và tên thì lại bị loạn tiễn bắn chết.

Một làn khói đặc từ thượng phong đầu bay tởi, đây là do cò xanh bị đốt và xe hất cát tạo thành, cả đâu thành bị bao phủ trong đó. Những tiếng kểu gào thảm thiết lại vang lên không ngừng, mười mấy chiếc xe nhờ có màn khói bụi yểm trợ mà dựa sát được vào phía dưởi thành, bất kể những binh sĩ do thang dây bị đứt rơi xuống và lôi thạch trên tường thành đáp xuống bị đập, quân công thành vẫn chuyên tâm đào địa đạo.

Những người phụ trách đào địa đạo đều là những binh sĩ thần cường lực tráng. Một khi đã hiệp lực thì lập tức trao đổi vởi binh lính phía sau. từng rô đất được truyền đi thành hàng, chuyển đến những chiếc xe ở phía sau. những chiếc xe này lại dùng đất đó để đổ vào hào hộ thành, có tác dụng lấp hào.

Ting ting tang tang, những tạp âm này rất nhỏ. Nhưng Lưu Diên Lang ẩn người trong huyệt động sâu hai trượng lại nghe rất rõ. Tai hắn áp sát vào trong đáy vại. nghe thật kĩ tiếng truyền lại từ trong đất. rồi bỗng nhiên chạy ra ngoài.

“Cha, bên ngoài thành đang đào địa đạo, cự li là hai trăm bưởc về phía đòng, một trăm sáu mươi bưởc, một trăm mười bưởc, năm mươi bưởc, và chính diện, bốn bên có ba chỗ. khoảng cách tương đồng.”

Lưu Kế Nghiệp cau mày nói: “Hôm nay nhân mã bên ngoài thành công thành không giống như lúc trưởc. Lúc trưởc chúng tuy có vũ khí công thành tinh vi, nhưng vận dụng lại không thành thục. Bây giờ…Hình như đã đổi chủ tưởng, hơn nữa hình như đối vởi pháp thủ thành của chúng ta cũng đã rõ như lòng bàn tay…”

Hắn trầm ngâm một lúc, ra lệnh: “Tiếp tục nghe ngóng, truyển lệnh cho tất cả các đội, tại chỗ chúng đào đất lên chuân bị trộn thạch tín, hóa dược, đợi một khi chúng đào tiến vào trong thành thì đánh. Đồng thời chuẩn bị hỏa dầu, thiết lôi mộc để phá vỡ xe mà địch bố trí bên ngoài thành.”

“Vâng!” Lưu Diên Lang đáp lời rồi đi.

“Rầm!” Tiếng kêu ẩm vang cực lởn phát ra từ chồ những chiếc xe, đám binh lính đang đào hẩm đểu ngẩng đẩu lên nhìn. Những chiếc xe được gia cố năm lẩn và giảm hiệu quả chấn động rung lên một chút, mấy cái giá xe kêu rằng rắc rồi dừng lại. Kha Trán Ác lởn tiếng nói: “Không cần phải để ý đến nó. tiếp tục đào!”

Hắn nhặt một chiếc xẻng ngắn nhưng sắc nhọn, đi về phía trưởc, xúc đất ở chồ phía dưởi tường thanh rồi hất về phía sau thật nhanh.

“Rầm!” Lại một tiếng động cực lởn vang lên. thấy một tảng đá lởn ném xuống chiếc xe, có người hét lởn: ‘Đoàn luyện đại nhân, đinh xe cháy rồi.”

“Mặc kệ nó. đào. tiếp tục đào.”

Mắt của Kha Trấn Ác cũng đã đò, dưởi tường thành đã đào sâu đến bảy. tám thưởc, cứ mỗi bưởc đào tiến lên thì hai bên lại dùng những khối gỗ tròn rắn chắc để chổng đỡ.

“Rẩm.” Lại một khối đá nữa rơi xuống, đinh đẩu xe bị phá vỡ một lồ lởn. những chiếc cảng rắn chắc cũng đã có chút lung lay.

“Đoàn luyện đại nhân, mau đi thôi, đinh xe đã bị đập hóng rồi.”

Kha Trẫn Ác vẫn mặc kệ, cắn rằng tiếp rục đào.

Một thùng mãnh hỏa dầu đổ xuống qua chiếc lỗ bị thúng đó, sau đó bốc cháy, may mà những binh sĩ ở dưởi xe đã sởm có chuần bị, đểu tránh cả ra.

“Đoàn luyện đại nhân, nếu còn không đi thì xe sẽ sập xuống.” Hai binh sĩ lo lắng nói. rồi xông vào kéo Kha Trấn Ác ra. “Cho cùi. cho tạp, nhét đẩu dầu vào.”

Kha Trấn Ác hung tợn nói. Mấy binh sĩ sởm đã chuẩn bị một đống cùi. liền đồ mạnh hòa dẩu nhét vào trong hố, Kha Trấn Ác liền châm lửa mồ cảnh củi rồi ném vào trong cái hố, cẩm chắc thuẫn, lởn tiếng nói: “Rút lui.”

Phía sau cái hố phun ra một ngọn lửa phùng phực. Kha Trấn Ác dẫn người chặt móc câu giữa đẩu xe và tấm mành che, lấy tẩm mành che để yểm hộ, nhanh chóng tản đi.

“Rẩm!”

Dưởi đất vốn là bùn ưởt. lửa nóng vào làm nó biến thành lò nưởng, làm cho một bộ phận tường thành bắt đẩu phồng lên. Khi những khối gỗ tròn chống đỡ bị hủy. một bộ phận tường thành kết cấu băng đất đã lóng ra không thể chịu được trọng lượng của chính mình mà bị lún xuống. Tuy nói cái hố đấy vẫn chua đào đủ sâu. Chưa đủ rộng, một mảng tường thành chi lún xuống ba thưởc, ảnh hưởng tởi toàn bộ tường thành không lởn, nhưng tường điệp, tường chắn mái. lỗ tiễn đều bị phá hỏng, đặc biệt là binh sĩ quan binh trên tường thành bị ảnh hưởng lởn, đã có người hoảng loạn kêu lên: “Thành bị phá rồi. Thành bị phá rồi, mau chạy thôi…”

Người hét là binh sĩ Ngân châu bản địa, người đó đứng lên lên từ chỗ tường thành bị vỡ, nhất thời không hiểu tình hình, chỉ thấy cả mảng tường đã đô. đang lúc hoảng loạn kêu lên thì xoẹt một cái một ánh sáng lóe lên. cái đầu lập tức bay khỏi cái cồ hắn.

Một tên võ quan Khiết Đan trừng mắt lên quát: “Làm loạn lòng quân, giết! Nhìn cái gì. thủ thành, thủ thành! Chúng không thể xông lên được.”

Tất cả các đội quân của Khiết Đan thiếu nhưng vũ khí công thành tiên tiến, chi có thể dùng thang dây độn thổ . Dùng chiến thuật biển người để khổ chiến vởi quân thủ thành, hưởng tấn công chủ yếu là phía thành môn. ủng thành bên ngoài thành đã bị phá vỡ, những chiếc xe chở đẩy những cây gỗ lởn để phá cổng thành, mồi lẩn xung kích đểu có binh sĩ ngã xuống dưởi loạn tiễn.

Lúc này thứ không đáng tiền nhất chính là nhân mạng, đã không còn ai để ý đến sự sồng chết của họ nữa. mỗi người đều chém giết đỏ cả mắt, cũng không có ai để ý tởi phái đỡ ai đó dậy, họ chi có thể đơn độc bò lên chiến trận, nhìn những người đồng hành của mình đẩy xe, dùng hết sức phá thành mòn cứng, vững chắc như thể không bao giờ phá vỡ được.

Tiếng Việt

“Rẩm!”

Cửa thành cuối cùng cũng bị phá một cái lỗ lởn, vụn gỗ bay ra, bắn tung tóe. “Giết, giết!”

Binh Khiết Đan đểu đó cả mắt. những khối gỗ cực lởn được các binh sĩ công thành thu lại, nhanh chóng chuyển hưởng, nhắm sang cửa thành đã lay động khác, tiến hành phá hoại cuối cùng, binh sĩ hậu phương đã phấn chấn trèo nhanh lên chiến mã, chuẩn bị tốt cho trận xung kích.

Trận đánh này quả thật là rất tốn sức. Bọn họ vốn đểu là những võ sĩ thiện tiến công, xung phong không có gì là bất lợi, nhưng kẻ địch lại gi­ao thủ bằng cách nấp sau những lởp chắn bảo vệ như ủng thành, thành lâu. tường chắn mái để phóng tên, thêm nữa những thể nghiệm trưởc đây chưa đủ. làm cho họ tích tụ phẫn nộ. bây giờ cuối cùng cũng đã tìm được con đường để phát tiết ra.

“Rầm-“

Một nửa cánh cửa còn lại đã bị phá vỡ, những binh sĩ may mắn còn sống sót qua các trận trưởc vô cùng vui mừng hoan hi, thúc ngựa chạy tởi. Những tiếng vó ngựa rầm vang từ phía sau dội lên. Đại đội kị binh như lốc xoáy vọt lên. tay cầm những thanh đao sáng lóe giơ lên cao…

Thành Ngân châu đã bị phá rồi!

Những kị sĩ Khiết Đan tay cầm đao sắc xông vào được trong thành thì đột nhiên ngẩn cả ra. Có khoảng hơn tám trăm người xông vào. hoàn toàn chiếm cứ được bản vi nội thành, nhưng bên trong ngay cả một thủ quân cũng không có. phía trưởc mặt lại xuất hiện một thành môn nữa, đã chặn đường tiến quân của họ. Đó là một tòa ủng thành, một ủng thành di động, một úng thành của nội thành, ủng thành này từ từ được đẩy về phía trưởc, đến khi tường thành và hai bên trái phải gần như hợp dính sát vào mởi nhau mởi dừng lại.

ủng thành, mời quân nhập ủng. Trên ba mặt tường thành có vô số cung thủ đứng dậy. bắn tên như mưa…

Hàng trăm kị sĩ xông tiến vào thành đã chật cứng cả ủng thành. bên ngoài những đàn cá cứ ùa vào. sắp bị chật cứng vởi đoàn kị sĩ ở phía trưởc, người ngựa chen nhau dày đặc không thể chịu nổi. Phía trưởc tiến không được, lùi không xong, phía sau lại không biết có biến, vẫn không ngừng xông lên. bị những tưởng sĩ ở gân cửa thành lởn tiếng gào thét, nhưng hoàn toàn không nghe rỗ họ nói những gì.

Lúc này. trên tường thành đã hất xuống những chiếc thùng lởn bẳng gỗ, nắp thùng đã bị mở ra, bay lộn nhào trong không trung, bắn tung tóe một chất dịch màu đen dính, ơ phương tây, loại dịch này được người ta gọi là mồ hôi ma quỷ…

Ngẩng đẩu lên nhìn thấy những chiếc thùng lởn rơi xuống đất, binh mã Khiết Đan hoảng loạn mở to mắt ra nhìn, họ nhìn thấy đi theo sau những chiếc thùng đó là nhưng cây đuốc…

Rất nhiều binh sĩ Khiết Đan dính phải thứ mồ hồi ma quỷ đó. lửa bên vào, khuôn mặt hoảng hốt quay đi quay lại trong ngọn lửa, kểu gào thám thiết, xông về trận doanh của mình, dáng vẻ rất kinh khủng, kểu gào thể lương, làm cho người ta phải khiếp đàm…

Xe đao đã bị tắc ở cổng thành, phía trưởc xe đao là vô số những thi thể người và ngựa, phia dưởi đểu là những tử thi bị đốt cháy, phía trên là thi thể được người ta ném từ trong thành ra. Trên thi thể vẫn còn cảm rất nhiều tên. người bị bắn rất giống con chim. Phía sau xe đao lại là bức tường thành dựng thẳng đứng lên tởi đỉnh băng đá tảng và bao cát.

Thi thể bị vứt ra từ trong thành, đây là một loại đe dọa. Những chiếc tên cắm trên thi thể không được rút ra, rõ ràng là muốn cho ngoài thành thấy rõ thủ quân bên trong chuẩn bị rất đầy đủ. Da Luật Tà Chần đứng trên vọng lâu, thấy thi thể chất cao như núi, nhưng lại không tỏ ra một chút ý nhụt chí nào. Từ đầu cho đến cuối, khuôn mặt như thể được khắc trên một tảng đá. Phía trưởc cho dù có chết hàng trăm vạn người hắn cũng không động sắc như vậy.

Giống Da Luật hưu Ca, hắn cũng là một tưởng lĩnh bắt đầu được trọng dụng sau khi thánh thượng Da Luật Hiền kế vị. Trước đây danh tiếng cũng không lởn lắm, uy danh của Da Luật Hưu Ca lúc này tuy vẫn chưa truyền khắp thiên hạ. Vị danh tưởng Da Luật Tà Chẩn này trong trận chiến sông Cao Lương, trận Yến Vân từng đại bại quân Tổng và còn bố trí mai phục bắt Dương Kế Nghiệp ở Tò Cháu lúc này cùng không lấy chiến công để nổi tiếng thiên hạ.

Cả đời hắn chiến công hiển hách, nhưng hắn là kẻ thiện dã chiến, chiến công hiển hách sáng chói của hắn đểu là giành được ờ trong nội cảnh Khiết Đan , đểu là khi quân Tống bắc phạt Khiết Đan, tất cả quân đội phản kích. Còn đối vởi công phá thành trì, hắn tuy có hiểu chút ít nhưng không hề giòi, lúc trưởc cũng chưa từng khổ luyện nghiên cứu. lúc này hình thế trong và ngoài nưởc Khiết Đan lại rất ít gặp phải loại chiến công thành, nếu như lấy nghiên cứu công thủ thành làm chủ thì cơ hội sử dụng quả thật là quá ít, đó chính là kĩ thuật giết rồng, cho nên loại chiến thuật này trưởc này không được người Khiết Đan gọi trọng, nhung lẩn này bao vây công thành Ngân Châu , hắn cuối cùng cũng biết được chi dựa vào tưởng sĩ thiện chiến, thì khi đổi mặt vởi tòa thành kiên cố cũng phái bó tay.

Thở dài một tiếng, Da Luật Tà Chẩn quay đầu sang hai bên nói: “Bắc quốc chúng ta ở trên thảo nguyẻn vạn dặm, bộ lạc tộc trưởng lấy di chuyển du mục làm chũ. con dân sinh ra trên ngựa, sống ở trên ngựa, thiện dã chiến mà không thiện cung thủ. dựa vào cung kị mà xông lên. Khó có kẻ nào bẳng nổi ta. Còn người nam lại sống trong thành, lấy nông canh mà sống, thiện dựa vào thành mà chống địch. Nếu luận về vũ khí công thành thì vũ khí của chúng ta không những đơn sơ, mà còn sử dụng không được đúng lúc. không dùng đúng cách. Tuy có tinh binh nhưng lại khó phát huy được sở trường, đây chính là điểm yếu của chúng ta.

Khánh vương bây giờ đã làm cho thành Ngân châu đến gió mưa cũng không lọt. đây chắc chắn không phải là sở trường của hắn, chắc chắn Khánh vương khi chiếm được Ngân châu cũng đã chiêu mộ được tưởng lĩnh thiện thủ thành, mà hắn chi dựa vào những tưởng lĩnh này đã có thể được uy phong như vậy. chiến pháp thủ thành tri của người nam quả thực là rất cừ. Các ngươi hãy quan sát cần thận, toàn tâm học theo, sau này không chừng sẽ có ích đấy.”

Chúng tưởng nghe xong liền đồng thanh đáp lại.

Dương Hạo cũng chú ý học theo kĩ xảo chi huy của Chiết Duy Chính và Chiết Tử Du. Chiết Duy Chính lại không ngại để cho hắn nhìn thấy cách vận dụng và chi uy đổi vởi khí giởi và chiến thuật của mình, Dương Hạo cũng không ngại để lộ những khí giởi công thành tinh xào thiện chiến mà mình nắm trong tay cho người Khiêt Đan thấy. Những thứ này đểu rất dễ bị mô phóng. Trong lịch sử cũng đã ghi chép lại, chi sau mấy trận chiến thì đã có thể nắm chắc hoàn toàn những vũ khí tiên tiến của người Hán. Họ ngoài có thể giáo dục quân lính bằng những trận chiến đẫm máu để rất nhanh nắm vững tri thứ mà còn có thể nắm chắc được từ những từ binh mà họ có trong tay. Nếu muốn nắm vững bí mật không để cho người khác biết thì trừ khi vĩnh viễn đừng dùng. Công cụ chiến tranh không ngừng tiến bộ. nghệ thuật chi huy cũng không ngừng hoàn thiện. Vận dụng kì diệu đều là ở sự thống nhất, đó mởi là mấu chốt của chiến thắng.

Phía thành Dương Hạo tấn công đã bị sụp đổ ba chỗ. tổn thương đều không phải là nghiêm trọng, nhung tính vững chắc của tường thành đã chịu tổn thương nặng, Chiết Duy Chính và Chiết Tử Du vội vàng bản luận mấy câu rồi lập tức thu binh, dừng công kích mạnh, lại điểu động binh tập trung xe ném đá, tiến hành tấn công mạnh bằng đá vào đầu thành, để có thể đạt được chiến quá lởn. Đồng thời chiến pháp tâm lý mà Dương Hạo đã đề nghị cũng tiếp cận được gi­ai đoạn cuối, ở đầu ngọn gió đã cho thả rất nhiều điều, trên đó đều có rất nhiều truyền đơn được viết bằng văn Khiết Đan và văn Hán để thả vào trong thành.

“Đại ca. đại ca. phía tây thành đã có một số người tháo chạy ra, tất cả đều bị chúng ta bắt rồi…”

Loan Đao Tiểu Lục phi ngựa tởi, từ xa đã hưng phấn kêu to.

Dương Hạo mừng rỡ. quay lại nói vởi Chiết Tử Du. nói: “Kế vây thành bỏ khuya của ngũ công tử quá nhiên cao minh, mở ra một mặt nhất định có người sẽ sinh lòng hoang tưởng.” Chiết Tử Du được hắn tán dương chỗ đông người, trong lòng không khỏi vui mừng, nhưng ngoài mặt vẫn không tỏ ra gì. chi hắng nhẹ một cái, mất tự nhiên nói: “Ta chi dự liệu rằng tập trung binh tấn công tam diện, khi tấn công thành xuất hiện tình cảnh nguy hiểm thì trong thành tất có người muốn tháo chạy ra ngoài. Khánh vương thủ thành khi điểu động tinh binh tác chiến, những người ỡ thành tây bị chúng bỏ mặc chính là binh già yếu tàn tật. Có thể đuổi theo Khánh vương tởi đây đa phẩn phẩn đểu là tinh binh, lính thủ thành tây tất sẽ là những lào tốt bản địa thiếu kinh nghiệm chiến đấu. những phú thần hào thương muôn thoát khỏi thành bị bao vây thì sẽ không tiếc tiền mua chuộc kẻ gác cổng để được thả ra, nếu như cho trốn chạy mấy hộ gia đình, chi cần người nhận được lợi không nói thì người bên cạnh cũng không biết, những thổ tốt đó thấy lọi sáng mắt cũng chưa chắc không dám mạo hiểm. Chi là ta không ngờ rẳng nhanh như vậy đã có người chạy thoát ra, xem ra Khánh vương không nhận được lòng người trong thành Ngân châu rồi.

Thái úy, từ miệng họ không chừng chúng ta có thể biết được một số tình hình hữu dụng.

Dương Hạo liên tục gật đẩu: “Không sai. Ngũ công tử nói có lý. Tiểu Lục, những người đó đâu?”

Loan Đao Tiểu Lục nói: “Thiết Ngưu đang dẫn bọn họ tởi đây. Sắp tởi rồi.”

Dương Hạo vội vàng nói: “Đi. chúng ta đến đó xem.”

Dương Hạo cùng đám người Chiết Duy Chính, Chiết Tử Du. Mộc Ân chạy như bay đi, từ xa đã nhìn thấy Thiết Ngưu dẫn một đoàn người đi về phía họ. Dương Hạo vội vàng tăng tốc đến. Từ xa. nhìn thấy Dương Hạo. Thiết Ngưu liền lởn tiếng nói: “Đại ca. trong thành tồng cộng có năm hộ nhân gia tháo chạy ra, bảy mươi ba người, đều được đệ bắt về đây.”

Dương Hạo ghìm dây cương. Vừa nghe thấy người này chính là chủ soái trong quân, đám người nam nữ già trẻ đều lần lượt quỳ xuống, khấu đầu cầu cứu nói: “Thái úy khai ân. thái úy tha mạng, chúng tôi đều là những gia đình lương thiện trong thành, không phải là đồng đảng của Khánh vương, thái úy đại nhân minh giám..

Những người này đểu quỳ lạy xin được giữ tính mạng, từ trong đám người đấy lại có một nữ tử thoát chạy ra từ sau, chân chừ muốn trốn sau lưng nguời khác, hành động như vậy lập tức đã dẫn tởi sự cảnh giác của Dương Hạo. Đám người quỳ xuống, nữ tử đó liền ngân ra. tuy nàng ta phần ứng rất nhanh, lập tức cũng nhanh chóng quỳ xuống, nhưng Dương Hạo đã nhìn rõ được nàng ta.

Trong lòng Dương Hạo lập tức bị chấn động: “Là nàng ta? Sao lại có thể là nàng ta?”

Dưởi chân ngựa có một đám người khấu đẩu xin tha mạng. Dương Hạo chi chưa để ý tởi, hắn dừng ngựa một lúc, đột nhiên dùng dây ngựa chi về phía nữ tử đứng sau cùng, cúi đầu thấp nhất trong đám người. Trầm giọng nói: “Cô. lại đây.”

Bờ sông Hoàng Hà, Nhạc Thai, huyện Tuấn.

Lý Dục vác một bao cát. thờ hổn hển bò lên để. quăng bao cát xuống đất. ngỗi phệt xuống. Trưởc mắt tối thui, tim đập như trống gõ. Hắn thật sự rất mệt, công việc phải dùng sức mà cả đời hắn làm kể cũng chưa hết mười đầu ngón tay. Hắn chi thường dùng đều xoa da mĩ nhân, chi dùng để chấm mực làm thơ. Trưởc đây hắn đểu phái dùng những tấm nệm khổ ráo nhất, mểm mại nhất mởi có thể ngủ được, bây giờ từ đẩu đến chân đểu ưởt đẫm bùn đất. nhưng chi cần một lúc là hắn có thể ngủ ngon như con lợn chết.

Nhưng hắn cũng không còn cách nào khác. Triệu Quang Nghĩa đang bưởc bưởc lởn đi qua người hắn, mỗi cánh tay đều kẹp ba bao cát, bưởc nhanh như bay. hình như cái sức lực không bao giờ dùng hết đã được bộc phát. Đương kim hoàng đế Đại Tổng có thể đích thần đứng trên bờ để, vuợt mạo hiểm chống chọi vởi cơn hồng thủy bất kể lúc nào cũng có thể ập tởi, cho dù người bên cạnh có thành chó chết cũng không ai có thể oán hận.

“Phịch!”

Nguyên quốc chủ Kinh Hồ Chu Bảo Quyền trượt chân một cái, cái bờ để chết tiệt này. Hắn cố sức mà bò dậy. từng bưởc đẩy hai bao cát lên bờ để. sau đó ngỗi dựa vào Lý Dục, thở hổn hển. Áo bào của hắn nhăn nhúm, toàn thân là bùn đất. Ai nhìn cũng không thể tin được rằng đây lại là chủ của Kinh Hồ trưởc kia và là hữu vũ lâm thống quân sứ Chu Bào Quyển. Lý Dục và Chu Bảo Quyẻn ngỗi dựa vào nhau, mắt nhìn chăm chú. thấy Triệu Quang Nghĩa đang bưởc bưởc lởn tởi trưởc mặt huyện lệnh, lởn tiếng quát hòi: “Khám Tam Đạo. ngươi đã biết tội chua?”

“Thần. ..tội đáng chết vạn lần.”

Khám Tam Đạo hai tay bắt chéo sau lưng, khom người chạm má xuống đất, liên tiếp dập ba cái: “Cầu quan gia ban chết!”

“Được, được. được, ngươi biết tội là được rồi.” Triệu Quang Nghĩa ngẩng đẩu lên trời cười ba tiếng, kiếm trong tay vung lên. Bổ mạnh tay xuống.

Một thanh kiếm sắc bên, “xoẹt” một cái. Chém đứt dây trói hai tay huyện lệnh Khám Tam Đạo. Dây trói bị đứt. Cánh tay Khám Tam Đạo được thả lỏng ra, người hắn rung lên một cái. sau một hồi. Hắn mởi chần chừ động tay. Từ từ di chuyển lên về phía trưởc, ngẩng đầu dậy. nhìn hai bàn tay của mình, lại ngáng đâu lên đây kinh ngạc nhìn Triệu QuangNghĩa.

Triệu Quang Nghĩa thu kiếm lại, nói: “Con người đểu có lòng sợ chết. Nhưng chết tuyệt đối không phải là chuyện đáng sợ nhất trên đời. Ngươi là một người học lễ nghĩa liêm sỉ. Trung hiếu tiết nghĩa. Đã nhận trông giữ một phương thì nên coi bách tính của mình như con của chính mình, hết lòng yêu thương bào vệ. Khám Tam Đạo, người đã thấy hồng thủy ngập trời, trưởng rẳng đẻ điêu đã không thể thủ. Nhưng trong lúc nguy cấp lại dẫn cha mẹ thê tử con cái bỏ chạy. Có thể thấy tuy ngươi sợ chết nhưng phần lượng cái chết trong lòng ngươi còn không quan trọng bằng tính mạng của người thân. Trẫm lần này không phạt tội ngươi, cũng không bãi chức quan của ngươi, chi hi vọng ngươi có thể được nhận được một sự giáo huấn, đem sự hiếu thuận vởi cha mẹ. Sự yêu thương vởi thê tử con cái mà dành một ít cho dân chúng dưởi quyền cai trị của ngươi và triều đình.

Khám Tam Đạo kinh ngạc không thôi: “Quan gia..

Triệu Quang Nghĩa nói: “Ngươi vẫn là huyện lệnh của huyện Tuấn, bây giờ để điều tuy đã được thủ vững, nhưng chi có thể ứng phó tạm thờị. Làm thế nào để tu bồ để điều, mãi mãi duy trì được an toàn một phương thì ngươi cần phải cẩn thận tìm cách khắc phục.”

Khám Tam Đạo tìm được sự sống trong cái chết không ngờ hoàng đế lại khoan hồng độ lượng như vậy, hắn cảm kích rơi nưởc mắt. đầu gục xuống đất, dập đẩu. lởn tiếng khóc nói: “Quan gia. vi thần lập tức chuyển nhà lên để ở. không tu sửa được tốt con để này, đảm bào sự bình an của dân chúng một phương, thì thần vĩnh viễn sẽ không rời khỏi con để này. sống phải giữ được để. Chết cũng phải chôn cốt ỡ để. làm trung thần Đại Tống, làm trung thân của bệ hạ.”

“Bệ hạ lấy tấm thân chí tôn vi dân mà hộ để. đó là đại nghĩa. Thần tử phạm tội khẳng khái tha bổng, đó là đại nhân. Chi cô hiên vương, tham hoàng ngũ đế cũng chưa từng như vậy. Đại Tổng thật là có phúc.”

Lô Đa Tốn chắp hai tay. Lớn tiếng nói. Triệu Quang Nghĩa cười nhạt, quay người nói: “Hồi thành!”

Mộ Dung Cầu Túy đi sát theo người Triệu Quang Nghĩa. Triệu Quang Nghĩa bưởc nhanh như bay. Khóe miệng hé điệu cười như cười như không: “Hắn muốn làm trung thẩn thì sao trẫm có thể không cho hắn thỏa. Một đại trung thẩn đã đặt trẫm vào chỗ chết.”

Mộ Dung Cẩu Túy lĩnh hội. vội vàng nói: “Thẩn hiểu, qua ba bốn tháng nữa, thần…nhất định sẽ để cho hắn chết một cách vinh quang, làm một trung thần gương mẫu chịu sự giác ngộ của quan gia.”

Triệu Quang Nghĩa dẫn văn võ bách quan trờ về thành Biện Lương, chuyến trờ về thành này rất náo nhiệt, văn võ đầy triều nhưng phàm là những quan viên từ tứ phẩm trờ lên đểu bị hắn kéo tởi bờ để cùng sống cùng chết, người nhà của họ đều như ngỗi trên đống lửa. Bây giờ cuối cùng cũng trở về rồi. tất cả gia quyến đều chạy ùa tởi thành tây như nưởc lũ để nghênh đóa

Triệu Quang Nghĩa vừa tởi thì tất cả đã quỳ xuống hô vạn tuế. lại có rất nhiều người chạy lên trưởc, tìm người thân trong đám người, gặp được nhau thì hoan hỉ roi nưởc mắt. Triệu Quang Nghĩa ngỗi trên cao, nghe thấy những tiếng hổ vạn tuế vang ầm, lẩn đầu tiên hắn cảm nhận được sự vinh quang vô thượng ngoài quyền lực.

Tuyền lực và vinh quang đều đã có được, cuộc đời như thế này cũng nên viên mãn rồi chứ? ừm.. .không không không, vẫn còn có mây đen, vẫn còn có một đại công đại nghiệp mở rộng biên cương bờ vực. Đợi khi ta thu hết đất tây bắc. Đoạt về mười sáu châu, lúc đó ta mởi là nhất đế thiên cổ. ha ha ha…

Triệu Quang Nghĩa cười lệnh cho người cuộn rèm lên. cười vẫy tay vởi dân chúng phía dưởi. Đột nhiên mắt hắn sáng lên, trong đám người hắn nhìn thấy một gương mặt như ngọc như hoa làm cho người ta nhìn một lẩn đã không thể quên. Hắn nhìn chẳm chẳm vào, nhưng nhìn kĩ thì mĩ nhân đó lại đang cầm tay, nưởc mắt như mưa và đang nói gì đó…

Trong lòng Triệu QuangNghĩa đột nhiên nóng lên; chủ của thiên hạ phải chăng cũng nên có mĩ nữ vô song đi cùng?

“Vương Kế Ản!”

“Có thần!”

Vương Kế Ân bây giờ đã được phong làm thứ sử Hà Bắc tây đạo, cho nên hắn giờ xưng thần chứ không thể lại xưng nô tài. Đại thần bên cạnh đều có người thân đến đón, những đại thần đó vừa tởi công thành cũng đã chủ động đi tìm người thân của mình, còn Vương Kế Ân trong thành lại không có người thần nào. cho nên hắn vẫn đi cạnh ngự giá của Triệu Quang Nghĩa, hắn giờ tuy đã mặc áo thần tử nhưng vẫn theo như thói quen cũ khó bỏ được, vẫn khom lưng cả chặng đường, đầy dáng vẻ của nô tài. Nghe thấy Triệu Quang Nghĩa, hắn liền bưởc lên trưởc đáp một tiếng, có điêu chữ “thần” học được rất nhanh.

“Kế Ân này. Tháng này thân quyến quan viên trong triều đến yến kiến hoàng hậu là ngày nào?”

Vương Kế Ân nhẩm tính một lát rồi đáp: “Hồi bẩm quan gia, là ngày kia. quan gia sao lại…”

“ừ…”

Ngự giá đi về phía trưởc, lệ ảnh nhìn một lẩn mà khó quên đó đã không còn thấy nữa. Hình ảnh lọt vào mắt đểu là khuôn mặt tươi cười của sĩ thân trong thành. Triệu QuangNghĩa mờ mịt cười, nói: “Lần này văn võ trong triều đều lên để kháng thùy, thân quyến quan viên đểu lo lắng sợ hãi, cũng đã ăn trái đắng, lẩn này khi quan thân quyến quan thẩn yết kiến nương nương, trẫm cũng sẽ đi gặp họ. thường cho họ để trấn an…”

Chương 427: Hồ phượng

Chiết Tử Du, Mộc Ân vội đến, thấy Dương Hạo dẫn theo một cô gái và một đại hán khôi ngô đi tới bên cạnh, không khỏi nhìn nhau, ngạc nhiên vô cùng. Tất cả mọi người đều nhìn Thiết Ngưu:

“Không liên quan đến ta, đại ca vừa thấy cô gái đó thì đã gọi cô ấy lên trên trả lời, sau đó tên thô bỉ kia thì chạy ra bảo vệ, rồi theo đại ca đi bên cạnh, ta cũng không biết nói đại ca đang làm trò quỷ gì nữa”.

Đám người không hẹn mà cùng nhìn về phía Chiết Tử Du, tình cảm giữa cô và Dương Hạo có mà như không, tướng lĩnh trong quân được coi là tương đối nghiêm túc cũng đã có cảm giác gì đó rất lạ, lúc này đương nhiên là muốn xem xem phản ứng của cô ra sao, Chiết Tử Du bị họ nhìn một cách ngờ vực, không nhịn được song lại cố gắng hít một hơi dài, lấy lại bình tĩnh.

Dương Hạo dẫn một nam một nữ đi ra, rồi tự nhiên hỏi: “Cô là…Lục cô nương?”

Cô gái này là Lục Tương Vũ là người vợ bị Đinh Thừa Tông vứt bỏ, Đinh Thừa Tông bỏ vợ, Dương Hạo biết chứ, hắn nghĩ rằng, Lục Tương Vũ sớm đã về nhà mẹ đẻ, song không ngờ lại gặp cô ta ở nơi này, lạ thật, bèn lệnh cho cô ta lên trước trả lời, Lục Tương Vũ liếc thấy cố nhân, xấu hổ, chần chừ không chịu tiến lên, binh sĩ thuộc hạ của Dương Hạo thấy cô gái này dám không nghe lời Tiết soái, liền kéo cô ả lên, lúc ấy một đại hán khôi ngô bước ra bảo vệ, Dương Hạo lúc này mới phát hiện ra có gì đó khác thường, thế là hắn gọi họ qua một bên tiến hành vặn hỏi.

“Ta…ta…” Nghe hắn gọi Lục cô nương, Lục Tương Vũ giật nảy người, nước mắt lăn dài trên má, mũi cô phập phồng, cô khẽ ngẩng đầu dậy nói: “Nô gia…nô gia đã từng gặp Dương đại nguyên soái.”

Từng là chủ tớ, nay cảnh ngộ khó lường, nghĩ lại mà cũng thấy thực sự kỳ diệu. Dương Hạo trầm mặc một lúc rồi cười gượng nói: “Quả nhiên là cô, sao cô lại ở đây?”

Lục Tương Vũ thấy hắn không có ý nhạo báng gì và cũng không có ý chê mình hèn mọn, lúc này mới khẽ thở phào trong bụng, và kể lại mọi chuyện cho hắn nghe.

Hóa ra ngày hôm đó Lục Tương Vũ bị Đinh Thừa Tông ném cho một tờ hưu thư và đuổi ra khỏi Đinh gia, rồi vì Đinh Lão Nhị nghĩ cách hãm hại lấy tài sản của Lục gia, hại tới mức Lục lão gia tức mà chết, lúc đó cô ả giật dây từ trong, cho nên Lục gia không nhận cô con gái này nữa, và đuổi ra khỏi nhà. Thời tiết vào đông lạnh buốt, Lục Tương Vũ lang thang trên đường, và nhảy xuống sông tự vẫn, song lại được Trịnh Thành Hòa Trịnh đại hộ cứu vớt.

Trịnh Thành Hòa Trịnh cứu mỹ nhân, thích thú cũng không vội đưa về nhà, trước tiên là mang cô đến khách **** ở Bá Châu, uống hai bát nước gừng cho ấm người, mời lang trung khám bệnh, và cuối cùng thì Lục Tương Vũ hấp hối đã được cứu sống trở lại. Lục Tương Vũ là một tiểu thư khuê các, dung mạo vốn xinh đẹp, tính tình không hề phàm tục, Trịnh Thành Hòa Trịnh càng nhìn càng thấy thích, hỏi rõ chân tướng vì sao cô tả lại nhảy xuống sông tự vẫn, và đổi danh tính của ả, tự đặt cho họ Phong tên Tử Diên, Trịnh Thành Hòa Trịnh chỉ nghe nói cô bị người ta ruồng bỏ, thì đã thấy thích, nào có bận tâm tới chuyện thật giả, bảo nha đầu qua chăm sóc nàng chu đáo, qua vài ngày đã chút quen thân, đã có ý muốn nàng làm thiếp.

Trịnh Thành Hòa Trịnh xét về tướng mạo thì xấu xí, thô bỉ với người khác, nhưng đối với Lục Tương Vũ thì lại hoàn toàn khác, nếu như tìm cái chết không thành, thì suy nghĩ tự sát cũng bị tan thành mây khói, nghĩ đi nghĩ lại, không còn cách nào, đành đồng ý.

Khi nàng ta biết được Trịnh Thành Hòa Trịnh chính là người trang viên mua đất nhà Đinh gia, không khỏi vừa xấu hổ vừa nhục nhã, nào dám xuất đầu lộ diện với hắn, ẩn mình trong nhà cao cửa rộng chưa bao giờ dám nhìn mặt người. Trịnh Thành Hòa Trịnh thấy mình thật kỳ diệu, giỏi gi­ang, thấy nàng quy tắc lễ phép như vậy, nên đâm ra càng thấy thích.

Trịnh Thành Hòa Trịnh vốn là một thương nhân bộ lạc du mục miền bắc, buôn lậu da trâu dê ngựa mà giàu, không chỉ am hiểu kinh doanh buôn bán đất đai, hắn tuy muốn định cư, không muốn làm việc mạo hiểm kia, nhưng việc không như ý mình muốn, vừa không tiện lo liệu nông trang, vừa không có cửa tiêu thụ lương thực, thêm nữa lại có nỗi hận trong lòng, ngầm giở trò khi trồng hoa màu, nên sau khi thu hoạch thì phát hiện bị thiếu hụt, lương thực lúc ấy bỗng không bán đi được, nợ một khoản kha khá.

Trịnh Thành Hòa Trịnh luống cuống, vội vàng đưa ra một quyết định, đó là tìm người hạch toán sản nghiệp ra, sau đó lại một lần nữa về Tây Bắc theo nghiệp cũ, đi đi lại lại, nhiều thứ một lần nữa lại phải mua thêm, rất nhiều cách đều không ăn thua, tiền vung như nước, kinh tế trong tay thì như trứng chọi đá. Lúc hắn đến Ngân Châu cùng với tên Tiếu Đắc Lợi buôn lậu ngựa ở vùng đó làm ăn có lời, vốn mua da trâu dê ngựa không đủ, vì thấy tên họ Tiếu này thèm nhỏ rãi tiểu thiếp của mình, nên coi nàng ta là món hàng, kiếm lời.

Lục Tương Vũ không ngờ mình lại rơi vào bước đường bị người ta bán như một món hàng hóa, ả nản lòng, không muốn sống cùng tên họ Tiếu đó, tên họ Tiếu này là người Khiết Đan, thường xuyên làm ăn buôn bán ở Ngân Châu, xem ra chính là vì Tống quốc và Khiết Đan cùng cấm vận chuyển quân tư quan trọng, da ngựa là hàng cấm gi­ao dịch, cho nên buôn lậu là con đường có lời nhất, thế là hắn định cư luôn ở Tây Bắc, làm nghề buôn ngựa, thông qua Tây Bắc tuồn hàng đến Trung Nguyên và kiếm lời từ giữa, còn Trịnh Thành Hòa Trịnh chỉ là tên buôn nhỏ giọt, còn hắn mới là một tên thương nhân buôn lậu đại tài.

Tiếu Đắc Lợi là người miền bắc, không giống như đàn ông Trung Nguyên có sự kỳ thị với người đàn bà đã có chồng, chính thiếp của hắn mất sớm, vì đem lòng yêu mên Lục Tương Vũ, nên đưa cô từ thiếp lên làm chính thiếp luôn, Lục Tương Vũ thấy hắn thành tâm thành ý đối xử rất tốt với mình, chốn phồn hoa phù dung nàng ở, đã không còn là thời thiếu nữ ngây thơ lãng mạn nữa, và nàng cũng cắn răng chịu đựng theo hắn, Lục Tương Vũ có hiểu biết chữ nghĩa, lại xuất thân từ gia đình sĩ thân thương nhân, nên rất thông thạo kinh doanh, vợ chồng đầm ấm, gia sản thì càng làm càng nhiều, vậy nên cũng được trượng phu nể trọng rất nhiều.

Không ngờ sau đó không lâu, Khánh Vương từ phía tây trốn đến đây, giết phòng ngự sử ở đây, chiếm luôn thành Ngân Châu, các hào thân phú thương, các hộ giàu có Ngân Châu đều bị càn quét, vì Tiếu Đắc Lợi là người Khiết Đan, việc buôn lậu ngựa lớn như vậy nên có liên can rất lớn tới quân đội, còn giữ được cái mạng là may lắm rồi.

Nhưng dù thế nào đi nữa, hắn cuối cùng cũng là một đại thương nhân có của mà vô quyền, có một ngày Lục Tương Vũ bị một viên đại tướng của Khánh Vương Da Luật Hắc Thạch nhìn thấy, thế là tên Da Luật Hắc Thạch này đâm ra si mê Lục Tương Vũ, Tiếu Đắc Lợi chỉ là một thương nhân đơn thuần, để lộ ra ý muốn nhượng Lục Tương Vũ sang cho hắn, Tiếu Đắc Lợi tuy cũng là thương nhân, song vẫn có nghĩa khí hơn nhiều so với tên Trịnh Thành Hòa Trịnh, sao có thể dâng vợ mình bằng hai tay cho tên kia được, Da Luật Hắc Thạch tuy chưa rút đao tương hướng, song hắn cũng không ngừng tạo áp lực, khi mà chưa đâu vào đâu thì Dương Hạo lại dẫn binh đến dưới thành Ngân Châu.

Da Luật Hắc Thạch ngày ngày chinh chiến thủ thành, tinh lực tràn đầy, và cũng không quyên tiểu nương tử Tiêu gia, thường xuyên phái thân binh đi đến trước cửa quấy nhiễu, vừa đấm vừa xoa, bức Tiếu Đắc Lợi đi vào khuôn khổ, Tiếu Đắc Lợi đi vào đường cùng, lại nghe nói nam viện đại vương thống Điệp Lạt lục viện bộ năm vạn tinh binh đến thành Ngân Châu, và Ngân Châu này chưa chắc đã giữ được, một khi thành bị phá, có loạn binh, người Khiết Đan yên phận trong tay che chở của Khánh Vương sợ là cũng bị họ coi là phe cánh của Khánh Vương, lúc đó thì còn kham khổ hơn, bắt đầu nảy sinh ý nghĩ chạy trốn.

Lúc này đúng lúc đội quân ngoài thành cho hắn một cơ hội, Chiết Tử Du đưa ra kế lỗ hổng vây thành, thả ra một mặt thành không vây mà cũng không tấn công, có ý để đường ra cho thủ quân trong thành chạy trốn, trong thành điều động binh mã, nhanh hơn ngoài thành cho nên Khánh Vương bèn đưa quân chủ lực lên tác chiến với ba mặt thành, quân thủ Tây Bắc đều là người già kẻ yếu ở Ngân Châu.

Vài người này không thể đánh nhau được thủ đoạn cẩu thả cơ bí mật lại thêm cái việc mà Tiếu Đắc Lợi làm là buôn lậu, mấy viên tướng trong số họ đều có quen biết cả, vậy nên dúi cho lượng vàng, liền gật đầu như gà mổ thóc cho mấy tên thân thuộc qua, để họ ra khỏi cái lưới, không ngờ lại bị đám người ngựa Dương Hạo mai phục ngoài thành tóm được.

Lục Tương Vũ xấu hổ, đem mọi chuyện kể lại một lần cho hắn nghe.

“Đại nguyên soái, nô gia đã cải tà quy chính, bắt đầu lại từ đầu làm người tốt, trước đây nô gia có chỗ nào không phải với nguyên soái vẫn mong đại nguyên soái khoan dung độ lượng, giơ cao đánh khẽ, tha thứ cho hai vợ chồng ta”.

Dương Hạo thấy một tên buôn ngựa có râu quai nón đứng bên cạnh, lại nhìn sang Lục Tương Vũ nước mắt như mưa, bỗng cười nhạt một tiếng nói:

“Hắn là người Khiết Đan, đưa bao nhiêu người nhà từ trong thành trốn ra ngoài, sao lại có thể được chứ? Đây chắc chắn là kế của Khánh Vương, không hiểu là định giở trò gì, bổn soái há có thể trúng độc kế của hắn chứ, ngươi là một người phụ nữ chân yếu tay mềm, bổn soái không giết ngươi, nhưng hắn…”

Dương Hạo giữ chặt chuôi kiếm, rồi từ từ rút kiếm ra, chỉ vào phía trước, dĩ nhiên là tên họ Tiêu đó không sợ, Lục Tương Vũ hoảng hốt mở to mắt chạy tới trước che chắn cho Tiếu Đắc Lợi, khẩn cầu:

“Đại nguyên soái, lời của nô gia là thực, đại nguyên soái khai ân”.

Tiếu Đắc Lợi đẩy Lục Tương Vũ qua một bên nói: “Nương tử, ta là người Khiết Đan, rơi vào trong tay họ, thì không còn đường sống đâu.

Nàng đã giữ giọt máu của ta, đó là cốt nhục của Tiêu gia ta, ta có chết cũng cam lòng, nhưng chỉ mong nàng có thể có một con đường sống, bảo vệ lấy hậu thế của Tiêu gia, ta chỉ cần vậy thôi”.

Hắn bước dài lên phía trước, nhướn mày dữ tợn nhìn Dương Hạo, lớn giọng nói: “Ngươi là đại quan trong quân đội Lô Châu, nói lời tất giữ lời, ngươi giết ta rồi, thì phải đảm bảo cho vợ con ra được bình an, nếu không Tiêu mỗ chết rồi cũng sẽ không tha cho ngươi, đâm đi!”

Hắn xé áo, lộ ra bộ ngực trần trụi, nghênh đường kiếm của Dương Hạo, Lục Tương Vũ khóc thét: “Không được”, rồi nàng ta kéo lấy Tiếu Đắc Lợi, hét về phía Dương Hạo nói: “Đại nguyên soái nếu như cơn giận chưa nguôi thì cứ giết nô gia đi, chỉ xin nguyên soái khai ân, bỏ qua trượng phu của nô gia”.

Tiếu Đắc Lợi không chần chừ nói: “Nương tử, nói năng hồ đồ gì vậy, hắn đã đồng ý bỏ qua nàng, dựa vào thân thế của hắn, tất sẽ không thất tín…”

Lục Tương Vũ thút thít nói: “Nô gia sai nửa cuộc đời, giờ cuối cùng cũng tỉnh ngộ, ân tình phu quân dành cho nô gia sâu nặng như vậy, nếu như phu quân chết đi rồi, nô gia sống một mình cả đời này sao? Nếu nguyên soái không khai ân, thì nô gia sẽ đi xuống suối vàng theo phu quân”.

Dương Hạo khẽ thở dài, từ từ thu kiếm lại nói: “Lục Tương Vũ…hôm đó nhảy xuống sông tự vẫn, giờ đã được cứu sống. Cô có ý này, Dương mỗ cũng sẽ không dồn các người vào đường cùng nữa, được, thả họ ra!”

Lục Tương Vũ ngây người, vui mừng khôn xiết quỳ xuống, đại hán đó cũng ngây người, bị Lục Tương Vũ kéo vạt áo cùng quỳ xuống tạ ơn.

Dương Hạo chăm chú nhìn về phía thành Ngân Châu, rồi ánh mắt lại quay sang hai người họ, nói: “Nhà ngươi là người Khiết Đan, lại có chút quan hệ với quân đội Khánh Vương, chắc chắn là sẽ biết ít nhiều tin tức thủ quân ở trong thành chứ?”

Tiếu Đắc Lợi dù sao cũng là thương nhân, giỏi quan sát, vừa nghe thấy Dương Hạo hỏi vậy, vội nói: “Đại nguyên soái chắc chắn bỏ qua cho vợ chồng ta, đại ơn này sẽ báo, không biết đại nguyên soái muốn biết tin gì, Tiêu mỗ nếu như biết, sẽ nói với ngài”.

Dương Hạo mặt giãn ra nói: “Trong thành giờ còn dư bao nhiêu binh mã? Giờ người nào làm chủ việc thủ thành? Còn nữa, vị trí đóng quân là hình gì, không biết những tin này ngươi có biết hay không?”

Tiếu Đắc Lợi nghĩ một lát, chần chừ nói: “Nghe nói trong thành binh mã khi mà xuất ra quân chủ lực vây thành theo lệnh của đại nguyên soái lần đầu, tổn thất về binh sẽ không nhỏ, và hao tổn ấy không dưới ba bốn ngàn quân, ta cũng chỉ nghe nói có vậy, còn không biết cụ thể ra sao”.

Dương Hạo trong bụng biết rõ, nghe hắn nói không phải là nói dối, nên gật đầu.

Tiếu Đắc Lợi lại nói tiếp: “Mấy ngày nay quân thủ trong thành bị thương vong, số người chết cũng không dưới vạn người, giờ quân chính trong thành chỉ còn dư dưới hai vạn quân mà thôi, song họ đang đi bắt dân đinh khắp thành, những người này vốn hiểu chút võ nghệ, và cũng hiểu thuật chiến trận, dùng để làm quân thủ thành cũng dư dả, giờ mỗi hộ tóm lấy một trai đinh, tập hợp lại thì cũng có đến ba vạn tân quân, phân ra khắp đầu thành, một chính quân kèm một phụ quân, nếu như có thương vong, còn có thể gọi nhập ngũ, binh lực, sợ là không thiếu, lương thảo trong thành thì vô số, lại có thể dùng nhân lực, Khánh Vương mạnh vô cùng nên không sợ, tự cho rằng tướng quân suy sụp nguyên nhân là như vậy”.

Dương Hạo giật mình: “Trong thành còn có bao nhiêu hộ dân nữa?”

Hắn cũng biết dân chúng lúc này phần lớn là tập trung một chỗ, một hộ thực ra không phải theo kiểu kết cấu gia đình một đôi vợ chồng một đứa con như bây giờ, mà giờ mỗi hộ trong thành rút ra một trai đinh, và con số ấy lên đến ba vạn binh mã, những nhân vật giàu có và có quyền thế thì có thể dâng vàng bạc, cho thấy trong thành ít nhất còn có ba vạn hộ. còn nhớ đội quân Mông cổ bào thạch vô số, có thể chinh quán chiến, nhưng họ tấn công một tòa thành cô độc mà dùng thời gi­an là sáu năm, cuối cùng vẫn là Lữ Văn Hoán chủ động đầu hàng, lúc này mới chiếm được thành, nhưng có thể thấy nếu trong thành binh lực dồi dào, lương thực không phải lo, thì thủ thành lại đắc kỳ pháp thì phải biết là lợi hại thế nào, hắn không có đội binh lực dồi dào như đại quân Mông Cổ, như thế có đánh, sợ là thành Ngân Châu chưa đổ thì hắn đã đổ trước rồi.

“Ha ha ha, phu nhân bình thân, mau mau bình thân, không cần đa lễ”.

Triệu Quang Nghĩa nói rồi vội chạy đến đỡ, Tiểu Chu Hậu vội thối lui một bước, khẽ đứng dậy.

Triệu Quang Nghĩa thăm dò Tiểu Chu Hậu một lát, hai mắt hắn sáng lên. Hắn đã không động lòng thì thôi, một khi mà động lòng rồi thì có nghĩa hắn đã ngắm được người phụ nữ trước mặt mình, ôi thật là…Nhìn nhất cử nhất động của nàng, ánh mắt uyển chuyển, thậm chí là bộ dáng vội vàng thối lui của nàng, một cái nhíu mày cũng khiến cho người ta lao đao.

Triệu Quang Nghĩa định đỡ song không thành, hắn nhìn bộ dáng yểu điệu của Tiểu Chu Hậu, mắt chợt sáng lên, mỉm cười hỏi: “Trịnh quốc phu nhân không phải sợ hãi, hôm nay kỳ thực chính là Trẫm yêu cầu gặp nàng”.

Tiểu Chu Hậu mặt không chút biểu cảm, vội nói: “Quan Gia, thần thiếp xin bái kiến”.

“Được lắm!”

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười bước vào, nhìn thấy dung nhan xinh đẹp của nàng, làn da trắng trẻo láng mịn, hắn muốn tiến sát vuốt ve. Thực giống như hắn hồi còn trẻ lần đầu đưa mỹ nữ vào phòng, trái tim hắn lúc này cũng dao động và có cảm giác thèm khát hệt như lúc ấy. Triệu Quang Nghĩa thấy mình bị kích động, không kìm chế được bật cười: “Giờ đã bao nhiêu tuổi rồi, phu nhân xinh đẹp cũng không phải là chưa trải qua, hôm nay sao lại như vậy chứ? Đúng rồi, là danh vọng và thân phận cô ấy, mỹ nhân trong thiên hạ đều vậy, nhưng có vài mỹ nhân giống như cô ấy, sẽ càng kích thích đàn ông muốn chinh phục cho bằng được?”

Triệu Quang Nghĩa cố kìm chế dục vọng của mình, ôn nhu nói: “Phu nhân có thẻ biết Trẫm tại sao lại gọi nàng đến không?”

Tiểu Chu Hậu nghe giọng nói của hắn mập mờ, liền nâng cao cảnh giác, nhưng nghĩ hắn là Đế vương một nước, thân phận vô cùng cao quý, thanh danh xưa nay cũng rất tốt, chắc sẽ không có cử chỉ của tên hôn quân, lúc này mới chắp tay, nhỏ nhẹ nói: “Thần thiếp ngu muội, thần thiếp không biết”.

“Ồ, nếu như phu nhân ngu muội, thì thiên hạ này có người con gái nào thông minh được nữa chứ?”

Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa dần dần không che dấu được dục vọng, mỉm cười nói: “Tiểu Chu Hậu Nam quốc, thông minh xinh đẹp, thiên hạ ai không biết chứ, Trẫm ngưỡng mộ phu nhân đã lâu, trước đây, Trẫm là Nam nha phủ doãn, không tiện qua lại với phu nhân, giờ thì…ha ha…”

“Bệ hạ…”

Tiểu Chu Hậu thông minh cỡ nào, nghe đến đây đã biết có gì không ổn, không khỏi hoảng sợ ngẩng đầu lên, ánh mắt hàm ý vẻ khẩn cầu. Ánh mắt trong vắt như làn thu thủy quyến rũ vô ngần, thêm nữa là khuôn mặt non nớt, nhìn mắt Triệu Quang Nghĩa chỉ thấy vẻ bị mê hoặc.

Hắn không chịu nổi tiến thêm một bước, ngón tay run run nâng cằm Tiểu Chu Hậu lên, cười dâm dê nói: “Phu nhân à, nếu Trẫm có thể cùng với phu nhân khi ăn nghe nhạc, khi đứng được sờ bả vai, khi ngồi được xoa mông nàng, đêm đêm lưu luyến bên nhau, ngày ngày ân ái, thì trên thế gi­an này có gì hoan lạc hơn”.

“Bệ hạ…”

Tiểu Chu Hậu sợ hãi mặt trắng bệch, vội vàng thối lui nói: “Bệ hạ cửu ngũ chí tôn, là tấm gương cho thiên hạ, thần thiếp…là phu nhân Lý Dục Lũng tây quận công mà”.

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười tới sát hơn nói: “Phân thế có thể đổi, cảnh ngộ cũng có thể cảm biến mà.

Trẫm nghe nói Lũng tây quận công lãng phí vô độ, nàng còn muốn dựa vào đó sao, đến quần thần cũng đến tận cửa đòi nợ, hắn có thể lo cho nàng ăn ngon mặc đẹp không? Có cho nàng châu báu ngọc quý không? Có đem lại mỹ phẩm cho nàng không? Haiz! Người con gái xinh đẹp như nàng, nếu như ăn ngon mặc đẹp, thì thật là tội lỗi, nàng không muốn thay đổi vận mệnh của mình sao?”

Tiểu Chu Hậu đã chạm phải bức bình phong, không còn đường thối lui nữa, hai tay nàng đưa lên che trước ngực, sợ hãi nói: “Thần thiếp là vợ của hàng thần, Bệ hạ là quân phu, chuyện hoang đường đó, Bệ hạ sao có thể làm chứ?”

Triệu Quang Nghĩa cười ha hả nói: “Hoang đường? Chu công dâng tỉ cơ làm thiếp, Đường Thái Tông dâng Tiêu Hậu làm phi, Hoàng huynh dâng Hoa Nhị phu nhân làm tần, có gì mà không thể chứ? Nào có gì tổn hại đến thanh danh nào? Trẫm là cộng chúa thiên hạ, ai dám nói ra nói vào? Hoang đường ư? Khi việc đã thành, xem xem còn gì là hoang đường nữa không?”

Tiểu Chu Hậu bị hắn châm chọc rưng rưng nước mắt, vừa xấu hổ, nàng đã chịu nhục nhã như vậy, vội đẩy mạnh Triệu Quang Nghĩa, chạy nhanh ra ngoài, Triệu Quang Nghĩa giơ tay ra chặn lại “ba ba” một tiếng, triều phục bị hắn xé rách, vì nắng gắt cuối thu, quần áo triều phục không nhiều, Triệu Quang Nghĩa nhìn thấy áo lót của nàng, dục hỏa càng nổi lên, bước lên phía trước, hai tay giữ chặt lấy nàng, Tiểu Chu Hậu sợ hãi, quần áo trên người đã tuột mất nửa, chỉ còn thừa lại quần lót trắng quấn quanh.

“Cứu!”

Tiếng hét hoảng sợ của Tiểu Chu Hậu, cơ thể trần truồng, khó có thể gặp người, cuống quýt chạy trốn, vớ vội lấy bộ quần áo cung trang trên giá, quần lót trắng không thể ôm lấy cơ thể mềm mại, cơ thể trắng ngần lộ ra, da thịt tươi nhuận, đôi chân thon dài thẳng tắp, khiến người ta nhìn cả ngày không chán, chạy trốn như con thiêu thân, đôi mông trắng hồng Triệu Quang Nghĩa trở nên thú tính, chỉ cảm thấy mở cờ trong bụng, miệng lưỡi khô, hắn đuổi theo…

Tiểu Lục, ngày mai ngươi tiếp tục thả diều ở Thượng Phong đầu, cố gắng truyền đơn vào trong thành”.

“Vâng, nhưng…đại ca, cái này có dụng được không ạ?”

Đương nhiên là được rồi, bỏ bao nhiêu sức lực ra đấy, thành phần thủ quân trong thành rất phức tạp, giờ nguyên thủ quân Ngân Châu, theo tin tình báo mà Tiếu Đắc Lợi nói ta có thể thấy, họ vốn không được Khánh Vương coi trọng, hơn nữa bị binh Khiết Đan ức hiếp, sớm đã oán hận, họ phải đầu quân vào Khánh Vương vì họ còn có gia quyến trong thành, song sẽ không hàng Khánh Vương, bọn họ vốn không hề trung thành với Khánh Vương, chúng ta ngoài tấn công bằng lực , trong dùng kế tấn công bằng lòng người, họ tất sẽ dao động thôi.

Ngoài binh mã Khiết Đan, còn có quân chủ lực là thanh niên trai tráng trong thành chiêu mộ được, những người này càng không trung thành với Khánh Vương, chỉ là bị bức bách mà binh đao thôi, cũng có thể lôi kéo được, lát nữa ta đến chỗ Da Luật Tà Chẩn một chuyến, bảo hắn viết vài chữ Khiết Đan rồi truyền đến cho quân Khiết Đan trong thành, chỉ cần người không chết, họ cũng chưa chắc là bền chắc như thép được”.

“Vâng ạ, nhưng…trong số đó có vài thứ viết truyền đơn bừa bãi, ai không nhìn hiểu được.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Ngươi chớ hỏi nhiều, mấy truyền đơn này ngươi chỉ cần phát đi, đại ca tự có diệu kế”.

“Tuân lệnh!”

“Mộc chỉ huy, Kha đoàn luyện, hai người vẫn làm theo cách của mấy ngày nay, chỉ đánh nghi binh, giảm thiểu thương vong, chỉ mượn cơ hội diễn binh, tập luyện thuật công thành, hiểu chưa?’

“Tuân lệnh!”

Lúc này có một tên tiểu hiệu chạy tới run rẩy nói: “Tiết soái, người Ngân Châu đến rồi”.

“Gọi vào!”

Được một lúc thì thấy một dáng người gầy, dáng mạo xấu xí, mắt tam giác, quai hàm nhô xương ra, mặt vàng nghệ đi vào trong lều, thấy Dương Hạo hắn khom người thi lễ, giọng khàn khàn nói: “Ti chức phụng lệnh ngày đêm đuổi tới đây, chờ đợi sự dặn dò của tiết soái”.

Dương Hạo chau mày, nói với hai bên: “Các người lui ra!”

Đám thuộc hạ lui ra ngoài, Dương Hạo đặt tấm bản đồ xuống, đứng dậy nói: “Ngươi theo ta đến đây”.

Lều của Dương Hạo lều nối tiếp lều, phía trước là nơi bàn bạc quân cơ đại sự, sau khi vén rèm lên, thì vào nơi nghỉ ngơi của hắn, Dương Hạo dẫn gã này vào trong hậu phòng, nhìn hắn từ trên xuống dưới, nhíu mày hỏi: “Sao lại chỉ có mình ngươi đến?”

Gã đó lắp bắp nói: “Khởi bẩm đại soái, đại soái tấn công Ngân Châu, Phi Vũ cũng bôn ba khắp nơi, Hạ Châu, Ngân Châu và các nơi khác đều cần thăm dò, người thì có hạn, có võ nghệ cao cường, người phù hợp với yêu cầu đại nhân có hạn, thuộc hạ chỉ có một mình, song lại là người phù hợp với yêu cầu của đại soái”.

Dương Hạo thầm nghĩ: “Người không thể tướng mạo, người trên gi­ang hồ dị sĩ thật nhiều, đại ca nếu chỉ phái mình hắn đến, chắc chắn là cũng rất tín nhiệm”.

Dương Hạo đổi sắc mặt, hòa khí vỗ vai hắn, nói: “Được, ngươi đã nói vậy, bổn soái đương nhiên là tin rồi, hai năm nay bổn soái không thể về Trung Nguyên, Phi Vũ tuy là bổn soái sáng lập, mới vào có rất nhiều anh hùng hào kiệt, bổn soái cũng không hiểu rõ. Đến đây nào, ngồi đi, ta bàn bạc”.

Dương Hạo vẫy hắn ngồi trên giường, gã ngày nhìn đông nhìn tây, như có gì không tự nhiên lắm, Dương Hạo chỉ nói hắn ngồi cùng với thượng quan, cho nên trong lòng thấp thỏm, hắn có ý bị lung lạc, đương nhiên càng thân thiết, bèn nói: “Bổn soái có một chuyện quan trọng, muốn ngươi ẩn vào thành Ngân Châu làm, nếu việc này làm tốt, bổn soái sẽ đoạt châu dễ như trở bàn tay.

Ngươi vừa đến, cũng thấy tình hình của thành, có thể nắm chắc phần mười lẻn vào được thành không?”

Người đó nói: “Tòa thành to như vậy, phòng thủ lại nghiêm mật, chắc có lỗ hổng, mười người trăm người khó vào thành, thuộc hạ chỉ có một mình nếu lẻn vào,không phải là chuyện quá khó, song không biết đại soái muốn thuộc hạ làm gì? Lẽ nào…lẽ nào là hành thích Khánh Vương?”

Dương Hạo cười ha ha nói: “Có ngươi mới nghĩ vậy, sợ ngươi không làm nổi thôi. Nếu thành Ngân Châu ta có thể vào được, phủ viện lạc Khánh Vương có hạn, ngươi muốn lẻn vào cũng khó, nào đâu có chuyện dễ dàng cho ngươi hành thích? Nếu như bảo ngươi lẻn vào trại ta hành thích bổn soái, ngươi có làm được không?”

Mắt hắn sáng lên, sợ hãi nói: “Thế thuộc hạ tối nay thử xem”.

Dương Hạo dở khóc dở cười, Đinh Thừa Tông phái đến người nào thế này hả trời? Thực thiếu trí tưởng tượng, hắn vội giữ chặt lại, nói: “Được rồi, được rồi, không cần thử, ta cần ngươi vào thành, không phải là muốn ngươi đi giết người, mà là đi thực hiện kế sách”.

“Thực hiện kế sách?”

“Đúng vậy, kế ly gián! Ngươi đưa tai lại đây, bổn soái nói cho ngươi rõ”.

Gã đó mặt vàng vọt chần chừ giây lát rồi ghé tai về phía Dương Hạo, Dương Hạo bèn thì thầm to nhỏ gì đó vào tai hắn, nói được vài câu, mắt Dương Hạo bỗng nhìn chằm chằm vào má hắn, thấy má hắn trắng nõn hoàn toàn khác với màu da, mắt không khỏi nghi hoặc, hắn vội khịt khịt cái mũi, hình như hắn ngửi được mùi hương, sự nghi ngờ càng rõ rệt, giọng nói ngày càng nhỏ, gã mặt vàng ấy không nghe thấy gì càng ghé sát tai vào và thúc giục: “Đại soái nói gì vậy? Thuộc hạ nghe không…ôi!”

Hắn chưa nói hết câu bỗng giật mình kêu lên một tiếng, bàn tay thô to của Dương Hạo đã giữ chặt lấy cổ hắn, lớn tiếng quát: “Ngươi rốt cuộc là ai?”

Gã mặt vàng ngây người ra, người giãy dụa, hắn khẽ quay đầu lại, mắt tam giác của hắn sáng lên và khẽ cười, lộ vẻ đắc ý vô cùng, rồi trở nên xảo quyệt nói: “Hì hì, ngươi giờ mới phát hiện ra sao? Nếu người ta lúc nãy muốn giết ngươi, ngươi nói xem ta có làm được không, tiết soái đại nhân…”

***

Tiểu Chu Hậu cầm lấy quần áo, chạy trốn Triệu Quang Nghĩa vào góc bình phong.

Triệu Quang Nghĩa vui mừng, chỉ thấy mỹ nữ như đang trêu đùa mình, và như vậy chỉ tổn làm trỗi dậy cái bản năng vốn có của người đàn ông trong lòng hắn, nó hừng hực tiến tới Tiểu Chu Hậu, dù sao đi nữa thì đây cũng là thâm cung của hắn, như vậy Tiểu Chu Hậu có chạy đằng trời, không có lệnh của hắn thì không một ai dám đến xía mũi vào làm gì, hắn cởi bỏ áo khoác ngoài, đuổi theo Tiểu Chu Hậu, thỉnh thoảng hắn còn phun ra vài câu dâm tục, Tiểu Chu Hậu trong lòng chỉ có một mình Lý Dục, mà Lý Dục viết thơ từ thì miễn chê, bình thường nói chuyện cũng thêm thơ ca hoa lá cành vào, ngay cả chuyện giường chiếu cũng rất lãng mạn như thi như họa, như vậy thì nàng sao có thể chấp nhận được một Triệu Quang Nghĩa hung hãn, cố kỵ thế này, những lời nói thô tục mà cũng nói được, nàng bịt tai lại, chạy loạn lên như con chuột, biết mình không còn chỗ nào chạy được, sợ dừng lại lại bị hắn xông đến lăng nhục, những giọt nước mắt lăn dài trên má.

Triệu Quang Nghĩa chơi trò rượt đuổi thấm mệt, hắn dừng lại thở hồng hộc, mồ hôi đầm đìa, Triệu Quang Nghĩa đứng thẳng dậy, cố gắng kiềm chế lại cơn dục vọng, nói: “Nữ Anh, nàng không cần trốn nữa, nàng nên biết, Trẫm muốn có nàng thì nhất định sẽ đoạt được nàng, trên dưới người trong nhà nàng đều nằm trong tay ta, Trẫm chỉ cần lệnh một câu thôi, sống là sống mà chết là chết, nàng có chốn cả đời được không?”

Tiểu Chu Hậu tức giận nói: “Thần thiếp thà chết cũng không chịu sự làm nhục của bệ hạ”.

Triệu Quang Nghĩa cười nham hiểm, nói: “Nhưng Trẫm không để nàng chết!” Rồi hắn đột nhiên bước nhanh đến, Tiểu Chu Hậu vừa dừng nói, vừa mặc quần áo lại, Triệu Quang Nghĩa bỗng đánh tới, Tiểu Chu Hậu trốn không kịp, cánh tay đã bị hắn ôm chặt lấy, Tiểu Chu Hậu sợ hãi kêu lên, năm ngón tay cào vào mặt Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa nhanh tay nhanh mắt, ôm lấy tay nàng, còn tay kia sờ luôn vào ngực nàng, lần mò xuống dưới.

Hắn dâm dục bùng cháy, cầm chặt lấy hai tay Tiểu Chu Hậu, đang lúc cúi người xuống liếm láp bộ ngực của nàng thì có một tiếng ngoài điện, hắn quát: “Cái gì vậy hả, ai dám ngăn cản?”

“Bệ hạ, bệ hạ, ngài không được như vậy, Quan Gia nghiêm dụ”.

“Cút ngay, ngươi thì hiểu gì, lẽ nào ta cũng không là được? Khi nào ta phải gặp cha ta, phải cho các ngươi bẩm này nọ?”

“Bệ hạ, hôm nay không như hôm qua, Quan Gia là đương kim thánh thượng, bệ hạ…ôi, ngăn Hoàng tử lại, mau ngăn lại…”

“Đức Sùng? Đứa trẻ này lại làm loạn cái gì vậy?” Triệu Quang Nghĩa vừa nghe thấy vậy, dục khoái mất tiêu, vội bỏ người Tiểu Chu Hậu ra, Tiểu Chu Hậu vội vàng chạy nhanh mặc cung trang vào.

Triệu Quang Nghĩa mau chóng ra Hồi Xuân điện, thấy tấn chức nội thị đô tri cố chặn ngang lấy Triệu Đức Sùng, hai tiểu hoàng môn bên cạnh giữ chặt lấy vai nó, khiến Triệu Đức Sùng cười toe toét, Triệu Quang Nghĩa không khỏi nổi giận, lớn tiếng quát: “Đức Sùng, thân là hoàng tử, không biết thể diện, ở chỗ này làm loạn chuyện gì vậy hả?”

******

Dương Hạo nhìn cái tấm không có gì nổi bật đó, đáng khinh, quyến rũ, mặt khẽ cười, rồi bỗng cười vui vẻ nói: “Hóa ra là cô?”

“Đương nhiên là tôi rồi”.

Gã mặt vàng cũng cười: “Phải dấu tung tích, chuyện đêm vào nhà người ta ngoài Trúc Vận ra thì còn có ai là thích hợp nữa đây? Ngươi cho rằng Phi Vũ một tên mật thám có thể đột nhập doanh trại địch vào lúc nửa đêm? Tên đó ta đang huấn luyện, chưa đầy thời gi­an hai năm, đến chút da lông cũng không học được, thì có thể làm được chuyện gì to tát?”

Cô vừa nói vừa giải thích cặn kẽ thêm, điệu bộ, cử chỉ khi nói như khóe mắt, chóp mũi, chiếc miệng. Tuy da thịt vẫn thô ráp, song nét tinh nghịch vẫn lộ ra, và không giống gì một nam nhi cả.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Cô hóa trang thực quá sơ hở, cổ trắng trẻo chẳng có gì, đàn ông cũng có cổ nhỏ, nhưng màu sắc da mặt cô hoàn toàn khác với cái cổ, người lại còn có mùi thơm thoang thoảng, như vậy sao có thể giấu diếm được ta?”

Trúc Vận nhướn nhướn cái mũi nói: “Ta chỉ muốn tiện thể thử ngươi mà thôi, chứ không phải là muốn giấu diếm thân thế với ngươi, nếu không thì…”

Chương 428: Tình oán

Cô có một sự tự tin khiến người ta cảm thấy nó là tuyệt đối, dương dương tự đắc ưỡn ngực nói: “Nếu ta trang điểm cho cẩn thận hơn chút, thì đứng trước mặt nói với ngươi ta là con gái, ngươi cũng sẽ tìm ra sơ hở nào đó trên người ta, ngươi có tin không”.

Dương Hạo nhìn cô ta từ trên xuống dưới, ánh mắt lộ hàm ý cười bỡn cợt: “Thế cũng chưa chắc, nếu thực sự muốn tìm sơ hở của cô, thì đã luôn luôn có sơ hở”.

Trúc Vận không phục nói: “Thế là thế nào? Dựa vào bổn…của ta…phi”.

Cô liếc nhìn Dương Hạo, biết không phải là lời gì hay ho, nhịn lại nói: “Ngươi yên tâm, xung quanh không có trong ba mươi bước, một khi có người tới gần, ta tuyệt đối biết”.

Dương Hạo nghiêm mặt nói: “Tự tin là một chuyện tốt, nhưng quá tự tin thì được gọi là cuồng vọng đấy. Con người ta một khi quá cuồng vọng, thì sẽ trở thành khuyết điểm chí mạng. Tai mắt của ta tinh thông, không để ý đến cô, có thể coi là hơi kém so với cô. Trong hai mươi bước có người đến gần, ta cũng sẽ cảm nhận được, nhưng nói như vậy ta cũng không dám nói, người ngoài có người, thiên ngoại hữu thiên, thế giới này nhất định có người có thể dễ dàng đi đến sau ta, rồi sát vào thân ta, ta cũng không thể phát hiện ra hơi thở của hắn, có cao nhân bản lĩnh như vậy, khó mà tìm được người thứ hai, mỗi chuyện mà ngươi làm đều rất nguy hiểm, mong cô nương từ nay về sau có thể nhớ kỹ lời ta, làm việc phải cẩn thận, sẽ không bao giờ có chuyện xấu đến với cô”.

Trúc Vận nghĩ ngợi hồi lâu, rồi nghiêm mặt nói với hắn: “Thái úy lời nào nói ra cũng đều có lý, Trúc Vận xin thụ giáo”.

Dương Hạo lúc này rất hài lòng nói: “Cô lại đây, ngồi xuống đây nào, ta sẽ nói cẩn thận cho cô nghe”.

Trúc Vận tuy hơi không quen gần với đàn ông, song vẫn nghe lời ngồi xuống, Dương Hạo sau một lúc lâu thì thầm to nhỏ, hai người một hỏi một trả lời, đối với kế hoạch của Dương Hạo, Trúc Vận dần dần đã hiểu, không kìm khỏi mặt mày hớn hở nói: “Một kế hoạch quá hay, kế hoạch lần này của thái úy nếu thành công, Khánh Vương nhất định sẽ như bị chặt đứt cánh tay, vì bị thái úy áp chế”.

Dương Hạo cười hì hì nói: “Ở thành Ngân Châu này, ta thực sự đã chịu nhiều khổ cực, song mong kế hoạch lần này thành công. Trúc Vận, thực sự là ta không nghĩ cô lại đến, song nói việc này thì cô làm là hợp lý nhất, nhưng dù sao thì cô cũng là thân nữ, ghi nhớ kỹ, việc có thất bại thì cũng không sao hết, nếu tùy thời không đúng, thì mau chóng ẩn đi, ngộ nhỡ có gì sơ xuất, an toàn là trên hết.

Trúc Vận mở to mắt nghi ngờ nhìn Dương Hạo, rồi khẽ cười nói: “Song ta là người của Thừa Tự đường, nhưng nói câu gì không dễ nghe, ở Thừa Tự đường, ta chỉ là một con chó đi men vòng ngoài cung người ta, năm 20 tuổi bắt đầu giết người đầu tiên, mỗi khi ta tiếp một sai sứ thì đều nguy hiểm tới tính mạng, những tên thuê ta, còn có các trưởng lão của Thừa Tự đường, chưa bao giờ nói với ta một câu như thế, giờ có câu này của thái úy, Trúc Vận sẽ xông pha khói lửa, bất chấp gi­an nguy hoàn thành nhiệm vụ của thái úy gi­ao, như thế có chết cũng cam tâm tình nguyện”.

Lời này nói ra đủ chua xót, Dương Hạo không ngờ cô lại quá bị đau lòng, bèn trêu: “Nói vậy thực là điềm gở, thu lại đi. Còn nữa, một tên đàn ông xấu xí cười duyên như vậy, nói khiến người ta cảm động, tuy trời rất nóng, ta vẫn sẽ bị nổi da gà”.

Trúc Vận bật cười, đột nhiên bịt tay vào miệng Dương Hạo, ra bộ chớ có lên tiếng.

“Chỉ có một người, đã vào trước lều rồi”.

Trúc Vận hơi đắc ý, tiếp tục khoe khoang: “Đi lại nhẹ nhàng là luyện gia tử”.

“…”

“Ồ, là con gái, cô ấy còn có kiếm, ta nghe thấy vỏ kiếm đập”.

Dương Hạo bỗng chen lời vào nói: “Cô ấy đi đôi giày Man, mũi giày có thêu hoa văn, bên hông đeo đoản kiếm, người hơi thấp hơn cô nửa cái đầu, năm nay chưa đến mười tám tuổi”.

Trúc Vận ngạc nhiên nhìn hắn, mắt lộ vẻ ngưỡng mộ nói: “Ôi trời ơi, cái này mà ngươi cũng nghe ra? Ngươi còn chưa luyện thành thiên nhãn thông lợi hại như vậy?”

Dương Hạo thở dài nói: “Ta chỉ thấy tiếng bước chân trùng hợp mà thôi”.

“…”

Dương Hạo lại nói: “Cô ấy đang đến đây”.

Trúc Vận mở to mắt nói: “Ta cũng nghe thấy”.

Dương Hạo nhìn ngó xung quanh nói: “Cô trốn ở đâu mới được nhỉ?”

Trúc Vận trừng mắt nhìn hắn: “Tại sao tôi phải trốn?”

Dương Hạo mặt nghiêm nghị rồi bỗng bật cười nói: “Trúc Vận được lắm, ta nhớ rồi…cô đóng vai cây đại thụ phải không?”

“Thế là thế nào?”

Dương Hạo nhìn thấy và bổ cây đại thụ trong lều, rồi chỉ tay vào đó.

*****

“Dương thái úy, ta có thể vào không?” Ngoài lều truyền tới giọng Chiết Tử Du.

Dương Hạo đi ra, mỉm cười, cầm lấy tay cô nói: “Tử Du, nàng đến rồi đấy à?”

Chiết Tử Du thấy hắn ân cần, đâm ra nghi ngờ nhìn quanh lều, trong lều trống không, không khỏi kinh ngạc nói: “Tiểu Vũ nói từ Lô Châu có người đến thông báo tình hình với chàng, sao lại không thấy ai cả vậy?”

Dương Hạo bình thản nói: “Ồ, ta đã tống cổ hắn đi rồi, lại đây, lại đây nào, nàng ngồi đi”.

Chiết Tử Du vào trong lều, hít hít mũi nói: “Hình như có mùi thơm ở đâu đó?”

Dương Hạo bình thản nói: “Đúng thế, mùi gỗ tùng mà”.

Chiết Tử Du nhìn thấy một cái cây lớn mọc trong phòng, tao nhã vô cùng, liền khoanh chân ngồi xuống thảm, liếc mắt nhìn Dương Hạo, mắt hơi nhíu lại: “Thái úy, tại sao hai ngày nay lại tấn công như vậy? Xem ra thủ quân phòng thủ rất cẩn mật, nhân mã của ta còn lâu mới tấn công được Khiết Đan, nhưng dựa vào vũ khí công thành của chúng ta, nếu toàn thành này có thể nằm trong tay, thì dễ có đến tám chín phần hướng phá thành sẽ ở hướng của chúng ta. Giờ chợt ngừng tấn công, tuy nói là quân đội có thể nghỉ ngơi, nhưng thủ thành cũng có thể nhân cơ hội này mà cố gắng tu chỉnh lại tường thành, sau đó lại quay sang tấn công, sợ rằng độ khó sẽ gia tăng…”

Dương Hạo mỉm cười ngồi xuống phía đối diện cô, rồi tiện rót luôn một chén trà cho cô, để ở cái bàn phía trước, nói: “Điều này đương nhiên là ta biết, nhưng nhân mã Lô Châu, đã không chịu nổi hao tổn lớn hơn rồi. Cùng với dùng lực, không bằng dùng trí, mấy ngày này ta không ngừng phát tờ rơi vào trong thành, mong có thể có tác dụng, một khi dân tráng trong thành, binh tốt thủ thành và phản quân Khiết Đan tan rã, thì chúng ta có thể dùng một số tiền nhỏ nhất mà được một thành công lớn nhất. Thành lũy tan rã từ trong, mới là dễ công phá nhất”.

Chiết Tử Du trầm ngâm nói: “Thủ nội bộ…cố nhiên tổn thất nhỏ nhất. Nhưng, giờ ta và Phi Vũ của chàng đều mất đi liên lạc nội tuyến, nếu như không thể liên hệ được với quân và dân tráng ngân Châu, để mời chào, để thu mua, nói điều kiện này, cho hứa hẹn, và dựa vào mấy tờ truyền đơn có thể trông cậy vào họ vứt bỏ theo Khánh Vương và quay sang đầu hàng hiến thành, nói dễ hơn làm?”

Dương Hạo nói: “Điều này ta biết, cho nên…ta mới từ Lô Châu điều người Phi Vũ đến, chẳng sợ thiệt hại, cũng khiến vài người trong số họ hỗn loạn lên. Hai ngày trước ở trong Ngân Châu có đám người chạy ra, ta đã hiểu tình hình trong thành, chỉ cần người của ta có thể lén vào thành, liên hệ được với đám binh và đám dân tráng Ngân Châu thì có thể uống thuốc đúng bệnh, họ có thể yêu cầu gì nữa? Song đem danh lợi mua chuộc lòng người, bảo vệ bình yên, việc này ta đều có thể đồng ý làm được, một khi sự thành, tòa thành Ngân Châu khó mà thủ được”.

Chiết Tử Du nhíu mày lại một lúc, rồi ngẩng đầu nói: “Có cần…chúng tôi, tùy thời phái người tương trợ, bên ta cũng có vài kỳ nhân dị sĩ, hoặc có thể phái công dụng”.

Dương Hạo vội nói: “Không cần nữa, nàng làm cho ta như vậy đủ rồi, ta cũng không biết…nên làm thế nào để cảm ơn nàng”.

Chiết Tử Du khẽ nói: “Nói gì đến cảm ơn chứ, trên dưới Lô Châu, hàng vạn quân dân đều nhờ cả vào chàng, lần này có bại, liên quan đến trọng đại, giờ lâu công không thể, ta thực là rất lo lắng, nếu như thủ chiến thất lợi, sát vũ trở về, chàng nên thế nào là tốt”.

Dương Hạo cảm thấy người nóng ran, cầm lấy tay nàng, cảm kích nói: “Tử Du…”

Chiết Tử Du không dãy dụa, và cũng không phản kháng, để mặc cho hắn cầm lấy tay mình, nói nhỏ: “Chàng đừng hiểu lầm, Lô Châu và Phủ Châu ta giờ đã cùng là đồng minh có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, cho nên ta mới…còn về giữa ta và chàng…hic, qua thì cứ cho nó qua đi, ta không hề oán giận gì chàng, nhưng cũng…không thể lại nghĩ nhiều nữa?”

“Tại sao không thể? Nàng nói ta vô liêm sỉ cũng được, tham lam cũng được, ta giờ chỉ không muốn để nàng rời xa ta, Tử Du, ta…không dám tưởng tượng, có một ngày nàng lấy người ta…”

“Thế thì sao?”

Chiết Tử Du bập răng vào môi, từ từ nhướn mày, ánh mắt sáng ngời nói: “Ta đã ra đi, lẽ nào không thể trở về sao? Chàng nói cho ta hay, ta nên làm thế nào đây? Lấy chàng, làm ngũ nương của Dương gia sao?”

Dương Hạo ngẩn người, không nói câu gì. Trước mắt là người con gái lần đầu làm rung động trái tim hắn, hai người tình oán đến tận hôm nay, yêu hận tình thù đã phức tạp, hơn nữa cũng không thể giải thích rõ, hắn không nỡ rời xa Tử Du, tình không nỡ quên, hắn có thể nói gì được đây? Nếu như hắn là một cố nhân rõ đầu rõ đuôi, hắn có thể không chút do dự để cho nàng lấy hắn, đúng lý hợp tình, nhưng hắn không phải vậy, vừa nghĩ đến phu nhân tứ phòng của mình, hắn sao dám mở miệng?

Mắt hắn từ từ nhìn đi chỗ khác, mắt Chiết Tử Du từ sáng bỗng trở nên u ám, cô khẽ cười, rút tay mình về, nói: “Đối đầu với kẻ địch mạnh, không nên nghĩ nhiều nữa, chúng ta dựa vào lời mà thái úy nói, xem xem có thể liên lạc với tay chân trong thành được không, nếu như không được, chúng ta hẵng tấn công dồn dập, thái úy, Tử Du…xin cáo từ”.

Tiếng bước chân dần xa, Dương Hạo ngồi lặng người ở đó, lòng nao nao.

Hoa văn trong trụ sản sinh sự biến hóa, giống như người ta mắt hoa lên thấy đường cong vặn vẹo, nét vẽ có sự biến hóa ấy không ngừng động đậy, đột nhiên chợt tắt, Trúc Vận cô nương xuất hiện.

Trụ này chặt cũng quá là cân đối? Vừa thô nữa chứ, bổn cô nương ôm trụ này, đến nơi mượn lực cũng không có, mệt đến chết đi được, may mà các người nói chuyện không lâu, nếu không thì ta cũng không thể đỡ được”.

Dương Hạo vẫn trầm ngâm không nói gì, Trúc Vận khẽ hừ một tiếng, nói: “Thái úy đại nhân có khi thông minh tuyệt đỉnh, có khi lại ngốc như con lợn”.

Dương Hạo đờ người nói: “Ta ngốc thế nào?”

Trúc Vận múa may tay chân, từ từ đi gần lại hắn nói: “Nhìn bộ dáng Chiết Tử Du lúc nãy, rõ ràng là muốn hứa hẹn với ngươi, ta dám đánh cuộc, chỉ cần ngươi nói ý của ngươi nghĩ ra, là trong lòng có cô ấy, thì chắc chắn cô ấy sẽ lấy ngươi ngay lập tức, nhưng ngươi lại đánh trống lảng, lùi bước, đối với cái loại bỏ đi không có can đảm như ngươi, thì vừa đi vừa không mắng ngươi mới là lạ”.

Dương Hạo đờ người nói: “Hứa hẹn gì cơ? Cái gì gọi là hứa hẹn? Vì ta không đoán được suy nghĩ của cô ấy, nhỡ đâu nói sai câu nào, sẽ làm mọi chuyện rối tung lên, cô nương cũng là con gái, cô cũng biết cô ấy nghĩ gì sao?”

“Thế ta làm sao biết?”

Trúc Vận cô nương nói thẳng: “Bổn cô nương 20 tuổi bắt đầu giết người, ngươi nếu như hỏi thủ đoạn giết người của ta, thì ta có thể nói với ngươi ba ngày ba đêm không hết, còn về chuyện này, ngươi thỉnh giáo ta, thì ta đi thỉnh giáo ai đây?”

Dương Hạo buồn bã lắc đầu, Trúc Vận nhìn mặt hắn, vội an ủi: “Nghe khẩu khí vừa rồi của cô ấy, thái úy lần này dùng kế ly gián, cô ấy còn không biết?”

Dương Hạo nói: “Đúng”.

Trúc Vận hơi nheo mắt lại, hiếu kỳ nói: “Ta thấy cô ấy thực rất là quan tâm đến ngươi, tại sao lại dấu cô ấy chứ?”

Dương Hạo cầm lấy chén trà mà khi nãy rót cho Tử Du mà nàng chưa kịp uống, nhấp môi rồi nói: “Vì…viên đại tướng thủ thành là anh rể của cô ấy, ta không thể biết được giữa họ có mối liên hệ nào không, và cũng không chắc là một khi biết sẽ có phản ứng ra sao, ta không thể mạo hiểm”.

Trúc Vận im lặng, khẽ than: “Nhưng lần này đến, ngươi có thể xin lỗi cô ấy”.

Dương Hạo mặt méo xệch nói: “Ta biết”.

Trúc Vận an ủi nói: “Song…nếu ta nói với cô ấy, đó chính là đưa đến sự mạo hiểm cho vô số hảo hán theo ngươi ở Lô Châu, cô ấy cũng đành chấp nhận…”

Dương Hạo ngẩng mặt, buồn bã nói: “Có thể có một người hồng nhan tri kỷ như cô nương, Dương Hạo ta buồn khổ, hai bên làm khó, người này sinh…cũng không phải vô cùng cô đơn”.

“Ngươi chớ khách khí”. Trúc Vận vỗ vỗ vào bả vai hắn, rồi ngồi trước mặt hắn, tỏ ra hả hê nói: “Ta chỉ là rất muốn biết, Chiết cô nương khi biết ngươi lại lừa cô ấy thì sẽ có phản ứng thế nào thôi”.

******

Tiểu Chu Hậu trở về Lũng Tây quận công phủ, trong lòng vẫn đầy hỗn loạn, nghĩ tới tất cả mọi chuyện vừa nãy, cô vừa thẹn vừa thấy nhục nhã, may mà có hoàng tử Triệu Đức Sùng tới, nếu không thì cái con người yếu liễu đào tơ như cô sao có thể phản kháng lại được, giờ chỉ sợ đã rơi vào…

Lời nói của Triệu Quang Nghĩa vẫn văng vẳng bên tai cô: Một khi thoát được, thì có trốn nổi cả đời không. Hắn là Yến đế Đại Tống, mình là con chim trong lồng của hắn, lần này may mà chạy thoát được, lần sau phải làm thế nào đây?

Tiểu Chu Hậu lấy lại bình tĩnh hít một hơi dài, vừa mới đi vào trong hậu viện, ngẩng đầu lên nhìn thấy một người đi lại, Tiểu Chu Hậu giật mình, hét toáng lên, rồi lùi lại phía sau, người đó vội đến đỡ cô, hỏi: “Nữ Anh, nàng sao vậy?”

Tiểu Chu Hậu định thần lại nhìn, thấy là trượng phu của mình, lúc này mới thở dài, sợ hãi nói: “…không…không có gì ạ”.

Lý Dục dò xét cô, rồi nghi ngờ hỏi: “Nữ Anh, nàng…sáng sớm vào cung, mặc bộ mệnh phu triều, sao…sao giờ lại mặc đồ cung?”

Tiểu Chu Hậu mặt từ đỏ ửng chuyển sang chắng bệch, lắp bắp nói: “Ồ, bộ đó…không…cẩn thận…umm, Hoàng hậu nương nương lệnh thiếp làm thơ ứng đối, không cẩn thận làm rơi nghiên mực, làm bẩn quần áo, nên nương nương ban thưởng cho bộ cung phục. Phu quân, thần thiếp hơi mệt, muốn…vào phòng tắm rửa nghỉ ngơi một chút”.

Tiểu Chu Hậu nói, rồi vội vàng vào phòng ngủ của mình, Lý Dục đứng đó, nghi ngờ nhìn theo bóng dáng cô, sau một hồi suy nghĩ, sắc mặt chợt biến, bước nhanh đuổi theo.

Tiểu Chu Hậu dặn dò đám nô tỳ chuẩn bị nước nóng, đang toan cởi quần áo ra, Dương Hạo bỗng bước vào, Tiểu Chu Hậu giật thót tim, rồi mới ý thức được mặc quần áo lại, thấy trượng phu của mình, lúc này mới thầm nghĩ, nói: “Phu quân vào đây làm gì vậy?”

Lý Dục thở phì phò, bước vào nhìn từ trên xuống dưới người cô, bỗng như nhặt được hòn ngọc, cầm lấy cổ tay cô, chỉ vào cánh tay hét lớn: “Đây là cái gì? Đây là cái gì hả? Nàng…nàng là dâm phụ, không tuân thủ nữ tắc”.

Tiểu Chu Hậu bị hắn mắng, ngạc nhiên nói: “Chàng…chàng nói cái gì?”

Lý Dục chỉ vào cánh tay nàng cười nhạt nói: “Nàng còn giả vờ ngốc nghếch ư? Đây là cái gì? Đây là cái gì hả? Ta nói nàng hôm nay vào cung gặp nương nương thì sao lại về muộn đến thế, còn cái gì là nghiên mực đổ vào quần áo, dâm phụ, cánh tay vẫn còn vết hằn, nàng giải thích sao đây?”

Da Tiểu Chu Hậu trắng như ngọc, sáng hồng, bị Triệu Quang Nghĩa dùng lực tóm lấy, in hằn năm ngón tay trên da, vết hằn rõ mồn một không thể che dấu, Tiểu Chu Hậu lúng túng một lúc lâu sau, và kiên trì giải thích: “Thiếp…thiếp thực sự là bị Quan Gia lừa tới Hồi Xuân điện, hắn cưỡng hiếp thiếp không thành, thiếp…”

“Dâm phụ, cuối cùng thì ngươi cũng đã thừa nhận”.

Lý Dục tức như lửa, giơ tay tát bốp vào mặt cô, khiến cô lảo đảo, suýt nữa thì ngã quỵ xuống đất, Lý Dục tức giận, đau lòng mắng: “Tiện tỳ, uổng công Lý Dục ta một lòng tốt với ngươi, si mê ngươi, giờ nước mất nhà tan, cố thổ nan quy, ta chỉ mong vợ chồng sống gần nhau suốt quãng đời còn lại này, không thể ngờ là ngươi lại như vậy, lấy nhan sắc cơ thể làm mê hồn quân vương, mong có vinh hoa phú quý, ngươi thật vô liêm sỉ, là một con tiện nhân”.

“Thiếp không…không…”

Tiểu Chu Hậu không ngờ về đến phủ bị trượng phu ruồng rẫy như vậy, tức run người, hai hàng lệ thi nhau rơi: “Quan Gia thực sự là có ý làm nhục thần thiếp, nhưng thần thiếp sao cam chịu như vậy được, đã cố gắng dãy giụa, may mà có hoàng tử Đức Sùng làm ầm lên trong cung thì mới có cơ hội thoát thân, Chu Nữ Anh từ khi vào cung phục vụ phu quân đến nay, luôn một lòng một dạ, giữ phép tắc, có đời nào…”

Lý Dục giận tím mặt nói: “Từ khi vào cung tới nay? Đúng, giờ Lý Dục ta đến cái cung còn chẳng có, ngươi nhân cơ hội này mà vào cái cung nào đó và giở thủ đoạn phong tình của mình ra đi, ngâm ca hầu hạ cho Hoàng đế nào đó, ngươi còn muốn dấu ta ư? Đương kim Hoàng đế si mê nhan sắc của ngươi, còn có ai dám ngăn hắn chứ? Ngươi là con tiện tì chỉ biết dựa vào dung nhan, về đến nhà còn không biết xấu hổ, lại còn đi lừa gạt ta? Tiện tỳ, đồ vô liêm sỉ, tiện nhân. Lý Dục ta có mắt như mù, không được để ngươi cưỡi đầu cưỡi cổ được nữa…”

Lý Dục tức giận run người, miệng nói không lưu loát, Tiểu Chu Hậu thấy hắn vậy, nước mắt dần khô kiệt, ánh mắt chợt trở nên vô hồn.

Đây là người đàn ông mà cô luôn yêu thương kính trọng sao? Vị tài tử trong số Hoàng đế, thương hoa tiếc ngọc, một Lý Dục với một kho kinh thư sao? Hắn tức giận, rít gào như sấm, giống như một con sư tử, hắn…hắn là người đàn ông của mình sao?

Tiểu Chu Hậu nhếch miệng cười ảm đạm: Hắn không tin thê tử của mình, hắn không thể bảo vệ được đất nước của mình, thần dân của mình, thậm chí cả người đàn bà của mình, khi hắn cho rằng mình chịu sự nhục nhã, phản ứng duy nhất của hắn là gán cho thê tử của mình là tiện nhân, thực quá lắm.

Lý Dục thấy mặt cô ảm đạm cười, giễu cợt mình, mạnh dạn tiến đến trước một bước, tát luôn vào giữa mặt cô, quát: “Con tiện nhân vô liêm sỉ, ngươi còn dám cười à, ngươi cười nữa đi”.

Tiểu Chu Hậu hất mặt lên, lạnh lùng nói: “Tại sao ta không thể cười chứ? Ngươi có bản lĩnh thì đánh đi, đánh nữa đi, đúng, Quan Gia muốn cơ thể ta đấy, Quan Gia muốn ta hầu hạ đấy, Chu Nữ Anh xinh đẹp kiêu sa, đã rơi vào mắt xanh của Quan Gia, ngươi đoán đúng lắm, tất cả đều là sự thật, thế…thì sao chứ?”

Cô tức giận tiến lên một bước, quát: “Phu quân đại nhân đã tức giận tới cực điểm rồi sao? Thế ngươi giết ta đi. Ngươi là trượng phu của ta, ngươi là người đàn ông của ta, ngươi rút kiếm vào cung đi tìm tên gi­an phu lấy lại công đạo thì mới được coi là có bản lĩnh, ngươi có gan đó không?”

“Ta…ta…” Lý Dục bị dao động, thối lui từng bước.

Tiểu Chu Hậu vứt luôn bộ quần áo cầm trên tay, búi lại tóc, cơ thể lõa đồ trắng nõn, cơ thể nửa kín nửa hở, vẻ đẹp rung động lòng người, cơ thể mềm mại dường như bị phong tỏa băng và hỏa, giọng lạnh như băng, ánh mắt như lửa thiêu trụi, cô đi gần lại phía Lý Dục, lạnh lùng nói: “Ngươi kêu đi, kêu to nữa lên đi, kêu nam nữ hạ nhân, để cho mọi người xung quanh đều nghe thấy nữa đi, để biết được phu nhân của Lũng tây quận công ngươi trở thành đàn bà của Hoàng thượng, ngươi thỏa mãn chứ?”

“Ta…ta…” Lý Dục không ngừng thối lui, đến cửa thì vấp vào cửa, suýt nữa thì ngã nhào ra cửa, vẫn sợ hãi thối lui, Tiểu Chu Hậu thấy bộ dạng hắn thảm hại liền bật cười lớn, cười run rẩy toàn thân, nhưng ánh mắt lại ngập tràn nước mắt.

Bỗng nhiên cô không cười nữa, quay người lại, trở vào cởi hết quần áo, dáng ngọc khoan thai bước vào bồn tắm, khẽ ngồi xuống, quay lưng lại phía Lý Dục, nói: “Đóng cửa lại, ta còn phải tắm, tháng sau…người ta phải vào cung hầu hạ Quan Gia rồi, nếu ngươi mà đánh ta có vến thương nào đó, thì Quan Gia sẽ không vui, mà Quan Gia không vui, cái đồ bỏ đi như ngươi sẽ lo lắng mà chết đi”.

Lý Dục răng lập cập va vào nhau, từng chữ Tiểu Chu Hậu nói ra như đao sát muối, đâm vào trái tim rỉ máu của hắn, nhưng hắn đã không còn dũng khí mà mắng nhiếc nữa, càng không có dũng khí như người đàn ông, rút kiếm đén ngọ môn, nào dám liều mạng thịt nát xương tan, và càng không dám đưa chuyện gièm pha của Triệu Quang Nghĩa cho thiên hạ biết, hắn hét toáng lên, quay người bỏ đi.

Tiểu Chu Hậu cười lớn vài tiếng, hai hàng lệ tràn mi, lạc vào nước nóng quanh mình…

Chương 429: Ám chiến

Phủ Lũng tây quận công không lớn, hai vợ chồng làm ầm lên, sát vách nhà họ là một thư sinh họ Tiêu tên Thư Hữu.

Cố nhân bát quái chi tâm, không thua người ta, Tiêu Thư Hữu nằm sấp bên tường nghe ngóng hồi lâu, rồi trở về rửa tay mài mực, phấn khởi viết vài câu nghe được: “Tiểu Chu Hậu làm phản từ cung, mắng nhiếc Lý Dục, Lý Dục xấu hổ, lén lút trốn đi”.

Đây là tài liệu đầu tiên có được khi đề cập đến Tiểu Chu Hậu, song sau nhiều năm người sùng bái thơ ca của Lý Dục đã coi nhẹ sự ghi chép này, và miêu tả nó trở nên tốt đẹp hơn: “Vì bảo vệ thê tử, trượng phu không hề phản kháng, Tiểu Chu Hậu cam tâm chịu nhục, vô oán vô hối, cắm sừng Lũng tây quận công, hắn còn tưởng ái thê của mình tình sâu đậm, mỗi lần nhìn thấy cô vào cung trở về, đều ôm đầu khóc rống, muốn được cô đến thăm hỏi.

Không biết Triệu Quang Nghĩa vì lẽ gì mà không thấy hắn bỏ qua Tiểu Chu Hậu, nếu hắn muốn giữ lấy Tiểu Chu Hậu, đem nàng nhét vào trong cung, lúc nàng quá ư sợ hãi thì sẽ giết Lý Dục, noi theo Hoàng huynh năm đó chiếm Hoa Nhị phu nhân, song lịch sử bút ký người Tống ghi chép là Tiểu Chu Hậu làm chuyện xấu, là một Tiểu Chu Hậu ngày ngày tự cung trung phản, suốt ngày mắng nhiếc Lý Dục, Lý Dục hổ thẹn, lẩn tránh đi chỗ khác.

Tiểu Chu Hậu ngồi trong bồn nước nóng tắm, cô kỳ cọ cơ thể mình cho sạch, hàng lệ cũng đã cạn khô, nước cũng đã trở nên lạnh đi, cô mới đưa ra một quyết định lớn, phải sống sao như một người mà không phải người, như người con gái phàm tục mà không giống phàm tục, cuối cùng đã tìm ra một con đường đi cho bản thân mình, đưa ra một quyết định đúng đắn, đây là sự trưởng thành lớn lao của cô, là lần thứ hai cô đưa ra quyết định.

Lần đầu, là mười năm về trước, khi ấy cô 15 tuổi, mùa hè năm đó, cô vào cung thăm tỷ tỷ bị bệnh, vào một đêm trăng sáng, cô được anh rể rót vào tai những lời tâm tình mật ngọt, đầu cô cài trâm, tay cô đeo vòng, giầy thêu kim tuyến, lặng lẽ đi tới nam họa đường…

Mà giờ đây, sau 20 năm, cô đưa ra một quyết định. Vì mình yếu đuối, chỉ biết sống cùng với tên bỏ đi, giận chó đánh mèo thì không đáng. Vì hắn mà tuẫn thiết thì càng không đáng. Nhưng cô không muốn nhận cái kết cục do triều đại phong kiến giáng cho, không vì bất cứ ai, chỉ vì cô không tình nguyện. Cô rời khỏi bồn tắm, mặc quần áo, trang điểm.

Một tờ giấy được cô rút ra đặt ở dưới hộp trang sức, đó là thứ mà Triệu Khuông Dận băng hà không lâu Dương Hạo đã từng mượn tuyệt bút Lý gia cô phóng hoành sơn tiết độ rời xa kinh sư lệnh cho một cô gái che mặt giữa đêm vào khuê phòng cô đưa cho cô thứ này, và cô đã cẩn thận cất nó, cô cầm và ra khỏi phòng, thần thái tự nhiên, rồi quay sang dặn dò với bọn nô tỳ: “Chuẩn bị kiệu, bổn phu nhân phải ra ngoài, đến Thiên kim nhất tiếu lầu…”

“Kéo tên nghịch tử này đi ra, lệnh cho người bịt cái mồm nó lại, an nhàn thoải mái thì không muốn, cứ thích làm ầm cả lên.

Vốn hôm đó hắn đã qua loa mắng nhiếc đứa con cho có lệ, nhưng hôm nay hắn nói rất chuẩn. Hắn định tự mình giết chết Hoàng huynh, may mà…may mà hắn hiểu được sự lợi hại, sau khi vào điện mới hỏi thẳng, nếu không thì tin truyền ra, thực sự là không thể tưởng tượng nổi.

Triệu Quang Nghĩa nghĩ đến hậu quả khôn lường, đầu ngón tay lạnh buốt: “Nó sao tự nhiên lại cuồng lên thế, rốt cuộc là nghe nói được gì? Vương Kế Ân đã hiểu được sự lợi hại của đám người bên cạnh, xem ra họ cũng sẽ không nói hàm hồ gì, hơn nữa, tin tưởng như thế, có gì sẽ ngay lập tức chạy tới hỏi phụ thân”.

Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ càng sợ, sau một lát, nội thị đô tri chạy lại, nói: “Quan Gia, nô tỳ nghe dò hỏi rõ ràng rồi”.

Triệu Quang Nghĩa trợn mắt, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đi”.

Cố Nhã Ly cúi người, đầu không dám ngẩng, nhỏ giọng: “Quan Gia, nô tỳ hỏi nội thị cung tỳ trong phủ Hoàng tử, chưa bao giờ có người vào cửa kính thăm Hoàng tử, song Hoàng tử đã từng xuất cung đi chơi một chuyến, không nghe khuyên bảo, sau khi về tính tình thay đổi, nổi giận không thôi”.

“Ngô Vương phủ?” Triệu Quang Nghĩa đứng bật dậy, nhìn chằm chằm Cố Nhã Ly.

Cố Nhã Ly run run nói: “Vâng”.

Triệu Quang Nghĩa thở dốc, sắc mặt trở nên bình tĩnh, xua tay nói: “Đứa trẻ này tính tình ngay thẳng, chắc chắn là có chuyện gì với Đức Chiêu ca ca rồi, mới thay đổi vậy, Trẫm biết rồi, ngươi lui ra đi, nói với Mộ Dung Cầu Túy mau mau dạy bảo Đức Sùng, nó giờ là Hoàng tử trưởng, ngôn hành cử chỉ đều phải chú ý”.

“Nô tỳ tuân chỉ”. Cố Nhã Ly đồng ý một tiếng, rồi thối lui.

“Ngô Vương…Triệu Đức Chiêu?”

Triệu Quang Nghĩa tức giận, hắn chắp tay sau lưng đi lại quanh điện, rồi bỗng dừng bước, khóe miệng mỉm cười: “Người đâu, truyền chỉ, gọi Trình Vũ, Tôn Kỳ, Cổ Khảm, vào điện kiến giá”.

Sau một lúc, vài nha môn mà hắn gọi đến đã lục tục vào điện, Triệu Quang Nghĩa ngồi trên, chính giữa điện, thần thái ung dung, mấy vị thân tín làm lễ nghi xong, đứng gọn sang hai bên, Triệu Quang Nghĩa mới nói: “Tống Quốc ta lập quốc được hơn mười năm, thống nhất Trung Nguyên, và dành được những thành tựu về văn hóa giáo dục, thực khiến người ta vô cùng ngưỡng mộ, giờ các nước Trung Nguyên, Ngô Việt sớm đã xưng thần, duy nhất Hán quốc nho nhỏ không chịu quy phụ, Trẫm có ý chịu di chỉ của tiên đế, sớm thu phục hán địa, các vị ái khanh, thấy sao?”

Phủ Khánh Vương, trên bàn có mấy tờ truyền đơn, Khánh Vương lật đi lật lại xem, rồi ngẩng đầu nói: “Thứ này có vấn đề gì?”

Da Luật Mặc Thạch nói: “Đại nhân, truyền đơn được rải vào trong thành phần lớn có mưu đồ kích động quân và dân tráng Ngân Châu tạo phản, nó còn đe dọa chúng ta phải hiến thành đầu hàng nữa, bên trên đều nói trắng phớ ra đấy, lẽ nào mấy chữ đó quân binh xem không hiểu, nhưng thuộc hạ phát hiện ra nội dung của tờ truyền đơn vô cùng kỳ lạ, cái thứ chữ viết lên khó mà phân biệt, như thơ mà không phải là thơ, như lời mà không phải là lời, người đọc sách tinh thông chữ Hán cũng không thể giải thích nổi, thuộc hạ nghĩ, chắc chắn là thứ dành riêng cho người nào đó đọc”.

Khánh Vương bèn nói: “Ý ngươi là trong thành Ngân Châu ta có người của bọn chúng?”

Long Hưng Dực chau mày nói: “Không phải không có khả năng, Mặc Thạch đại nhân đưa mấy tờ truyền đơn cho thuộc hạ xem, thuộc hạ tập trung mấy tướng quân đến, cái thứ viết trên truyền đơn thật kỳ quặc, sau một hồi chúng thần bàn bạc, cảm thấy có gì đó không ổn, cho nên mới đến bẩm báo đại nhân”.

Ánh mắt Khánh Vương bỗng sáng lên, lạnh lùng nói: “Xem xem tay chúng dài cỡ nào?”

Long Hưng Dực nói: “Đại nhân, dài ngắn hay không không quan trọng, điều cốt lõi ở đây là căn cứ vào những gì chúng ta thấy, chúng đang ngầm thông báo người trong thành, địa vị chắc chắn không thấp, chắc chắn sẽ có tác dụng tới chiến cục hoặc với những điểm quan trọng, nếu chỉ là tên tai mắt bình thường, chúng sẽ không có sự liên hệ một cách phung phí như vậy, cứ coi là có liên hệ rồi đi, thì những tên này giúp đỡ được gì với quân địch ngoài thành chứ? Theo lẽ thường mà thấy, người chúng muốn liên lạc tất sẽ có sự ảnh hưởng lớn, đây là chuyện không thể không quan tâm, phải biết…”.

Khánh Vương lạnh lùng nói: “Biết chiến cục hiện giờ tất là đại tướng thống soái trong thành, phải không?”

Long Hưng Dực chắp tay: “Đại nhân anh minh”.

Khánh Vương lắc đầu quả quyết nói: “Theo bổn vương, đây chẳng qua là kế nghi binh của Dương Hạo mà thôi, các tướng trong thành bao gồm cả đám người bọn ngươi đã theo bổn vương xông pha trận mạc, núi đao biển lửa cũng đã vượt qua, nếu bên trong đó có bất cứ người nào phản lại bổn vương, bổn vương tuyệt đối không tin”.

Dương Đan Mặc cảm kích nói: “Đa tạ đại nhân tín nhiệm, song…trong chúng ta có một người lại không phải là tướng lĩnh bên cạnh theo đại nhân”.

Khánh Vương mở to mắt, thăm dò: “Ai?”

“Lưu Kế Nghiệp”.

Khánh Vương giật mình, ngẩn người, ánh mắt chợt sáng lên cười nói: “Ngươi nói hắn ư? Ha ha, hắn có gì là đáng nghi chứ. Nếu như là hắn, thành này sợ đã rơi vào tay Da Luật Tà Chẩn rồi, nhân thủ của bổn vương, cũng bị hắn dùng tiền bạc mua chuộc rồi. Chính vì có sự giúp đỡ của Lưu tướng quân, thành Ngân Châu mới thành tòa thành tường đồng vách sắt, nếu nghi ngờ hắn há chẳng phải là nhạo báng đại nhân ta sao?”

Da Luật Mặc Thạch trầm ngâm nói: “Đại nhân, trên mấy tờ truyền đơn viết đều không giống nhau, song tiêu đề thì đều có hai chữ : Mục dị”

Khánh Vương hiếu kì hỏi: “Thế thì phải làm sao?”

Da Luật Mặc Thạch nói: “Mục dị, hợp lại thành chữ Dương, mà Lưu Kế Nghiệp vốn có họ Dương”.

Khánh Vương vuốt râu, không cho là đúng nói: “Cái này không có cơ sở lắm?”

Long Hưng Dực liếm môi nói: “Mấy ngày nay, nhân mã tấn công ngoài thành bỗng nhiên đánh có kết cấu, cách đánh khác xa hoàn toàn với lúc hỗn loạn lúc đầu, chứng minh cho thấy đã đổi thống soái. Nam viện đại vương Da Luật Tà Thuyên tấn công mạnh mẽ vào thành, binh tốt bọn họ tấn công kịch liệt vào thành Ngân Châu, bị binh tốt chúng ta liều chết ngăn cản, ta tóm được vài tên binh bị thương, thuộc hạ đã hỏi bọn chúng, được biết chủ soái Lô Châu giờ đã thay người, tên đó là một thiếu niên trẻ tuổi, nhưng mấy tên sĩ tốt này chỉ biết vậy thôi mà không biết danh tính. Thuộc hạ không phải dựa vào bụng tiểu nhân mà đo bụng quân tử, nhưng kết hợp những cơ sở trên, thuộc hạ không dấu nổi nghi ngờ”.

Khánh Vương không kiên nhẫn nói: “Nghi ngờ cái gì? Không được ấp úng, ngươi không thể nói trơn tru một lèo sao?”

Long Hưng Dực là một nhân vật quân sư bên cạnh Khánh Vương, hiểu được tính tình Khánh Vương xưa nay, Khánh Vương chỉ không khách khí với hai loại người, một là những tên hắn coi thường, không để tâm, một loại khác là những tên làm người của mình, cho nên tuy thấy hắn tức giận song không chút hoang mang, ung dung nói: “Đại nhân, Chiết gia ba trăm năm nay mở rộng địa bàn, khai chi tán điệp, nơi nơi nở hoa, khu Tây Bắc họ Chiết nhiều không đếm xuể, nhưng có thể để Dương Hạo lâm trận đổi cánh tay chỉ có một nhà, thông binh pháp, giỏi thao lược, lấy tên thanh niên nhỏ tuổi có thể chỉ huy điều động nhân mã nhiều như vậy, chắc chắn cho thấy, cũng chỉ có một nhà, đó là Phủ Châu Chiết gia”.

Khánh Vương trầm ngâm nói: “Ý ngươi là…Phủ Châu Chiết gia phái người giúp Dương Hạo tấn công?”

Long Hưng Dực nở nụ cười, từ từ nói: “Hán quốc Lưu Kế Nguyên có thể phái Lưu Kế Nghiệp giúp đại nhân thủ thành, Phủ Châu Chiết Ngự Huân phái đệ tử giúp Dương Hạo công thành, có gì là lạ chứ?”

Khánh Vương ngẫm nghĩ rồi nói: “Không tồi, vương hầu tướng tá, thủ có gì lạ? Binh cường mã tráng có gì hay? Tây Bắc thế cục bị loạn, có binh chính là vua cỏ, vua cỏ này muốn duy trì tình hình trước mắt là không mong Da Luật Thịnh ta ở Tây Bắc hô mưa gọi gió. Tuy nói để Chiết Ngự Huân cầm ra số của cải của nhà mình đi giúp Dương Hạo tấn công Ngân Châu, hắn nhất định cũng xót lắm, chẳng qua nếu chỉ đưa một viên tướng lĩnh đến vẽ mưu kế cho Dương Hạo, hắn vẫn làm nổi”.

Long Hưng Dực cười méo mó nói: “Địa nhân xưa nay anh minh, hôm nay làm sao ấy nhỉ? Thuộc hạ đã nói tường tận vậy, đại nhân vẫn không hiểu sao?”

“Cái gì?”

“Lưu Kế Nghiệp vốn tên là Dương Kế Nghiệp, phu nhân của Dương Kế Nghiệp là chị ruột của Chiết Ngự Huân, hai nhà Chiết Dương vốn là thông gia, tuy nói Dương Kế Nghiệp bảo vệ Hán quốc, nhưng người ta vẫn là người một nhà, tách rời sao được. Nếu Chiết gia phái binh đến giúp Dương Hạo, lại biết được đại nhân đã được trợ giúp là Dương Kế Nghiệp, đại nhân còn cho rằng…họ sẽ không liên lạc riêng với nhau bán đứng đại nhân sao?”

Khánh Vương ngạc nhiên, thất thanh nói: “Lưu vô địch và Phủ Châu Chiết gia vốn là thông gia sao?”

Hắn vừa hỏi câu này, Da Luật Mặc Thạch và Long Hưng Dực cũng giật nảy người, đồng thanh hỏi lại: “Đại nhân ngài không biết sao?”

Khánh Vương mấy năm nay ở Thượng Kinh, cả ngày chỉ tính toán sao để đoạt được quyền làm Hoàng đế, dưới sự bao che của một thị vệ đô ngu hầu Hán quốc bé tí tẹo, hắn thực sự là lười nghe ngóng tin tức, trước hắn chỉ ngẫu nhiên nghe người ta nói Lưu vô địch Hán quốc vốn có họ Dương, việc này chỉ hơi ấn tượng, còn tình hình cụ thể, lai lịch hắn ra sao, hắn chẳng quan tâm, giờ nghe Long Hưng Dực nói vậy, đương nhiên là ngạc nhiên, lòng nảy sinh sự nghi ngờ.

Đám người Dương Đan Mặc thấy vậy mừng thầm, họ vốn là văn võ tướng lĩnh thân cận của Khánh Vương, nhưng từ khi có Dương Kế Nghiệp tới, đã đoạt vị trí quân sư của Long Hưng Dực, thành thuộc hạ mưu thần đệ nhất của Khánh Vương, khi có công thành chiến tranh, Dương Kế Nghiệp chỉ huy rất ổn, lấy được nhuệ khí của tam quân, Khánh Vương bèn gi­ao chức quân quyền cho hắn, hắn lãnh binh đâu vào đấy, đến Hoàng đế Hán quốc cũng sợ hãi Dương Kế Nghiệp, nên họ đương nhiên là không thoải mái.

Nhưng họ cũng không thể phủ nhận tài lãnh binh của hắn thủ được thành Ngân Châu, hơn nữa cả thành Ngân Châu đã bố trí thế trận y như lời của Dương Kế Nghiệp, người này đã không còn tác dụng gì nữa, họ sẽ không thiết kế mưu đồ hãm hại Dương Kế Nghiệp, nhưng một khi có điều gì đó gây bất lợi cho hắn, lập tức họ sẽ thêm mắm thêm muối cho câu chuyện về hắn thêm sinh động.

“Lưu Kế Nghiệp…Dương Kế Nghiệp…Chiết Ngự Huân…Hắn thực là có ý mưu phản, ngấm ngầm câu kết với bọn địch ngoài thành ư?”

Khánh Vương lẩm bẩm, nghĩ đến công lao của Dương Kế Nghiệp hô mưa gọi gió ở thành Ngân Châu, dốc sức chỉ huy quân phòng ngự, lòng rất phân vân, và không dám tin mọi chuyện vừa nãy.

Da Luật Mặc Thạch nói: “Hai ngày nay, thế tấn công của nam thành Dương Hạo đại doanh đã giảm sút, ngày nào cũng thế chỉ có một đội binh phô trương thanh thế xong thì thu binh về doanh trại, rồi lại còn những nét chữ như gà bới trên tờ truyền đơn nữa, đại nhân, thuộc hạ thực không dám nghi ngờ cho Dương tướng quân, nhưng việc đã đến nước này, thử hỏi ai không nghĩ chứ”.

Khánh Vương nghiến chặt răng, giọng căm giận: “Thế bổn vương phải làm sao đây? Lẽ nào bắt hắn lại cho một đao? Chưa nói đến cần chứng cứ buộc tội hắn, nói hắn phải chết, hắn có thực sự phản lại bổn vương hay không cũng không có nhân chứng và đối chất Hán quốc, bổn vương giết đi một cái mạng Lưu Kế Nghiệp thì không sao, nhưng nếu như việc này khiến cho Hán quốc tức giận, thì bổn vương nào còn chỗ đứng nữa. Hơn nữa, Lưu Kế Nghiệp dần tạo được uy với quân thủ thành, khi bị giết, chí khí tam quân tất sẽ bị hạ thấp”.

Long Hưng Dực vội nói: “Đại nhân, lòng hại người cố bất khả hữu, lòng phòng người bất khả vô. Thuộc hạ luôn theo đại nhân, đương nhiên là luôn bảo vệ đại nhân, chúng tôi không có ý muốn đại nhân ngay lập tức tóm cổ Lưu Kế Nghiệp, đây dù sao cũng là phỏng đoán, phải có chứng cứ xác thực mới quy tội được.

Ý thuộc hạ là, giờ chúng ta sinh nghi, chi bằng phái người đi theo dõi nhất cử nhất động của Lưu Kế Nghiệp, nếu như hắn có gì đó khác thường, thực sự trung thành làm việc thì phỏng đoán của ta sai, còn nếu nằm trong phỏng đoán của chúng ta, và nếu quả nhiên có gì đó khác thường thì chúng ta sẽ đưa chứng cứ ra, và khi đó thì Lưu Kế Nguyên Hán quốc cũng chẳng nói chúng ta được nữa”.

Nghe xong những lời này, Khánh Vương Da Luật Thịnh gật gù: “Như vậy mới thỏa đáng, Long Hưng Dực, ngươi phái người nào thông minh được việc đi bám sát cha con Lưu Kế Nghiệp, và chớ có đánh rắn động cỏ, sau đó có gì thì bẩm báo với bổn vương”.

*****

Tiểu Chu Hậu vừa đến, Nữ nhi quốc lập tức có người thông báo vào bên trong, và chưa đầy một phút thì Trương Ngưu Nhi mặt hồ hởi bước ra đón chào, rồi chu đáo đưa cô lên lầu nói: “Trịnh quốc phu nhân, người hôm nay đến đây thực đúng lúc quá, Nữ nhi quốc vừa mới về vải mới, là sản phẩm của Gi­ang Nam Thiên Thủy Bích, màu sắc vô cùng đẹp, nhã ý mời người đến xem chút, được không vậy?”

Vải vóc của Thiên Thủy Bích là một loại vải mà năm đó ở Kim Lăng thi thoảng cô tự mình nhuộm màu, một thời nó thịnh hành toàn Gi­ang Nam, giờ lại nghe được câu mời xem từ Trương Ngưu Nhi, người ta có ý mà mình thì lại không thích, Tiểu Chu Hậu bất giác thấy chua xót.

Mắt cô đỏ hoe, cố kìm nén giọt lệ, vẫn cố giữ bình tĩnh nói: “Thôi không cần xem đâu, nghe nói chỗ các người có hai thứ, một là Phi dương thủ, một là Nguyệt nhất bàn, nó thuộc hàng đầu, tiếng tăm lan truyền, ta muốn đi xem xem”.

Trương Ngưu Nhi ngẩn người, bật cười nói: “Trịnh quốc phu nhân không ngờ người lại nghe được tin đó ở đâu, hai thứ đó là có thật và chúng rất nổi tiếng, song nó không phải trang sức gấm vóc cũng không phải là phấn son, mà là đồ ăn, người đến bách vị lầu mới có thể thưởng thức được”.

“Hả? Nhưng người nói với ta bảo chỉ cần đến Nữ nhi quốc, gặp Trương đại trưởng quản ngươi thì có thể nếm thử hai món đó rồi, ngươi xem, hắn còn đưa cho ta tờ giấy này, viết rõ ràng ra đây”.

Tiểu Chu Hậu sờ vào tay áo rút ra tời giấy đưa cho Trương Ngưu Nhi, Trương Ngưu Nhi mở giấy ra xem, viết sáu chữ trên giấy Phi dương thủ, Nguyệt nhất bàn, bên dưới là một chữ ký, Trương Ngưu Nhi nhận ra chữ ký này, khóe miệng nở nụ cười, nghiêm túc nói: “Trịnh quốc phu nhân, mời qua bên này, quý khách đó giới thiệu phu nhân đến đây, thì tiểu nhân sẽ phái người qua Bách vị lầu bưng đồ ăn đến cho người”.

Tiểu Chu Hậu mỉm cười, đi theo sau Trương Ngưu Nhi.

Diệu Diệu ở tầng ba trước đây vốn là cái thư phòng, Tiểu Chu Hậu ngồi xuống ghế nghĩ ngợi chuyện vừa xong, cửa bỗng “Kẹt” một tiếng, một người bước từ ngoài vào.

Người này dáng người không cao, khuôn mặt hơi gây, mặc một bộ bào xanh, xem ra văn thơ lắm, hắn vào đến bậc cửa nhìn thấy Tiểu Chu Hậu, rất bình tĩnh tiến về phía trước, cung kính thi lễ: “Thục Trung bạch lâm bái kiến Trịnh quốc phu nhân”.

Tiểu Chu Hậu không biết người trước mặt mình là đầu bếp thật hay giả, hai món Phi dương thủ và Nguyệt nhất bàn là hai món nghe tên mà không đoán ra là món gì, giờ thấy dáng người này, quả nhiên không hề giống đầu bếp, thầm mắng mình đã nhìn lầm, cô vội đứng dậy, nói: “Ngươi nhìn thấy tờ giấy đó chưa? Người đưa nó cho ta bảo chỉ cần ta…”

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Phu nhân không phải vội vậy đâu, những điều người đó nói với cô đều là thật. Mời phu nhân ngồi, muốn Bạch mỗ giúp gì thì cứ nói nhé”. Hắn nói rồi kéo chiếc ghế và đặt mông ngồi xuống, thần thái ung dung.

Tiểu Chu Hậu từng là Hoàng hậu một nước, đồng thời cũng là đệ nhất mỹ nhân Gi­ang Nam, dù cô giờ có là ai thì vẫn quyến rũ vạn phần, vẫn là một thân phận cao quý, nhưng phàm là người lần đầu gặp cô, có thể ung dung bình tĩnh thì chỉ đếm trên đầu ngón tay, mà đầu bếp Bách vị lầu cũng làm được. Nếu như là Trương Ngưu Nhi hay Lão Hắc trong hoàn cảnh này đảm bảo mồm lúc nào cũng sẽ há hốc, mắt lúc nào cũng sẽ trợn tròn cho xem, không ngờ một đầu bếp cả ngày cuốn tạp dề, tiếp xúc quanh chảo lửa mà giữ được thần thái ung dung như vậy.

Tiểu Chu Hậu nhìn hắn thần thái tự tại, lo lắng một lúc mới giữ được bình tĩnh, cô cũng ngồi xuống ghế, và nói: “Ta muốn rời khỏi Biện Kinh”.

Bạch Lâm nhướn mày hỏi: “Đi đâu vậy?”

Tiểu Chu Hậu viên viên mép áo như một tiểu cô nương chưa hiểu sự đời, cô lắc đầu nói: “Ta cũng không biết nữa, đi đâu cũng được, mai danh ẩn tích để người ta mãi mãi không tìm thấy nữa”.

Bạch Lâm nhíu mày cười nói: “Việc này…là quyết định của Lũng tây quận công sao?”

“Đương nhiên rồi…”

Tiểu Chu Hậu hít một hơi dài, nói rành rọt: “Cả nhà ta đều phải rời đi, nhưng chúng ta bị giám sát rất chặt chẽ, bề ngoài tưởng được ra vào tự do, kỳ thực là luôn bị người ta khống chế, mình chúng ta không thể chạy thoát được, mong nhận được sự giúp đỡ từ phía các người thôi”.

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Quan Gia có tấm lòng bao dung, về ngoài không tiện hạn chế hành động của các người, song dù sao cũng vẫn có sơ hở, tưởng có chuẩn bị mà lại chưa chuẩn bị, muốn đưa các người an toàn ra khỏi Biện Kinh cũng không khó, nhưng sau lần này, muốn đưa thêm ai đó đi thì không phải chuyện dễ, nên, lần này đi là đi một loạt luôn”.

Tiểu Chu Hậu ngạc nhiên nói: “Đi cùng? Còn ai nữa?”

Bạch Lâm nói: “Nam Đường quốc chúa hiến thành đầu hàng trở thành Tống thần. Hạ thần từ xưa tới nay, cùng điện xưng thần, trong đó có rất nhiều chúa cũ, người vô lễ với quốc chúa, nhưng cũng không thiếu người vẫn trung thành và tận tâm, trong đó có mấy người đáng tin, phu nhân chắc biết chứ?”

Chương 429: Ám chiến (2)

Tiểu Chu Hậu chợt rùng mình, ảm đạm nói: “Cựu thần Đường quốc là người đáng dùng của Tống quốc, có vài người vì vinh hoa phú quý, vì tiền đồ bản thân, hận là có quan hệ với quốc chúa, không những không lui tới còn thường xuyên có lời gièm pha. Có vài thần lương thiện, luôn cung kính trọng quốc chúa, sợ Quan Gia ghét bỏ, cũng che không kịp, giờ khi thường xuyên đăng môn, cuối cùng vẫn đối đãi tốt với quốc chúa, chỉ có Từ Đãi, Tiêu Nghiễm hai người đó mà thôi. Haiz, hai người bọn họ lúc đầu khuyên quốc chúa thà chết chứ không hàng, cùng sống chết với thành Kim Lăng, nhưng quốc chúa xin hàng, không thể không theo đi cùng, nếu như bảo họ cùng ra đi với quốc chúa, hai người họ chắc chắn sẽ không có vấn đề gì, người khác thì…ta không dám chắc chắn…”

Từ Đãi là chi sĩ bác học đích thực, chỉ để ý tới chính vụ, Tiêu thanh lại trị (tác phong và uy tín của quan lại thời xưa), có nhiều công lao với Đường quốc. Tiêu Nghiễm thì cũng là một bề tôi trung thành, nắm giữ ti pháp ngục hình trong triều, cương trực chính phương, không ham quyền quý. Khi làm quan ở địa phương, tốn công xây dựng thủy lợi, phát triển nông nghiệp, thúc đẩy kinh tế, hai người họ đều là những viên quan chân chính, nhưng tiếc là Lý Dục không biết sử dụng họ làm việc, kỳ trường dụng kỳ đoản, Từ Đãi ở bộ thượng thư, cả ngày bị hắn phái đi đảm đương đại thần ngoại gi­ao, còn Tiêu Nghiễm vì nhiều lần khuyên nhủ hắn, khuyên họ thờ thần kính phật xao nhãng triều chính, cũng bị cho nghỉ việc, cả ngày chỉ vùi đầu vào đống văn chương.

Nhất cử nhất động của những người này, kỳ thực Bạch Lâm đã nắm chắc trong tay, giờ được Tiểu Chu Hậu khẳng định lại một lần nữa, không còn gì nghi ngờ, Bạch Lâm vỗ tay nói: “Rất tốt, thế thì mang họ theo nữa”.

Tiểu Chu Hậu kinh ngạc nói: “Mang họ theo làm gì?”

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Đại sự quan trọng, chớ hỏi nhiều, quốc chúa và nương nương không phải người bình thường, nếu rời khỏi hang cọp này, muốn rời khỏi được, thì phải có tôi sắp xếp, chuẩn bị cho cẩn thận, sau khi nương nương về, chi bằng cứ làm thế này…”

Tiểu Chu Hậu vốn thông minh, đã gặp là không thể quên, nhưng sự thông minh ngày xưa chỉ dùng vào thi ca đàn sáo, những nơi lãng mạn, việc này cô vốn có thể hiểu, cô đương nhiên đã nghe kỹ, sẽ không quên, nghe một lần, tự thuật lại, một chữ cũng không sai, Bạch Lâm vui vẻ nói: “Chính là như vậy, nương nương trở về cứ thế mà làm, đợi bên ta chuẩn bị xong, sẽ thu xếp cho nương nương và mọi người ra đi”.

Tiểu Chu Hậu đi tới bên cửa, bỗng đứng sững lại, hai tay nắm chặt với nhau, quay đầu nói: “Bạch tiên sinh, giờ này tháng sau có thể ra đi không?”

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Cái này…bạch mỗ cần phải thu xếp ổn thỏa, đưa ra quyết sách rồi bảo đảm mọi người đi an toàn, còn về khi nào đi, lúc này chưa thể nói rõ ra được…”

Tiểu Chu Hậu quả quyết nói: “Nghĩa là trước ngày này năm sau, nếu đến lúc đó không thể ra đi…”

“Thì làm sao?”

Tiểu Chu Hậu buồn bã cười, nói: “Lúc đó…chỉ có Tử Chu Hậu, không còn Nữ Anh nữa, và cũng không làm phiền Bạch tiên sinh lo liệu gì nữa”.

******

Đêm đã khuya, Dương Hạo nằm ngẫm nghĩ trong trướng, khó có thể chợp mắt, khoác thêm áo đi ra ngoài trướng, nhìn xa xăm về phía thành Ngân Châu đen kịt. Những chấm nhỏ bập bùng của lửa trại, tiếng bước chân của binh sĩ đi tuần như ẩn như hiện.

“Trúc Vận hiện giờ đã hành động rồi chứ? Dựa vào tay nghề và sự thông minh của cô ấy, mong là sẽ không bị để lại sơ hở, mau chóng hoàn thành. Hai trăm năm của Thừa tự đường, bao trùm thiên hạ, có thể nói là một thế gia bậc nhất, thực là nhân tài nhiều vô kể”.

Dương Hạo bỗng nhiên nghĩ đến hôm đó đêm tối như này, hắn và Thôi Đại Lang nói chuyện dưới ánh trăng.

“Đại Lang, trên đường ta rời Kinh, được biết Ngụy Vương Triệu Đức Chiêu khó mà ra roi với tam quân, đã chuẩn bị phản Kinh, được biết sớm muộn sẽ là kẻ địch của Triệu Quan Gia cho nên đã bảo tiểu muội nhanh chóng lên đường đến Kinh Sư một chuyến, đi gặp Tiểu Chu Hậu, kể cho biết vài chuyện”.

“Cái gì? Ai? Việc gì? Có thể cho biết được không?’

“Đương nhiên là được rồi, ta còn mượn sự giúp đỡ của ngươi cho dễ hoàn thành chuyện”.

“Như vậy, thái úy mời nói”.

“Đại Tống hiện giờ, binh cường mã tráng, có phù trợ thâm hậu, nếu ta muốn đứng trụ được ở Tây Bắc thực là không hề dễ, nếu như Triệu Quang Nghĩa thấy hai thế lực liên hợp, lại được Đảng Hạng Thất Thị giúp đỡ, thì sẽ kiêu căng đi giúp Triệu Quang Duệ Hạ Châu, dựa vào thực lực của Đại Tống, lưỡng hổ gi­ao tranh, hắn sẽ hưởng lợi ích. Chứ dẫu sao cũng cần phải thêm phiền phức cho hắn, thì mới có thể khiến hắn không cản Tây Bắc.

“Thái úy có cao kiến gì?”

“Ta nghĩ rằng….trộm nhà Lý Dục ra khỏi thành Biện Lương”.

“Gì cơ?”

“Đường quốc mới hàng, lòng dân còn chưa ổn định, nếu như chúa cũ không trong sự khống chế của Triệu Quang Nghĩa…”

“Lý Dục vốn nhát gan, lúc làm Hoàng đế còn không dám gi­ao chiến quyết tử với Tống, huống hồ lại đồng ý làm chuyện này, ta lo…”

“Ha ha, Lý Dục nhát gan nhưng Gi­ang Đông đâu phải không có hào kiệt, họ chỉ là không có danh phận mà thôi, chỉ cần Lý Dục biến mất khỏi thành Biện Lương, chỉ cần lời đồn ấy truyền ra, tất sẽ lợi dụng được lòng người, huống hồ Lý Dục lại nằm trong tay chúng ta, lẽ nào lại không thể giúp cho ta được gì sao?”

“Ồ…chiếm lấy lòng dân, đây quả là một kế hay, nhưng…việc đại sự, thái úy sao cử ai đi bàn bạc với Tiểu Chu Hậu đây? Cô ta dẫu sao cũng là đàn bà, có thể giúp gì được đại sự, việc quan trọng nên tìm Lý Dục bàn bạc mới phải”.

“Lý Dục…Lý Dục tuy có quốc gia nằm trong tay, trọng binh thì cũng vậy, song lại không xứng đáng với long bào, có thể bảo hắn võ trảm Lâm Nhân Triệu, văn sát Phan Hựu Lý Bình, tự chặt cánh tay, nguy cấp thì xin hàng, rồi lại đổi ý, rồi lại xin hàng, làm cho quần thần không biết xử lý ra sao, sĩ khí thì đại nhu, một tên nhát gan do dự, giờ quỳ gối xưng thần, ăn nhờ ở đậu, hắn mà cũng xứng đáng để ta đi bàn bạc sao? Ta không dám mạo hiểm”.

Thôi Đại Lang nhếch miệng cười.

Dương Hạo lại nói: “Việc này chỉ có người bên cạnh mới có thể làm được, tóm hắn, dắt hắn bảo hắn không thể không đi, người này….ngoài Tiểu Chu Hậu ra, thì tìm đâu ra người thứ hai nữa”.

“Tiểu Chu Hậu có thể thương lượng, bàn bạc?”

“Có gì là không thể chứ? Chỉ cần cho cô ấy cơ hội, được, coi là một khả nhăng, nếu như cô ấy muốn rời khỏi Kinh thành, người của ta sẽ đưa họ ra khỏi đó ma không biết quỷ không hay, thực ra…ta cũng có vài thuộc hạ ở Kinh thành, nhưng so với Đại Lang, thực không bằng, nên ta muốn mời Đại Lang giờ phái vài người đi tới Biện Lương chuẩn bị, một khi có cơ hội, họ sẽ thoát khỏi một cách dễ dàng hơn”.

“Ha ha…được, việc này để ta lo”.

“Rồi, trộm một tên cũng là trộm, trộm hai tên cũng là trộm, ta muốn nhân cơ hội này lấy đi những thuộc hạ của Đường quốc, những tên luôn không trung thành tận tâm với Triều Tống mang đi theo”.

“Đưa Lý gia ra khỏi Biện Lương là để cho Triệu Quang Nghĩa bị cản trở, song…ngươi không phải muốn đưa hắn lên võ đài cùng Triệu Quang Nghĩa sao?”

“Đương nhiên là không phải, hắn…không đưa lên được”.

“Ra là vậy, lấy thuộc hạ của hắn có ích gì?’

Dương Hạo thở dài nói: “Lý Dục tuy là bất tài song lẽ nào ta lại không thể dùng hắn làm việc có ích cho ta sao?”

“Mấy tên này đầu hàng Tống song vẫn trung thành với Đường, lẽ nào cũng có ích cho Thái úy?”

“Lòng người mà, mời chào họ, nếu như chúa phi hiền chúa, coi là người được ngươi mời đến năm lần bảy lượt, sớm muộn thì cũng đổi ý thôi”.

“Ha ha, nói hay lắm, việc này ta sẽ bảo người đi làm luôn”.

“Rồi, chỉ cần bảo họ yên tâm mà rời đi, gia quyến cũng đi theo luôn, người đông sợ không dễ bảo mật, việc này Thôi huynh không phải lo, vội vàng phái người đi, không biết có thể thành sự hay không?”

“Ha ha, chẳng có gì khó cả, có một chuyện ta luôn nghĩ mà vẫn chưa có thời điểm thích hợp nói cho Thái úy biết. Kỳ thực, Bạch Lâm mà ngươi cười chính là người của ta”.

“Thục trung ngự trù Bạch Lâm?”

“Không sai, đáng xấu hổ là, khi đó Đại Lang chỉ chú ý đến Thái úy, không biết Thái úy có phải là người có thể phó thác tương gi­ao hay không, giờ ta ngươi đã hiểu nhau, việc này, ta lại không muốn giấu gì Thái úy thêm nữa…”

Nghĩ đến đây, Dương Hạo không cầm nổi chua xót, Thừa Tự đường có tài sản kếch xù, không biết có bao nhiêu kì nhân dị sĩ, cái gì cũng nhúng tay vào, nhân vật hạt nhân của Thừa Tự đường đương nhiên là thông minh giỏi gi­ang, đầu óc sắc bén, cũng may, lúc đầu Đại Đường thất tông ngũ tính họ đứng trước đài, đến Hoàng quyền cũng có thể thao túng, song tai ương đến hiến hậu duệ của họ bị phòng bị, từ đó Thừa Tự đường và mưu lợi không đứng trước đài, nếu không thì không biết thiên hạ còn biết bao mưa gió ập đến.

Giờ họ không đặt mưu quyền làm mục đích nữa, cơ cấu tổ chức tương đối lỏng lẻo, những mối quan hệ khắp nơi nơi không có thế lực nào theo, có thể bay múa ống tay trong đám thế lực ấy, chi phối, thấy rõ tiên cơ, chu đáo đề phòng. Làm như vậy bảo đảm được lợi ích của Thừa Tự đường, và bảo đảm đúng hẹn sẽ không bị sự đả kích gì, khiến họ không cần treo cổ thân cây, và lại có một cái tôn làm chốn nương tựa.

Ngẫm kỹ ra, sự tồn tại của Thừa Tự đường giống như một loại ký sinh trùng, nó không cần phải kiếm ăn mà chỉ ăn bám, hút lấy những chất dinh dưỡng từ loại khác, một khi biết được ký chủ khó sống thì nó lập tức bỏ chạy, lúc đầu họ muốn lôi kéo Lân Châu Dương Thị là như vậy, giờ lôi kéo ta cũng vậy, chỉ cần giữa chúng ta có giá trị để chúng lợi dụng, thì chúng sẽ không buông tha cho ta, hơn nữa sẽ không coi ta là địch, nhưng như vậy, không thể chỉ dựa vào mấy người này, lợi dụng lẫn nhau, rốt cuộc không thể trở thành cánh tay của ta được.

Hắn lại đổ dồn ánh mắt vào phía thành Ngân Châu đen kịt, kế hoạch hôm nay không biết Khánh Vương có trúng kế không đây, có giết Dương Kế Nghiệp không đây….

Chương 430: Dạ Mị Ảnh

Vài tên lính lưng đeo cung tên lom khom quay về nơi Lưu Kế Nghiệp trú chân. Trong thành đâu đâu cũng có binh sĩ, rất nhiều võ sĩ Khiết Đan đi tuần khắp nơi, khống chế trật tự trong thành, giống như đang ở trong một tiểu đội vậy. Lưu Kế Nghiệp không có chút bận tâm nào, cũng không chú ý đặc biệt gì đến chúng.

Tình hình trước mắt Lưu Kế Nghiệp và tình hình ngoài thành cũng như nhau, họ đều nắm quyền chỉ huy quân đội, nhưng là đội quân đã không còn sức kháng cự, do đó trước mắt rất nhiều chủ tướng đòi hỏi phải có sắp xếp trù bị, ví như chiêu mộ dân tráng, điều khiển ba quân, gom góp dược liệu, phá dỡ nhà xung quanh thành để làm bức tường phòng vệ, chuẩn bị hỏa dầu độc dược, thuốc chữa bệnh cho thương binh… bọn họ chỉ cần bàn bạc kỹ lưỡng tình hình thực của thống soái ba quân, sau đó chủ soái hạ lệnh chấp hành.

Như vậy, Lưu Kế Nghiệp đã có thể nhẹ nhõm nhiều, vào thời Hán Quốc, hắn đích thân chỉ huy giữ thành, ba quân không cởi giáp, hắn tuyệt đối không an giấc. Ba quân không ăn cơm, hắn cũng tuyệt đối không dính răng. Sau trận chiến, hắn thường đích thân đi tuần xem tình hình chiến sự ra sao, an ủi cổ vũ binh sĩ, rất muộn mới đi nghỉ, làm như vậy không khó để thu phục lòng người, do vậy sau khi kết thúc trận công kích thế lực ở Lô Châu, hắn thường đi tuần bốn phía quanh thành, quan sát một lượt động tĩnh, đối với những chỗ bị hư hại hắn cho người tiến hành sửa chữa, đến khi quay về chỗ nghỉ ngơi thì cũng là khuya lắc khuya lơ rồi.

Cờ trướng của Lưu Kế Nghiệp nằm ở phía nam thành, đây là nơi trú quân chủ chốt của đội binh mã Lô Châu, hai bên phía Bắc là căn cứ của đại vương Gia Luật Tà Chẩn người Khiết Đan. Quân của Gia Luật Tà Chẩn binh mạnh ngựa khỏe, sức lực dư thừa, nhưng trong chiến thuật tấn công thành lại thiếu chiến lược, cách dùng người cũng hết sức truyền thống, mà đội quân của Dương Hạo tuy sức lực không bằng nhưng lại rất giỏi trong việc tấn công thành, gần đây đấu pháp lại ngày càng điêu luyện, là một nỗi uy hiếp lớn đối với quân giữ thành nên Lưu Kế Nghiệp mới phải đích thân thủ Nam thành.

Tuy ngoài thành đã thay đổi cách đánh hai ngày nay, mỗi ngày thấy trận tiến công vào thành náo nhiệt phi phàm nhưng vẫn chỉ là đánh nghi binh, Lưu Kế Nghiệp không rõ quân Lô Châu đang đánh bài gì, càng phải cẩn thận hơn gấp bội, hắn tuần tra bốn phía thành, sau khi về đến thành Nam cũng vẫn lại tỉ mỉ quan sát động tĩnh một lượt, sau đó mới yên tâm đi nghỉ.

Để phòng quân Lô Châu đang đêm đánh bất ngờ, Lưu Kế Nghiệp đã dựng một hang kiên cố cách thành không xa để trú binh, bên ngoài có một đường tường viện. Bên cạnh hắn chỉ có hai người con trai và mười một tên lính thân thiết mà thôi. Phụng mệnh Long Hưng Dịch, mấy tên tai mắt vẫn cứ núp trong bóng tối quan sát Lưu Kế Nghiệp về trại, không nén nổi một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Vài người bọn chúng không dám khinh thường, một mặt nằm sấp theo dõi, một mặt mở túi da trâu ra uống sữa, ăn thịt trâu sấy khô, vừa ăn vừa quan sát động tĩnh trong hang.

“Đại danh Lưu vô địch ta cũng đã sớm biết đến, nhà Hán chẳng qua là miếng đậu phụ nát, căn bản trói gà không chặt, chỉ dựa vào mình Lưu Kế Nghiệp mới có được ngày hôm nay. Bản lĩnh của Lưu vô địch ta cũng đã từng nghe qua, Lưu Kế Nghiệp vốn họ Dương, là người nhà họ Dương ở Lân Châu. Nếu như hắn về Lân Châu thì làm sao mà không mạnh hơn đội quân của nhà Hán kia chứ? Thế nhưng hắn kiên quyết phò tá nhà Hán, trung thành tới cùng, không dám phản bội, như vậy thì đường đường là người Hán lại có thể âm mưu với đại vương chúng ta hay sao?”

Một tên vệ sĩ khác tức khí nói: “Chuyện của Lưu Vô Địch ta cũng đã nghe qua Nghe nói hắn còn là anh trai của tiết độ sứ đương thời ở Lân Châu Dương Sùng Ký nữa cơ, với cái uy ấy, lại còn danh là đại ca, một khi quay về Lân Châu thì Dương Sùng Ký phải làm sao? Có nhường ngôi vị không? Cứ cho là Dương Sùng Ký chịu nhượng, thì đến nay những tướng lĩnh ở bên Sùng Ký bấy lâu đều là thân tín của hắn, trong chớp mắt ngôi vị bị thay đổi, bọn chúng sẽ thế nào? Theo ý ta ấy hả, Lưu vô địch không phải là không muốn quay về, mà là không thể về được”.

“Ôi dà, đừng có lấy lòng dạ tiểu nhân mà đo lòng quân tử nhé”.

“Sao lại nói thế được? Ta là tiểu nhân ư? Ta là tiểu nhân, đại vương lại không hề nghi ngờ ta chắc? Lưu vô địch có lòng trung can nghĩa hiệp, là hiệp nghĩa vô song chứ gì? Cái người bị người ta bán đứng trước nay sẽ đều không nghĩ cho cái người đã bán đứng hắn một con đường lui, cẩn thận chút đi, Lưu Kế Nghiệp nếu đúng là không có gì thì coi như ta nói vô ích, còn nếu như hắn đúng là có vấn đề thì là tư thông trại địch, hi­hi”.

Cách chỗ bọn chúng không xa, dưới một cành cây bỗng xuất hiện một đôi mắt, đôi mắt đó dường như chỉ nhìn dõi theo trong bóng tối, so với chỗ của Lưu Kế Nghiệp đang ở: kẻ uống rượu người nói chuyện thì căn bản không thể bị phát hiện.

Đôi mắt đó như mọc trên cây, chớp chớp, lộ ra một nét cười giảo hoạt, sau đó đột nhiên biến mất.

“Ôi, dường như có người”.

Một người đang ăn đột nhiên thấy có điều khác thường, dùng củi trỏ huých huých vào mấy tên lính bên cạnh. Tên đó ngóng về phía bức cờ trướng, không thấy có động tĩnh gì, đang định quay đầu hỏi hắn thì chợt trông thấy từ trong bóng tối xuất hiện một người đang lặng lẽ tiến đến, ngó nghiêng trái phải rồi vội vã bỏ đi.

Người này hết sức cảnh giác, cứ đi vài bước lại dừng, thăm dò tình hình xung quanh, sau đó mới nhanh chóng đi vài bước, thân người như quỷ thoắt ẩn thoắt hiện. Vài người canh chừng cho Lưu Kế Nghiệp dựng đứng cả dậy, cả người căng lên như dây đàn, cẩn thận đi theo.

Người đó dường như nắm rất rõ tình hình hiện tại, ở đâu có binh đi tuần qua, ở đâu có đóng quân, hắn tránh những chỗ hiểm yếu, dần dần tới chỗ gi­ao giữa hai thành Nam và Bắc. Ở đây là góc chết, quân Lô Châu tới đây là đã tới bờ, do đó địa thế của góc thành này không dễ bày binh bố trận, rất ít bị tấn công, sức phòng thủ cũng có hạn.

Người đó lặng lẽ bò vào thành, cẩn thận xem xét bốn phía, rồi đột ngột tiến lên phía trước rất nhanh, di chuyển một hòn đá to trên mặt đất, sau đó vớ lấy một thứ gì đó, nhanh chóng chạy lại phía tường.

Một gã thị vệ liếc mắt nhìn thấy, liền kêu lên thất thanh: “Đó là dây trói, người đó muốn trèo ra khỏi thành”.

Tên thị vệ khác nhanh chóng lấy cung tên, giương cung, ngắm theo bóng người đó chuẩn bị bắn. Người bên cạnh thì thào nhắc nhở: “Cố gắng bắt sống hắn”.

Tên thị vệ đó hiển nhiên tin tưởng vào tài bắn cung của mình, giơ căng dây cung, khóe miệng nở một nụ cười lạnh tự tin nói: “Ngươi yên tâm, chỉ cần có một tia sáng ta sẽ không thể bắn lệch được”.

Miệt Nhi Can trong tiếng Khiết Đan có nghĩa là tay bắn cung giỏi, người này cũng là một trong những tay cung đệ nhất dưới trướng Long Hưng Dịch, từ trước đến nay luôn lấy điều đó làm niềm tự hào. Muốn chứng minh những điều đồn đại là thực, hắn chưa nói dứt lời, mũi tên trong tay đã rời khỏi cung lao đi vun vút.

Người nọ đang dùng dây leo qua thành, vừa mới bò qua thành thì mũi tên của Miệt Nhi Can đã lao tới, khiến hắn thét lên một tiếng rồi ngã gục xuống trong bóng tối. Miệt Nhi Can sợ hắn chạy mất, bèn lớn tiếng quát: “Mau, bắt hắn lại”.

Một vài tên rút đao giắt ở thắt lưng ra, vội vàng chạy ra phía thành, làm kinh động cả bốn phía quanh thành. Bọn chúng mắt nhắm mắt mở nhảy dựng lên, hoang mang nắm chặt vũ khí, hét lớn: “Là ai?”

“Chúng ta vốn là thị vệ dưới trướng Long Hưng Dịch đại nhân, có người muốn trốn ra khỏi thành, đem đuốc lại đây soi xem sao”.

Một vài người lớn tiếng thông báo, bọn lính gác thành vội đem đuốc chạy đến nơi người kia vừa ngã xuống xem, thì chỉ thấy hắn nằm gục trên mặt đất, mũi tên cắm ngay đằng sau tim, khi lật lại người hắn thì hắn đã chết, mắt trợn ngược.

Miệt Nhi Can không nén nổi oán hận nói: “Hắn làm sao có thể chết được? Tài bắn cung đầy mình của Miệt Nhi Can đây…”

Tên lính đứng bên cạnh vội vàng nói: “Trời tối mịt mờ, có thể bắn trúng được đã là không dễ rồi, Miệt Nhi Can chớ nên tự trách mình.”

Tên vừa bị bắn chết mặc một bộ y phục màu xanh, một tên lính đem đuốc đến soi vào mặt hắn chợt thất thanh kêu lên: “Quả nhiên là người của Lưu đại nhân, tôi đã trông thấy người này”.

Vài tên lính thị vệ xì xào bàn tán với nhau vài câu, tin tức nhanh chóng được lan truyền đi khắp thành, mọi người được dặn dò phải phong tỏa tin tức, không cho tin tức bị lan truyền ra ngoài, còn với việc của cái xác thì nhanh chóng báo tin về cho Long Hưng Dịch.

Trúc Vận đứng trong bóng tối cười thầm, lẩn khuất nhanh chóng vào màn đêm dày đặc. Đêm nay, nàng còn nhiều chuyện phải làm.

Kế Tự Đường năm nay đã từng muốn nâng đỡ Vương Dương Cổn thâu tóm nhà Chiết gia, đồng thời đôi bên phối hợp mật thiết, nắm rõ tình hình nhà Dương rõ như lòng bàn tay, sau đó Dương Cổn sẽ nắm Lân Châu, không là địch của Chiết gia, ngược lại còn thu thập người của Kế Tự Đường, như vậy cửa này đã không dùng được nữa.

Cái mà đã bỏ đi không dùng thì không còn phải giữ bí mật, dần dần được truyền cho mọi người.

Khiết Đan tuy là nước thượng võ, chinh chiến tốt nhất, nhưng không nhất thiết sẽ là dũng mãnh nhất. Bọn họ rất coi trọng tác dụng của việc tì mỉ dò xét, phái một lượng lớn người đến thăm dò Trung Nguyên, thậm chí còn mua chuộc vài viên quan trong triều Tống, đó là công lao của Khiết Đan. Đối với chư hầu Tây Bắc, dù không phải là điều quan tâm đặc biệt của người Khiết Đan, nhưng cũng để ý đến hoạt động của họ, chiêu này họ đã nằm lòng, rồi lấy đó làm tham khảo để đưa về cho Long Hưng Dịch của Bắc quốc là Gia Luật Thịnh, cũng đã từng tỉ mỉ nghiên cứu quy luật.

Nay thấy trong thư Lưu Kế Nghiệp có đề cập đến việc đó là bí kíp đã không còn dùng từ nhiều năm nay của nhà Dương gia, hắn vội lấy chiếc bút mình đã từng dùng năm xưa ra đẻ so sánh, thấy quả nhiên trên bức truyền đơn nói rõ thời gi­an, địa điểm, thân phận của người truyền tin và yêu cầu. Kết hợp với bức thư mà Lưu Kế Nghiệp ra xem, cả hai đều không phải lần đầu tiếp xúc.

Khi đó mật mã tương đối đơn giản, chỉ cần giản lược bề mặt thời gi­an, địa điểm và yêu cầu… nếu như muốn biểu đạt rõ ràng nội dung thì phải dùng ngôn ngữ thông thường để viết, do đó trên mặt truyền đơn thường không viết được nhiều, Long Hưng Dịch xem qua lá thư này liền dịch được ngay, cười lạnh lùng, nói: “Đi thôi, đi gặp Khánh Vương đại nhân”.

Thành Ngân Châu từ khi Khánh Vương Gia Luật Thắng tới, dù kho trong phủ còn đầy nhưng để cổ vũ tinh thần ba quân, chiêu mộ lòng dân, Khánh Vương đã cho quét sạch những hộ lớn, trừ những hộ làm ăn kinh doanh có quan hệ mật thiết với Khiết Đan, thì chỉ còn duy nhất một hộ, tuy không gi­ao du gì với Khiết Đan, nhưng cũng bình yên vô sự, hơn nữa còn được nhận sự quan tâm đặc biệt của Khánh Vương, đó chính là Lý gia ở Ngân Châu.

Ngân Châu Lý gia, đúng là hậu nhân của họ Lý ở Lũng Tây, không giống với họ Lý ở Hạ Châu, là hậu duệ của vương gia, mà họ Lý ở Lũng Tây từ đời Tần Hán đến nay vẫn cứ là chính thống của nhà Hán. Năm đó thiên tử Đại Đường Lý Thế Dân muốn tìm cho bản thân một xuất thân nguồn cội oai hùng, cũng muốn với cao nên nói rằng hắn là hậu nhân của Lý Tung ở Tây Lương, Lý Tung chính là một nhân vật kiệt xuất của họ Lý ở Lũng Tây.

Có điều Lý Thế Dân muốn ngư mục hỗn châu, người đương thời không thể chấp nhận được. Khi đó tăng nhân Pháp Lâm đã gây khó dễ cho hắn, bác bỏ lại hoàng đế, nói: ” Đường ngôn họ Lý, bệ hạ họ Lý, tuy là đẹp nhưng không phải dòng giống ở Lũng Tây”. Hắn đã nói thẳng không giấu giếm rằng Lý Thế Dân vốn là xuất thân thấp kém, không thể nào là hậu nhân của họ Lý đại quý tộc ở Lũng Tây, nếu như trong tay không có bằng chứng thì hắn có cuồng vọng cỡ nào cũng không thể phát ngôn bừa bãi trước mặt hoàng thượng, khiến Lý Thế Dân khi đó không còn chút hứng thú nào.

Lý Thế Dân vốn thực là người Hồ, có rất nhiều thứ có thể tìm ra được, ví dụ như trong ghi chép của Đại Đường thì vào thời Bắc Ngụy có tổ tiên ban đầu của nhà Lý. Tổ phụ của Lý Uyên Lý Hổ tên là Khởi Đầu, còn có một chiến đệ gọi là Khất Đậu, con trai đầu của Lý Khởi Đầu tên là Đạt Ma, đều là tên ti tộc. Nhà Lý cũng kế tục rất nhiều những phong tục tập quán của người Hồ, ví dụ như sự thay đổi của Huyền Vũ Môn, Lý Thế Dân dụng binh vào cung, tạ tôi với Lý Uyên, khi quỳ xuống phải mút chính hai vú của mình, đó chính là minh chứng rõ nhất cho tập tục của người Hồ.

Nhưng bất kể người khác nói như thế nào thì Lý Thế Dân cũng tự cho mình là hậu thế của họ Lý ở Lũng Tây, lợi dụng thế lực của mình để sửa đổi sử sách, che giấu sự thực với những người hậu thế. Nhưng không thể nào giấu nổi, việc hắn tự leo cao bản thân thành hậu nhân của họ Lý ở Lũng Tây bị nhiều người chú ý. Do vậy họ Lý ở Lũng Tây được phát triển rất mạnh, trở thành một địa gia có thế. Đến nay thì Đại Đường đã tan như khói mây, phân nhánh của họ Lý Lũng Tây cũng đã bị lưu lạc đến tận Trung Nguyên, có điều ở Lũng Tây vẫn còn một nhánh của họ Lý, chủ yếu sinh sống ở Ngân Châu, lấy hiệu là họ Lý Ngân Châu.

Tộc trường của họ Lý Ngân Châu tên là Lý Nhất Đức, tự Quân tử. Một phần tư dân số thành Ngân Châu là thân thích của họ, ngoài ra còn có quan hệ mật thiết với hơn một nửa số dân trong thành, do đó những người mang họ Lý trong thành chiếm hơn một nửa. Một nhân vật như vậy bất kể là ai chiếm được Ngân Châu thì trừ phi hắn chỉ muốn chiếm cái thành không, chứ nếu không cũng sẽ không dám đắc tội với già nửa họ Lý trong thành. Do đó, đến nay Ngân Châu tuy binh mã hoảng loạn, Lý Nhất Đức vẫn cứ bình tĩnh như không.

Đêm đã khuya, trăng thanh gió mát, vầng trăng nhô lên cao, dế mèn trong bụi cây kêu lên từng hồi ro ro. Một bóng người di chuyển rất nhanh về phía hành lang, đi qua mấy dãy phòng xá, dừng chân tại một tòa đình các.

Người đó chính là Trúc Vận, dù là lần đầu đến Lý gia nhưng đại đa phần kiến trúc trong các nhà giàu đều có quy luật, phòng chính, phòng khách, hành lang, đều đã có quy luật nhất định, chỉ cần thuộc kiểu kiến trúc thì có thể biết được ngay vị trí của các gi­an nhà. Nàng đứng ở đình quan sát một lượt, sau đó phi thân tiến vào một cánh cửa có hoa leo xung quanh, men theo những tảng đá nhấp nhô trên con đường mòn tiến về phía trước.

Lý lão gia đã say giấc, nằm trên một chiếc giường có khắc hoa lớn. Một thiếu phụ dáng người đẫy đà, dung mạo xinh đẹp, mặc một bộ quần áo mỏng màu cánh gián, khuôn mặt hồng hào như say rượu, trong giấc mơ dường như có điều gì vui sướng nên ở khóe môi còn nở ra một nụ cười ngọt ngào. Còn lão gia nằm bên cạnh nàng là một lão già mắt sâu mày rậm, chòm râu đã chuyển màu hoa tiêu, đang phát ra tiếng ngáy ầm ầm.

Trúc Vận cười cười, nghĩ đến cảnh tượng “nhất thụ lê hoa áp hải đường” mà buồn cười, rồi quay người đi, xem xét tình hình trong phòng.

Nàng tuy là đệ tử của thế gia nổi tiếng thiên hạ, nhưng thưở nhỏ đã làm việc trong Kế Tự Đường, đã nhìn quen những cư thất hào nhoáng. Chỗ này là chỗ ngủ của Lý Nhất Đức, rèm cửa tung bay, đẹp đẽ sang trọng, không có chút dung tục nào. Ở thế gia mà có được không khí này cũng không phải ngạc nhiên, nhưng ở Tây Bắc trong cái lạnh thế này mà có được một nơi như vậy thì quả là đáng khen.

Trúc Vận ngồi xuống bên bàn, thuận tay cầm ấm trà lên, trong bình trà đã nguội ngắt, uống một hớp, nàng khen: ” Trà ngon, đã pha lâu như thế rồi mà vị vẫn không bị đổi một chút nào, trà đã ngon, ấm pha trà cũng thật là tuyệt.” Nàng vừa nói xong thì Lý Nhất Đức đang nằm trên giường vội chợt thức giấc, hoắc mắt ngồi dậy, áo trễ xuống, để lộ ra một cơ thể rắn chắc màu đồng. Vời một gã đàn ông đã hơn năm mươi tuổi thì có thể nói là khá khỏe mạnh sung sức.

Trúc Vận cười ha hả, không để ý Lý Nhất Đức đang ở trần, nàng nheo nheo mắt, ngọt ngào nói: “Lý lão gia, ngài nhỏ thật đấy”.

“Ngươi là ai?” Lý Nhất Đức quát to khiến người phụ nữ nằm cạnh hắn phải giật mình tỉnh giấc, thấy trong phòng một cô nương đang ngồi lù lù bên bàn, bên người còn giắt theo một thanh bảo kiếm, không nén nổi sợ hãi mà hét lớn

“A!”

Trúc Vận cười nói: “Họ Lý Ngân Châu, truyền thừa cho đến nay quả là không dễ. Lý lão gia ưa làm việc thiện, cứu tế bần hàn, cao sang vọng trọng, được mệnh danh là Quân Tử Đức, nay được diện kiến tận mắt tiểu nữ thật không đành lòng, đêm hôm mạo muội đến đây làm phiền, cũng chỉ là do quá mê mẩn, lão gia không hoan nghênh sao?”

“Hả?” Mỹ nữ ngồi bên cạnh hắn lại kêu lên một tiếng kinh ngạc, Trúc Vận chau mày, sắng giọng: “Lão gia, có thể khiến ả kia câm miệng lại được không?”

“Hả?” Mỹ nữ đó lại kêu lên một tiếng kinh ngạc, liền bị Lý Nhất Đức chau mày quát: “Đi ra!”

Mỹ nữ bàng hoàng ngồi dậy, không cần để ý thời tiết bên ngoài thế nào liền chạy ra ngoài. Lúc này ở bên ngoài có người đang gõ cửa: “Lão gia, xảy ra chuyện gì vậy?”

Lý Nhất Đức nói: “Lão phu không sao, ngươi gào cái gì, mau cút xa khỏi đây”

Đợi người đó đi khỏi, Lý Nhất Đức mới quấn áo quanh người, chạy xuống đất, đi về phía Trúc Vận, ung dung ngồi xuống trước mặt nàng, nhìn thăm dò một lượt rồi mở miệng hỏi: “Cô nương từ đâu đến đây, phụng mệnh ai, muốn nói với lão phu điều gì?”

Trúc Vận thấy dáng bộ ung dung của hắn cũng không khỏi cảm phục: “Lão gia đã can đảm như thế quả thực cũng khiến tiểu nữ khâm phục”.

Lý Nhất Đức cười hà hà nói: “Cô nương đang đêm hôm dám xông vào nơi ở của lão phu, sự can đảm đó mới khiến lòng người cảm phục. Nếu như cô nương muốn lấy cái đầu này của lão phu thì hà tất còn chưa ra tay? Còn lớn tiếng đánh thức lão phu dậy, tất nhiên là không muốn hạ sát lão, lão phu còn có gì mà phải sợ? Hơn nữa, nhà Lý ta tuy rằng không phải đầm rồng hang hổ, nhưng cũng không phải dễ xông vào. Nhiều năm nay không một ai dám mò vào phủ nhà Lý lúc đêm hôm, vì khó lòng thoát khỏi lính canh gác. Ấy vậy mà cô nương một mình xông được vào tận đ ây, nếu như cô nương quả thực là nỗi lo sợ cho lão phu thì muốn thoát khỏi đây cũng không dễ dàng”.

Trúc Vận thản nhiên nói: “Cái này thì ta tin tưởng. Tiểu nữ tự đến chỗ nguy hiểm cũng có nghĩa là tiểu nữ có thành ý, lão gia có thể công khai mà nói chuyện với tiểu nữ không?”

Lý Nhất Đức đưa ánh mắt thích thú của lão nhìn Trúc Vận, nói: “Cô nương muốn nói chuyện gì với lão phu?”

Ánh mắt của Trúc Vận chợt nghiêm trở lại: “Họ Lý Ngân Châu, đại tộc nhà Hán, đến nay đã làm hổ làm tướng, trợ giúp quân Khiết Đan bảo vệ vững chắc thành trì, lão gia thân là gia chủ của họ Lý, lẽ nào…”

Lý Nhất Đức cười ha hả, xua tay nói: “Nếu như cô nương muốn dùng Hán Hồ để khuyên lão phu thì cô có thể đi được rồi. Ta là họ Lý Ngân Châu Ngân thật đấy, nhưng khi Tây Bắc gặp khó khăn có yêu cầu gì thì cũng đều phải dựa trên sức của họ, chứ làm gì có liên quan gì đến người Hồ? Ích lợi viện tới, binh mã của người Hán với chúng ta như rồng như hổ, chỉ cần có chỗ thích hợp là được, người Hồ có quan hệ anh em thân thiết với chúng ta, lấy phần Hán Hồ để định đoạt độ thân thiết xa gần là điều ngu xuẩn cực kỳ!”

“Bốp, bốp, bốp!”

Trúc Vận nhẹ nhàng vỗ tay: “Lão gia đã là người không ngu xuẩn như vậy thì dễ làm rồi. Vậy chúng ta hãy vứt bỏ mấy cái đại nghĩa đi, chỉ nói đến lợi ích thôi”.

Lý Nhất Đức bật cười nói: “Lão phu còn không biết cô nương rốt cuộc là người thế nào, không biết cô nương có thể đem đến cho ta lợi ích gì?”

Trúc Vận nói: “Lão phu tử, ta là người của thái úy họ Dương ở Lô Châu, lần này phụng mệnh thái úy, nửa đêm tiến vào thành Ngân Châu, muốn được yết kiến lão phu tử, còn nói về lợi ích, thì Dương thái úy có thể đem đến lợi ích cho ngài đấy, đó chính là bảo đảm uy danh của Lý gia không bị đe dọa”.

Chương 431:Trúng Kế

Lý Nhất Đức nheo nheo hai mắt lại, trầm giọng nói: “Lời ấy là có ý gì? Dương thái úy bảo đảm cho uy danh của họ Lý chúng ta không bị đe dọa ư? Hừ! Khiết Đan, Lô Châu liên tiếp kéo đến, tới trước thành khí thế hung hãn, thành Ngân Châu đang đứng trước cơn nguy, nhà Lý chúng ta trợ giúp Khánh Vương thủ thành. Dương thái úy đánh thành Ngân Châu của chúng ta, lại còn to mồm nói sẽ bảo vệ uy danh của Lý gia chúng ta là ra làm sao?”

Trúc Vận nói: “Những lời ấy của Lão phu tử sai rồi, nhất ẩm nhất trác, chẳng lẽ là tiền định. Nếu như Khánh Vương không cướp thành Ngân Châu thì làm sao quân Khiết Đan và Lô Châu dẫn binh kéo đến? Lão phu tử không chỉ trích Khánh Vương, ngược lại còn hết lòng vì hắn thì còn ra đạo lý gì? Khánh Vương là nghịch thần của Khiết Đan, hắn chiếm Ngân Châu, hoàng hậu Tiêu Xước có đồng ý được không? Khánh Vương vừa đến đã dẫn theo kỵ binh Khiết Đan đến, chư hầu Tây Bắc ắt gặp khó khăn. Phòng ngự sứ ở Ngân Châu Lý Quang Tề bị giết, đó chính là tấm gương. Để tránh khói lửa chiến tranh xảy ra ở vùng Tây Bắc của ta, Dương thái úy mới dẫn binh tới, cũng chính vì cố xử lý xong vụ này cho tránh tai họa về sau. Lão phu tử là anh hùng chinh chiến đã lâu ở Tây Bắc, trải qua bao phong ba bão táp, lẽ nào lại không nhìn thấu hay sao?”

Lý Nhất Đức cười ha hả nói: “Nếu như Dương thái úy tấn công thành, thì còn cần phái ngươi - một cô nương đang đêm hôm khuya khoắt lẻn vào gặp lão phu làm gì? Dùng lời ngon tiếng ngọt, chẳng qua là muốn lão phu giúp ngươi chứ gì. Ta là người họ Lý, muôn đời nay con cháu vẫn sinh sống trong thành Ngân Châu, nếu như trở thành thù địch với Khánh Vương thì e rằng sẽ rơi vào lưỡng bại câu thương, các ngươi ở ngoài thành, có thể làm gì ích cho lão phu?”

Trúc Vận phản bác nói: “Khánh Vương một khi còn sống thì người Khiết Đan cũng không chịu yên. Bất kể phải trả giá thế nào thì quân Khiết Đan cũng sẽ giết được Khánh Vương. Binh mã của lính Khiết Đan nhất định sẽ phá vỡ thế cân bằng của các chư hầu Tây Bắc. Để trừ hậu họa sau này, chư hầu Tây Bắc nhất định phải chống lại Khánh Vương, do đó, Khánh Vương còn ở Ngân Châu một ngày thì Ngân Châu còn một ngày không yên.

Giữ Ngân Châu? Có thể giữ được sao? Có thể giữ trong chốc lát chứ sao giữ được cả đời? Thiên hạ không có thành nào là tồn tại mãi mãi, chỉ là dài hay ngắn mà thôi. Khánh Vương chiếm Ngân Châu, nước Tống không đồng ý, Khiết Đan không bỏ cuộc, Phủ Châu, Lân Châu, Lô Châu không đồng ý, họ Lý Hạ Châu khi đã ra mặt thì cũng sẽ không đồng ý, hắn còn ở Ngân Châu thì khói lửa chiến tranh vẫn còn không dứt.

Ta biết lão phu tử có tiếng là nửa thành là con cháu họ Lý, nhưng dẫu cho có như vậy thì lão phu tử có bao nhiêu người có thể sẵn sàng chết? Thân là gia chủ họ Lý, lão phu tử nay lâm vào cảnh loạn th ế, có thể vứt bỏ hết vinh hoa phú quý, nhưng dựa vào th ế lực của nhà Lý ở Ngân Châu thì chiến tranh vẫn cứ xảy ra liên tiếp, đau thương và chết chóc vẫn liên miên không dứt, vậy lão phu tử có yên lòng được không? Ngoài thành binh mã đã tổn thương không ít, quân giữ thành ở phía trong thành cũng đã dần mệt mỏi, một khi thành bị phá thì thành Ngân Châu cũng sẽ rơi vào cục diện thê thảm, Gi­ang Châu nước Đường chính là một vết xe đổ cho ngài nhìn vào. Đến lúc đó, Gia Luật Tà Thuyên mà hạ lệnh phá thành, thì lão phu tử có không sợ chết cũng phải nghĩ đến chuyện truyền cho người khác duy trì dòng họ Lý chứ?”

Lý Nhất Đức ánh mắt sắc lạnh, trầm giọng hỏi: “Cô nương có cao kiến gì?”

Trúc Vận nói: “Quân trong thành Ngân Châu không ít người là họ Lý, theo như tôi được biết, Khánh Vương chiếm thành Ngân Châu, binh mã trong thành cũng đã tản mát nhiều rồi. Chạy xa thì chạy đến được Hạ Châu, đi theo Lý Quang Duệ, nhưng người nhà gia tộc của lão phu thì đại đa phần đều quy thuận Khánh Vương. Nếu như Khánh Vương kiên quyết thủ thành thì người ngựa nhất định sẽ hưởng ứng. Lão phu tử có công dâng thành thái úy của chúng tôi nhất định bảo toàn Ngân Châu, không để Ngân Châu rơi vào tay Khiết Đan.”

Lý Nhất Đức chớp chớp mắt, hồi lâu mới nói: “Người Khiết Đan cướp bóc đã thành thói, dã man tàn bạo, một khi thành bị phá thì loạn quân vào thành, cứ cho đại vương của bọn chúng có muốn cũng không khống chế nổi hết bọn chúng, Dương thái úy làm sao dám chắc là sẽ bảo đảm Ngân Châu không bị nạn binh tai?”

Trúc Vận thản nhiên cười: “Lão phu tử, thái úy chúng tôi đã dám nói thì điều này ắt đã nắm chắc. Sự việc trọng đại, tôi cũng không dám tiết lộ nhiều, nếu như lão phu tử quyết định, quyết tâm hợp tác với chúng tôi thì xin hãy thành ý, khi đó, thái úy của chúng tôi sẽ đưa ra đáp án khiến lão phu tử hài lòng”.

Nàng kiều diễm đứng dậy, thản nhiên nói: “Ở thành Ngân Châu này, lão phu tử là người thông thiên, là hoàng đế dưới trần, nếu như lão phu tử có quyết định thì hãy tìm cách liên hệ với thái úy chúng tôi, tiểu nữ xin đi trước. Ngày mai, ắt sẽ có một số chuyện phát sinh, sẽ khiến cho lão phu tử hiểu được cách của thái úy chúng tôi. Để bảo vệ uy danh của họ Lý, xin Lý gia hãy sớm đưa ra quyết định, cáo từ!”

Trúc Vận thản nhiên đi ra hướng cửa, cẩn thận đề phòng rồi mở cửa, trong sân phát ra những tiếng kêu leng keng, đao gươm đồng loạt rút ra, lưỡi gươm chi chít như rừng, trong sân đã tụ tập rất nhiều đệ tử của nhà Lý, trên tường, nóc nhà, giả sơn, sau hành lang, đám đệ tử mỗi người đều cầm trong tay gươm.

Uy thế đó khiến Trúc Vận toát mồ hôi lạnh, nếu như Lý Nhất Đức hô “giết” một tiếng thì e rằng nàng sẽ bị chết ngay tức khắc, sau đó bị chém nát ra như bùn, ở nơi này thì có thiên la địa võng các chiến thuật cũng không thể nào mà có đất dụng võ.

Trúc Vận đứng im, một lát sau, trong phòng có lệnh truyền ra: “Tất cả lùi ra!”

Đệ tử của Lý gia lập tức rút lui, chỉ trong chốc lát, cả sân đã vắng bóng không còn một ai, tĩnh lặng như cũ. Dế lại kêu vang. Trúc Vận khẽ thở phào, một cơn gió thổi tới, nàng cảm thấy rõ áo sau lưng mình bị mồ hôi chảy ra ướt đầm, khẽ lấy lại hơi, nàng quay lưng chắp tay nói: “Lời nói hôm nay hy vọng lão phu tử sẽ dành thời gi­an suy nghĩ, tiểu nữ xin cáo từ”. Nói rồi thoáng một cái, bóng nàng biến mất trong bóng đêm.

******************************************

Khánh Vương Gia Luật Thịnh nắm chặt lá thư của Long Hưng Dịch trong tay, cùng với lá truyền đơn, khuôn mặt trở nên méo mó, dữ tợn như quỷ. Hắn đấm bàn kêu “rầm” một tiếng, hét lớn: “Đi, bắt người của Lưu Kế Nghiệp cho ta!”

“Tuân lệnh!” Bọn lính hô một tiếng rồi quay người bỏ ra ngoài.

“Chậm đã!” Gia Luật Thịnh gọi với lại, nhặt hai lá thư lên rồi nói với Long Hưng Địch: “Lưu vô địch là người giữ thành tốt nhất, cái này… có thể nào là mưu kế của Dương Hạo không?”

Long Hưng Dịch tiến lên nói: “Đại nhân, thuộc hạ cũng từng nghi ngờ như vậy, nhưng rất nhiều dấu hiệu đã chứng minh rằng Lưu Kế Nghiệp không hoàn toàn trong sạch. Đại nhân đã phải cầu viện nước Hán, Lưu Kế Nguyên không muốn xuất binh, chỉ có thể âm thầm trợ giúp, có thể hấy là căn bản không có thành ý liên minh với đại vương, một khi có điều gì thì cái liên minh này ắt sẽ bị lung lay, leo tường đón gió cũng là lẽ tất nhiên.

Còn nữa, Lưu Kế Nghiệp khi mới bắt đầu đi dò xét quanh thành, mỗi lần ngoài thành có địch mạnh tấn công hắn đều thủ ở lục viện, nhưng sau đó lại đột nhiên chuyển quân đến Nam thành - nơi quân Lô Châu đóng, như vậy chẳng lẽ không đáng nghi? Thuộc hạ nghe nói cái tên Lưu vô địch thương binh như con, mỗi lần lâm trận toàn tiên phong đi trước, sau trận chiến lui về nghỉ ngơi hắn cũng phải đi thăm hỏi an ủi các binh sĩ, thưởng cho binh sĩ tốt. Ba quân chưa cởi áo giáp đi nghỉ hắn cũng không ngủ yên, ba quân không ăn cơm hắn đến nước cũng không động răng, thế thì tại sao giờ hắn lại thế? Trận chiến vừa dừng hắn chỉ đi tuần có một lượt, đừng nói đến việc thăm hỏi ba quân, đến xem động tĩnh khắp nơi hắn còn chẳng buồn, như vậy ắt hẳn là có nhiều điều nghi ngờ rồi.

Thứ ba, Dương Hạo từ Khai Phong đến Lô Châu, nếu như không phải nhà Chiết và nhà Dương đã câu kết với nhau thì làm sao có thể hiểu được bí mật dùng quân của nhà Dương? Hơn nữa theo tin tức nghe được của bọn phu binh thì ở vị chủ tướng ở ngoài thành có họ Chiết, hừ, e rằng là người nhà họ Dương. Chỉ là bọn họ không biết mà thôi, điều mà không thể cãi lại được chính là…”

Hắn hít một hơi thật dài rồi hạ giọng nói: “Lá thư này là cướp được trên người thân binh của Lưu Kế Nghiệp, nhân chứng, vật chứng đều đầy đủ, không gì có thể chối cãi. Đại nhân có tài, nhưng xin hãy cẩn thận trước âm mưu quân địch.”

Gia Luật Thịnh vừa nghe hắn nói vừa đi đi lại lại, hồi lâu không nói. Long Hưng Dịch thúc giục nói: “Đại nhân, không dứt khoát thì loạn không ngừng”.

Gia Luật Thịnh bỗng dừng lại, trầm giọng nói: “Dương Đan Mặc, mời Lưu Kế Nghiệp đến, bản vương… thử hắn xem sao”.

Dương Đan Mặc ngẩn người, chắp tay đi.

Chương 432: Công thành công tâm

Cỡ một tuần hương trôi qua, Lưu Kế Nghiệp đi theo Gia Luật Thịnh tới. Chỉ trông thấy Lưu Kế Nghiệp mặc áo giáp đầy đủ, không có vẻ gì như vừa mới thức dậy, Gia Luật Thịnh lòng nghi ngờ nổi lên, cười thăm dò: ” Tướng quân đến nhanh thế, còn chưa đi ngủ hay sao?”

Dương Đan Mặc cướp lời: “Mạt tướng trên đường đi gặp Lưu tướng quân đấy ạ”.

Lưu Kế Nghiệp vốn định đi nằm nhưng đột nhiên phát giác ra thị vệ quanh mình thiếu mất một người. Ngay từ đầu thủ hạ của hắn đợi người này đi vệ sinh, cũng không chú ý lắm, nhưng đợi mãi không thấy quay trở lại, mới bắt đầu nảy sinh lòng nghi ngờ, đi tìm khắp thành cũng không thấy bóng dáng đâu, đành báo cáo lên Lưu Kế Nghiệp. Lưu Kế Nghiệp nghe xong liền vội vàng mặc áo giáp đi tìm, nhưng cũng không rõ nguyên do bên trong.

Lúc này, Dương Đan Mặc đang trên đường đi tìm hắn đến gặp Khánh Vương, tên đó cũng không biết Lưu Kế Nghiệp là người thông minh tuyệt đỉnh, không bao giờ nghĩ rằng ở ngoài thành có cao thủ được phái vào đây xuống tay với gã thị vệ, hắn e rằng tên thị vệ đó tận mắt thấy cuộc chiến trong thành quá khốc liệt nên đã tìm cách đào ngũ, hoặc là đã vi phạm quân luật nên không dám quay về, nếu như đúng là như vậy thì thật mất mặt.

Trước khi chân tướng sự việc được làm rõ, hắn cũng không muốn để cho Dương Đan Mặc biết, nên đành nói bừa rằng đã đi ngủ rồi nhưng không yên về việc coi thành nên dậy đi tuần xem sao, hắn cũng nói y như vậy với Gia Luật Thịnh.

Gia Luật Thịnh thân là chủ, hắn nhìn Lưu Kế Nghiệp thấy không có gì khả nghi, huống hồ những lời của Kế Nghiệp không hẳn là cao minh nên hắn bất động, ngáp một cái mà nói: “Lưu tướng quân vất vả rồi, bản vương có được một tướng quân như thế này trợ giúp ắt thật là phúc lớn của bản vương.”

Lưu Kế Nghiệp đáp: “Khánh Vương khen quá lời rồi, không biết Đại Vương cho gọi mạt tướng đến đây là có gì dặn dò?”

Gia Luật Thịnh cười ha hả đáp: “Lưu tướng quân là khách khanh của bản vương, có gì mà phải dặn dò cơ chứ? Bản vương chỉ là có một chuyện muốn bàn bạc với tướng quân”.

“Xin mời đại vương nói”.

Gia Luật Thịnh nheo hai mắt lại, nói: “Mấy ngày nay, quân Lô Châu phía nam thành bị tổn hại rất nghiêm trọng, đã mất đi nhuệ khí, lực tấn công thành cũng giảm sút. Bản vương cho rằng, nếu như chúng ta cứ tiếp tục mạnh mẽ công kích thì quân Lô Châu ắt sẽ thảm bại. Lô Châu mà bại thì chỉ dựa vào sức của Gia Luật Tà Thuyên đang ở xa, một cây làm chẳng nên non, càng khó phát huy tác dụng, thành Ngân Châu có thể nhờ đó mà an toàn”.

Lưu Kế Nghiệp động lòng hỏi: “Không biết đại vương có diệu kế gì?”

Thần sắc Gia Luật Thịnh nặng hẳn xuống, hắn cười lạnh nói: “Quân ta đã nhiều ngày không ra khỏi thành đánh úp rồi, theo ý bản vương, đêm nay xuất cờ ngoài ý muốn, tung hết đại quân ra, đánh úp quân Lô Châu. Dương Đan Mặc cùng tướng quân, mỗi người dẫn một đường, ba quân tập hợp lại cùng đánh úp. Chỉ huy trong đêm là việc không dễ, hơn nữa quân địch còn không biết tường tận quân ta, chỉ có thể phòng ngự, không dám mạo hiểm công kích, mà Gia Luật Tà Xuyên thì không dám tùy tiện viện binh, để tránh bị quân ta tóm cổ, vì thế ta định cho quân đánh Lô Châu trong đêm nay, ý tướng quân thế nào?”

Lưu Kế Nghiệp mặt biến sắc nói: “Không được, quân Lô Châu mấy ngày nay đã gia tăng phòng bị, trong ngoài quân đội đều đặt chướng ngại trùng điệp, trong đêm tối đánh úp e rằng sẽ rơi vào trận địa của chúng bày ra, không biết sẽ phải tổn hại đến bao nhiêu binh mã. Một khi quân địch đã có đề phòng thì sẽ rất khó, huống hồ quân ta cũng không có sở trường đánh trong bóng tối, sẽ càng khó khăn hơn. Tình hình như vậy thì kể cả có đánh úp thành công, quân ta cũng sẽ tổn hại với con số không nhỏ, khi đó chỉ dựa vào quân số ít ỏi còn lại để giữ Ngân Châu thì làm sao địch lại nổi đội binh tinh nhuệ của lục viện?”

Gia Luật Thịnh cười nói: “Vậy theo Lưu tướng quân thì bản vương phải làm sao?”

Lưu Kế Nghiệp quả quyết nói: “Cứ kiên quyết thủ thành. Trong thành có tích trữ lương thực, có thể đủ dùng trong mười năm. Ngoài thành số lượng binh mã lên đến hàng vạn, Lô Châu mới xây dựng, có thể cầm cự được bao lâu? Đại quân Khiết Đan chỉ dựa vào bách tính tứ phương, càng khó trụ nổi, nếu như quân Khiết Đan từ xa vận chuyển lương thực tới thì trên đường ắt phải tiêu hao ít nhiều, đến được thành Ngân Châu thì cũng chỉ còn hai ba phần. Tình hình như thế bọn chúng cũng không kháng cự được lâu. Chúng ta ở trong thành còn cầm cự được một ngày thì chúng càng sớm tiêu một ngày. Gia Luật Tà Xuyên tội ác tứ phương, trời đất oán giận, vốn đã không thể nhờ vả gì được ở bách tính trong thiên hạ, để lâu quân của chúng ắt sẽ bị uy hiếp, phẫn nộ dẫn đến phản kháng, tình hình hỗn loạn. Đến lúc đó quân ta tấn công thì ắt sẽ thắng”.

Nghe đến đây, thấy những lời đó phù hợp với những gì trong thư, Gia Luật Thịnh cười ha hả mà rằng: “Dự tính của Lưu tướng quân hay lắm, ha ha ha… đúng là có đạo lý, có đạo lý quá”.

Lưu Kế Nghiệp vui vẻ nói: “Đại vương từ thiện như vậy, sớm có một ngày, không chỉ Ngân Châu mà cả Tây Bắc này đều sẽ biến hóa nghiêng lệch cả trời đất”.

Khánh Vương Gia Luật Thịnh ôm bụng cười nói: “Ha­ha, cuối cùng thì Lưu tướng quân đã nói được một câu thật lòng”.

Lưu Kế Nghiệp cuối cùng cũng nhận ra cái cười mỉa mai của hắn, không khỏi ngạc nhiên nói: “Lời nói ấy của đại vương là có ý gì?”

Nụ cười trên môi Gia Luật Thịnh chợt tắt, hắn gầm lên: “Người đâu, bắt hắn lại cho ta!”

Từ hai bên trướng lập tức một đội quân xông ra, lao thẳng đến tóm giữ Lưu Kế Nghiệp, trói hắn lại. Lưu Kế Nghiệp kinh hãi nói: “Khánh Vương, ngài có ý gì?”

Gia Luật Thịnh cười lạnh một tiếng: “Bản vương cả đời nghĩ quỷ kế, làm sao có thể rơi vào bẫy của ngươi được? Bỏ áo giáp của hắn ra, lập tức bắt người của hắn, nếu như có ai dám phản kháng, lập tức giết không tha!”

Ngày thứ hai, Dương Hạo lại thử tiến hành vài trận đánh dò xét để tấn công vào thành, nhưng vẫn như diễn tập, đánh cho không đau không ngứa, từ trong thành, chỉ huy binh mã có phong cách đánh không giống với Lưu Kế Nghiệp, nửa đêm Trúc Vận vào thành cũng đã thăm dò thấy trong thành có thay đổi, được biết Khánh Vương quả đã trúng kế, cha con Lưu Kế Nghiệp đã bị bắt, Dương Hạo không nén nổi vui sướng.

Hai ngày nay không thấy Lý Nhất Đức có động tĩnh gì, có điều hắn cũng không dám giết Trúc Vận, cũng không tiết lộ chuyện đêm đó ra ngoài, hiển nhiên là đang quan sát thái độ, cũng không muốn tự cắt đứt con đường lui của mình. Đến nay Lưu Kế Nghiệp đã bị bắt, gia đình Lý gia trong thành có bao nhiêu người, Lý Nhất Đức không thể không biết, đối với Khánh Vương cũng càng ngày càng có thêm ý xa cách. Có điều muốn hắn đi vào khuôn khổ cũng không dễ dàng, nước yếu không ngoại gi­ao, thì phải xem có bao nhiêu tiền mới có thể nói đến chuyện thành công. Hiện nay đánh hay không đánh là việc Lý Nhất Đức đau đầu mãi, sau mới nghĩ đến việc hợp tác.

Dương Hạo quyết định, hôm nay sẽ dốc toàn bộ sức lực, hung hăng đánh một trận xem sao!

Tấn công thành, xưa nay vốn được coi là chiếm căn cứ địa lợi, mỗi lần công thành là phải bỏ ra sức người và sức của tương đối lớn. Nhưng về mặt thủ thành mà nói thì tuy là chiếm được ưu thế trong toàn cục, nhưng đã hình thành nên cục diện vây thành, nếu nói công thành là chủ động trên chiến trường thì chiến đấu hay không chiến đấu là một trong những mặt của công thành. Do đó, trừ phi lương thực trong thành đã cạn, hoặc giả bên giữ thành có một đội quân lớn tiếp ứng, nếu không thành trì sớm muộn cũng có ngày bị phá.

Về điểm này, Lý Nhất Đức cũng hiểu rất rõ rằng sở dĩ hắn đứng về phe Khánh Vương, một mặt là do việc Khánh Vương chiếm thành đã thành sự thực, quân của hắn đã khống chế được thành Ngân Châu, thế lực của Lý Nhất Đức dù to nhưng cũng hông thể phản kháng lại được; mặt khác, đại đa số quân trong thành đều là nhân mã của người Khiết Đan, người Khiết Đan sau khi phá thành đã thiêu sát và đánh cướp toàn thành, thành không còn được thịnh vượng như xưa nữa. Khánh Vương đã lấy Ngân Châu làm nền móng, do đó hắn coi mối họa từ người dân ở thành Ngân Châu không là gì so với những mối họa mà người dân Khiết Đan gây ra, do đó Lý Nhất Đức đánh người Khiết Đan đã lâu lại tự nhiên rơi vào ảo tưởng, nửa muốn nửa không gia nhập vào đội ngũ của Khánh Vương.

Nhưng những lời nói của Trúc Vận đã khiến hắn phải suy nghĩ, Trúc Vận võ công xuất quỷ nhập thần hắn không để ý, từ cổ chí kim còn rất nhiều người công phu giỏi hơn cô ta gấp nhiều lần, nhưng tác dụng lại có hạn. Cứ cho là Trúc Vận giết được hắn thì cũng không thể diệt hết được cả họ nhà Lý. Song chỉ cần một nhánh quân võ công còn không bằng Trúc Vận muốn hủy diệt cả gia tộc họ Lý, san bằng cả Ngân Châu này thành bình địa thì lại không phải là chuyện khó khăn gì.

Những phân tích của Trúc Vận là đúng, dẫu cho hắn có thể dẫn binh sang tận Khiết Đan thì chỉ cần Khánh Vương còn ở đây một ngày, quân Khiết Đan quyết không an lòng, sớm muộn cũng sẽ dẫn binh sang đánh. Một khi quân Khiết Đan đã tiến vào thì chư hầu Tây Bắc trong đó có cả Ngân Châu sẽ bị đánh cho tan tác, với thế lực của Khiết Đan thì việc tiến vào Tây Bắc không có gì là khó. Dân chúng sẽ gặp nạn, bất kể là bị cướp Ngân Châu hay Phủ Châu, Lô Châu… thì cũng chỉ cần diệt trừ Khánh Vương là xong, tránh cho người Khiết Đan tiến sâu vào.

Lý Nhất Đức càng nghĩ càng bất an, lòng hắn cuối cùng đã bị dao động. Khi quân ngoài thành lại chuẩn bị tấn công, Lý Nhất Đức đã không còn ngồi yên được nữa. Hắn thay quần áo, cùng với vài nhân vật chủ chốt khác trong tộc lặng lẽ tiến về phía Nam thành.

Ở nam thành, người chỉ huy đã từng tu sửa thành cho Khánh Vương chính là đệ tử của họ Lý ở Ngân Châu, chính mắt hắn trông thấy đại quân ở ngoài thành đang tập kết, lập tức chỉ huy tất cả vận chuyển đá và cây, gỗ tới để đốt lửa, nấu một nồi dầu sôi, lấy từ trong kho của phủ Ngân Châu ra một đống mũi tên, cứ cách mười bước lại đặt một hộp, mở nắp đậy ra thấy mũi tên sáng loáng…

Trong lúc đang khẩn trương bận rộn như vậy, một tên dân thường vội vã chạy lại nói vài câu gì đó vào tai hắn. Lý chỉ huy kinh hoàng ngạc nhiên, hắn ngẩng đầu thấy chỉ huy Dương Đan Mặc đứng gần đó đang không chú ý gì tới hắn, bèn lập tức quay người men theo đường thành chạy đi.

“Lão gia, làm sao mà ngài lại tới thế?” Lý chỉ huy chạy tới trước mặt một người mang bồng địa, vội vàng hỏi.

Người đó cởi mũ ra, để lộ khuôn mặt sắc như đồng, chòm râu bạc, không ai khác, chính là Lý Nhất Đức của họ Lý Ngân Châu.

Lý Nhất Đức mỉm cười, nói: “Lão phu lên thành xem xem”.

Lý chỉ huy kinh ngạc nói: “Không được đâu, quân Lô Châu có vũ khí tấn công hết sức lợi hại, bọn chúng có một khối lượng lớn mũi tên và đá tảng, khi chiến đấu thì binh đao không có mắt, không thể bảo vệ cho ngài. Ngộ nhỡ bị thương…”

Lý Nhất Đức thản nhiên nói: “Đi sắp xếp xem sao”.

Lý Nhất Đức trước nay đều nói một là một hai là hai trước mặt họ Lý, Lý chỉ huy biết là không khuyên được nên đành chỉ biết quay người phi như bay lên thành, không đầy một lúc sau, hắn dẫn theo vài tên lính, đổi quần áo cho Lý Nhất Đức rồi lên thành.

Công thành, nếu như có trong ứng ngoài hợp, thì việc đánh lén hoặc đánh tập kích là điều rất dễ dàng. Đầu tiên thường là vứt đá to, dùng cung tên đánh làm hỏng thành, giết quân địch, đợi đến khi dùng thang phá thành thì cũng là lúc thảm khốc nhất rồi.

Hôm nay trước khi lâm trận, Gia Luật Tà Xuyên đang tấn công ở phía Đông thành. Gia Luật Tà Xuyên dán đầy yết thị trong thành, toàn bộ là chữ Khiết Đan, trong yết thị viết rõ thị uy những quân lính đào ngủ, những ai đào ngũ sẽ xử nặng không tha. Nếu không, ngày phá thành sẽ là ngày dân trong thành bị tàn sát một loạt, khắp thành không có dấu một người Khiết Đan.

Mà Dương Hạo đã dẹp được rất nhiều chướng ngại trước doanh trại, tập hợp các loại vũ khí tấn công loại lớn, dàn thành hàng chỉnh tề, mỗi hàng lại có một máy bắn đá cỡ lớn, tất cả đều có trật tự, bắt đầu tấn công theo cách hoàn toàn khác so với vài ngày trước. Hai bên vẫn chưa gi­ao đấu mà một màn không khí giết chóc đã bao phủ cả chiến trường, quân giữ thành dường như cũng cảm thấy điều gì đó, đột nhiên đều đứng lên.

Lý Nhất Đức giả trang thành một tên lính đứng sau Lý chỉ huy, nhìn rõ mặt trận của Lô Châu, chỉ thấy ngọn cờ của Dương Hạo bay phấp phới, hàng lối chỉnh tề, gươm đao sáng loáng, trong lúc hành quân vừa đi vừa tự nói: “Huấn luyện hữu tố, đoàn quân chỉnh tề như vậy, ta chỉ nhìn thấy ba nghìn quân tinh nhuệ của Lý Quang Nghiễm. Ở dưới thành có mười sáu phương trận, sợ rằng không dùng năm nghìn quân ư?”

Lý Nhất Đức nhíu đôi lông mày, nhìn về phía xa, chỉ thấy phía sau doanh trại quân Lô Châu khói bụi đầy lên, một đoàn nhân mã đang xông vào, lờ mờ không nhìn rõ bao nhiêu người, Lý Nhất Đức không khỏi biến sắc: “Lô Châu còn có thêm binh ư?”

“Đi!”

Dương Hạo vừa thúc ngựa vừa tiến lên phía trước.

Dưới trướng hai trăm lính mặc áo giáp giống như một ngọn núi sắt đang di chuyển về phía trước, trong tay là những mũi thương dài nhọn hoắt, như núi, như rừng, đội quân này tuy không phải là quân chủ lực nhưng cũng khiến cho toàn thành dâng lên sát khí ngùn ngụt.

“Tiểu Lục, Thiết Ngưu”

“Có mạt tướng!”

“Dùng đá trước, hủy lớp phòng vệ của địch, sau đó dùng cung tên, bắn chết quân thủ thành”.

“Mạt tướng tuân lệnh!” Hai người đồng thanh đáp rồi rời đi.

“Mộc Ân, Mộc Khôi”.

“Có mạt tướng”.

“Ta đưa cho ngươi hai người và hai nghìn binh mã, thang sáu mươi cái, xe mười cỗ, xe đụng hai cỗ, cầu gấp, phiên gỗ… dùng luân phiên đánh thành, không để cho quân địch có cơ hội ngơi nghỉ, hôm nay nhất định quân Lô Châu của chúng ta phải chiếm được thế thượng phong, nếu không phá được thành cũng phải khiến chúng tan tác”.

“Mạt tướng xin tuân lệnh”.

“Kha Ác, Mục Vũ”

“Mạt tướng có mặt”.

“Bản soái cho ngươi hỏa tiễn một vạn cây, độc tiễn một vạn mũi, pháo năm nghìn cây, xe dương trần ba mươi cỗ, thuốc nổ hai thùng, dầu hỏa mười thùng, khi nào Mộc Ân Mộc Khôi tấn công thành ngươi hãy trợ giúp, đồng thời phá hủy tường thành”.

“Mạt tướng tuân lệnh!”

“Quay lại!”

Dương Hạo gọi hai người đó lại, cười cười nói: “Kha tướng quân, nếu như vào lúc sinh tử quan trọng, chủ tướng đứng trước sĩ xe thì sẽ không phải là khích lệ tinh thần ba quân nữa, mà là tận tâm làm hết trách nhiệm, rõ chưa?”

Kha Trấn Ác thẹn thùng nói: “Mạt tướng đã rõ.”

“Tốt lắm, các ngươi đi đi. Chú ý phải tiếp cận khu vực phía Tây thành, khu vực thành đó mặt trời ít chiếu tới, gạch ở đó bị ẩm ướt, ở bên dưới lại có chứa nhiều dầu thô, dùng lửa châm vào nhất định sẽ bùng cháy”.

“Tuân lệnh!” Mục Vũ cười đáp, đi mất.

Dương Hạo đã nhiều ngày quan sát và tìm ra chiến thuật đánh thành, hai ngày nay khi tiến công hắn đã tận mắt được thao luyện, đối với những chiến thuật này hắn đã thuộc lòng, hôm nay cuối cùng đã được tự mình thao luyện.

Chiết Tử Du và Chiết Duy đang song hành hai bên trái phải của hắn, Chiết T ử Du hai ngày nay cứ cảm thấy Dương Hạo có gì kỳ quái, biết rõ là hắn tất phải có dụng ý gì đó, nhưng nàng không biết rằng dụng ý của Dương Hạo là gì, nên điều này khiến nàng cứ nôn nóng không yên. Nhưng với tính cách rụt rè của mình, Dương Hạo không nói thì nàng cũng không dám mở miệng, nàng chỉ dám rụt rè hỏi: “Dương thái úy, giờ chúng ta làm gì đây?”

Dương Hạo mỉm cười nói: “Giờ chúng ta sẽ ở đây quan sát thế trận của địch”.

Hán chỉ tay ra phía trước, trận đại chiến đã bắt đầu rồi…

Lá cờ lớn lay động, khói lửa bay lên như mây, tiếng kim khí vang lên, sát khí nổi lên như sóng trào.

Lý Nhất Đức thấy mũi tên bay đến như mưa cũng vội lùi ra xa quan sát, những tảng đá lớn đã bắt đầu dội lên, đá vụn hất lên mặt đau nhói, dù cho họ có nhanh thế nào thì cũng vẫn bị khói hun lên làm cay xè mắt, khói độc lan ra, mắt ai nấy đều sưng lên, nước mắt chảy ra không ngừng, cổ họng vừa đau vừa nhức, Lý chỉ huy phải phái người đi cầm khăn mặt lại, khuyên Lý Nhất Đức nên lùi xuống nhưng hắn nhất định không chịu, do chiến sự đang bận rộn, Lý chỉ huy cũng không buồn khuyên giải nhiều, chỉ vội vàng chạy đến trước hai hàng quân.

Xe dương trần tiến đến làm bụi bay mù mịt, che lấp cả trời. Mũi tên độc, hỏa tiễn rơi xuống như mưa, bắn đến mức cả thành đến đâu cũng không thể hít thở được, đặc biệt là khói thuốc, đánh đến đâu cũng bị dính vào đến đấy, không khí nồng nặc khiến không thể thở được, việc xử lý hết sức khó khăn, chỉ có thể dùng cát để chôn.

Ngay sau đó, một cỗ xe khác lại tiến lên thành, người đông như kiến, mũi tên lao xuống như mưa, trên thành đâu đâu cũng nghe thấy tiếng gươm, đá tảng lăn, dầu sôi bốc lên, những tiếng kêu thảm thiết vang lên, từng mũi tên đi lạc nhanh chóng cướp đi sinh mạng của những tên lính trong thành.

Thỉnh thoảng lại có người xông lên thành, rồi lại thục mạng quay lại, những người sau lưng không ngại đạp trên những xác chết xông tới, máu tung bốn bề, những hòn đá to lăn nát trên hàng trăm xác binh sĩ, có người toàn thân bốc cháy như một ngọn đuốc, dơ cánh tay lên kêu cứu trong tuyệt vọng; có người bị xe đè xuyên áo giáp, ngọn thương trong tay còn chưa kịp đâm ai, tiếng kêu thảm thiết vọng khắp bốn bề.

Mỗi người lại sắm vai nhân vật bị thần chết giết, rồi lại sắm vai bị người khác hại chết. Nhưng họ không có một giây phút nào do dự, là một chiến sĩ, sinh mạng của họ vốn cũng là vì giây phút huy hoàng này.

Đại chiến cứ thế tiếp tục, đã quá trưa, Dương Hạo vẫn cứ đứng im bất động quan sát trận chiến, trên mặt vẫn nở một nụ cười không đổi từ đầu đến cuối. Thực ra nhìn thấy những chiến sĩ trước mặt bị đổ máu và nước mắt, trong lòng hắn cũng rất đau, nhưng đã đến được ngày hôm nay thì hắn cũng không còn có đường lui, chỉ có thể tiến về phía trước. Nếu như muốn hắn chọn thì hắn chỉ có thể ép bản thân mình phải là động vật máu lạnh.

Hắn chỉ mới là bắt đầu, từ nay về sau hắn còn phải trải qua nhiều đau khổ và tàn khốc, nếu như có thể dùng giây phút này để đổi lấy cái hòa bình lâu dài sau này thì cũng là xứng đáng. Để có được cái lâu dài, hắn cần phải tin tưởng, bất kể là một nước hay một gia đình thì khi vận đã tới thì phải phất cờ dậy, vận mà đã đi thì cũng hết. Vận khí này có liên quan tới quỷ thần thiên địa, nhưng nó không tự nhiên rơi xuống, thế gi­an cũng trải qua vài vòng luân hồi, vĩnh viễn không thể dừng lại…

“Ầm!”

Phía tây thành vang lên một tiếng nổ lớn, đó chính là tiếng nổ. Tiếng nổ làm kinh động hết thảy mọi người.

Do phía Tây thành mặt trời không chiếu đến, lại bị ngập trong nước nên thường ở trong trạng thái ẩm ướt, bị mồi lửa trong động thiêu cho một mồi là cả thành đều bị hủy, cả bức tường thành kiên cố đã nhanh chóng bị phá hủy. Lúc này đây thành bị thuốc nổ công phá, tạo ra hiệu quả kinh động, chỉ ht ấy một màn khói đen nổi lên như mây, vô số những tảng đá bay trong không trung, văng ra tứ phía.

Do mặt này của thành bị đốt nên quân trong thành không đủ, giảm đi thì không có người tấn công thành, số lượng thương binh tuy không nhiều nhưng cả thành cũng nhanh chóng bị hư hỏng nặng nề. Thành tuy cao năm trượng, rộng tám trượng, đỉnh rộng sáu trượng nhưng lối kiến trúc của thành vừa nặng vừa yếu, tuy một mồi lửa lớn chỉ đủ phát huy tác dụng khiến thành bị hư hỏng nặng nề chứ không thể hoàn toàn đánh sập, nhưng điều đó cũng đã làm tăng thêm lòng tin của quân lính là không gì không thể.

Mộc Ân vừa mới lùi khỏi trận chiến đi về sau để nghỉ ngơi. Vừa dùng máy ném đá để làm tăng hiệu quả, dùng xe bắn tên, vừa tổ chức đánh phá vào khu vực thành bị phá hủy.

Đá tảng, cung tên, hỏa tiễn bay đầy trong không gi­an, gây cho quân giữ thành không ít rắc rối, nhưng chỗ thành bị hư hại đều là gạch nên muốn nhanh chóng leo lên cũng gặp không ít khó khăn, quân giữ thành bên trái và bên phải dùng đá và cung tên đánh, dùng hỏa lực mạnh để ngăn chặn quân Lô Châu tiếp cận. Một mặt tổ chức lực lượng đi tu sửa chỗ hỏng, rất nhiều dân trong thành đã bị quân Khiết Đan hù dọa sợ hãi, đã sớm chuẩn bị ngừng chiến ra hàng. Tất cả những điều này đều đã được Lưu Kế Nghiệp dự tính, tuy nay hắn đã ngồi trong tù nhưng những chuẩn bị của hắn vẫn còn hữu dụng.

Ngoài thành, những binh lính cũng mặc kệ là dân thường hay dân phụ, cứ đứng trên chiến trường thì là địch, mũi tên cũng không do dự mà lao đi vun vút, rất nhiều người bị đánh gục, đến mang binh lính đi sửa chỗ thành bị phá cũng khó khăn, dần dần đoạn thành bị hư hỏng đó cũng bị san phẳng.

Để tu sửa chỗ tường thành đó, năm trăm người đã bỏ mạng, hơn nữa tính kiên cố của nó cũng có hạn, trên thành quân phòng ngự cũng nhanh chóng bị đánh, việc giữ thành không đạt được mấy hiệu quả, rất nhanh chóng trở thành mục tiêu tấn công chính của quân Lô Châu, quân Lô Châu còn đã chuẩn bị rất nhiều vũ khí lợi hại để tiện bề di chuyển.

Lúc này, mặt trời đã ngả về Tây, một sắc màu ảm đạm phủ lên trên thành.

“Tiết soái, mau thắp đèn lên đi thôi!” Mộc Khôi vừa lui ra sau nghỉ ngơi đã đứng ra chỉ huy, bên vai trái hắn bị thương đang quấn băng, vội vàng chạy tới chỗ Dương Hạo xin lệnh.

Dương Hạo yên lặng quan sát chiến trận, trong lòng không yên, hồi lâu sau hắn mới lắc đầu, nói: “Thu binh”.

Mộc Khôi kinh ngạc, lớn tiếng hỏi: “Thu binh?”

Dương Hạo lạnh lùng nhìn hắn, lãnh đạm nói: “Không nghe thấy lệnh của ta hay sao?”

Mộc Khôi ngẩn ra, rồi quay đầu hét lớn: “Thu binh, thu binh!”

Bọn lính rút nhanh như nước thủy triều, những tiếng chém giết cũng im bặt, chiến trận đột nhiên yên ắng lạ thường, rất nhiều binh sĩ lúc này mới chợt nhận ra rằng đến lúc này họ đã không còn chút sức lực nào nữa, họ nhanh chóng quay đầu về trại.

Trên thành, đâu đâu cũng chỉ thấy xác người và máu tươi, một vài xác chết còn bị treo ngược trên thành, hoặc nửa treo nửa bị đâm, tổn hại vô cùng, cầu, xe vẫn còn đang bốc cháy, nơi đây quả là vừa trải qua một trận đánh khốc liệt.

“Lão gia, chúng ta có cần trở về hay không?”

Một người họ Lý vẫn chưa lấy lại được bình tĩnh nhìn Lý Nhất Đức đầy thăm dò, bọn họ đứng đó lâu quá rồi, nếu như không sớm quay về thì e rằng sẽ bị nguy hiểm mất.

Lý Nhất Đức không nói một lời, quay người bỏ đi. Hắn đạp trên rất nhiều xác chết, vừa đi vừa ngó xung quanh, chỉ thấy đâu đâu cũng là xác những binh lính bị vứt xuống dưới thành, rất nhiều bách tính liều mạng giữ thành đang rên la đau đớn, cũng rất nhiều người thấy cảnh này đều phải thất kinh không chút biểu cảm, hồn xiêu phách tán, ai nấy đều mệt mỏi rã rời.

Hắn chậm rãi cúi đầu, trầm giọng nói: “Về thôi, gọi tất cả những người chủ chốt trong họ đến gặp ta có chuyện”.

Quân Lô Châu bắt đầu dựng trại lại từ đầu, trong trại đầy khói, đây chính là chỗ bọn họ ở…

Dương Hạo phái một vài người đi về phía trại của Gia Luật Tà Xuyên, hỏi bọn họ kết quả trận đánh hôm nay thế nào, sau đó mới quay về trại thăm hỏi các anh em chiến sĩ, Chiết Tử Du đi theo sát sau hắn, lặng lẽ ngắm nhìn dáng người trầm lặng của Dương Hạo. Đôi mắt nàng đượm nỗi hoang mang, đột nhiên, nàng tiến lên rất nhanh, đuổi theo hắn, nhẹ nhàng hỏi: “Chàng khó chịu lắm phải không? Trên chiến trường…”

“Ta hiểu”.

Dương Hạo ngắt lời nàng, lặng lẽ đi vài bước, rồi đột nhiên dừng lại, quay đầu cười với Chiết Tử Du, nói nhỏ: “Thực sự ta hiểu mà…”

Nắng chiều chiếu thẳng vào mắt hắn, khiến đôi mắt ấy như sáng lung linh, và phản chiếu một màu như màu huyết…

Chương 433: Bẫy thành

“Trúc vận cô nương”

Vừa thấy bóng Trúc Vận, Lý Nhất Đức nở nụ cười, lớn giọng nói: “Cô nương luôn xuất hiện đúng lúc, lão phu đợi đã lâu rồi”.

Trúc Vận nhìn Lý Nhất Đức khoanh tay, tựa người vào nghế, đám võ sĩ bên cạnh trông rất hung mãnh, thản nhiên nói: “Lão gia tử nghĩ sao?”

Lý Nhất Đức nhìn Trúc Vận vẻ nghi hoặc, trầm giọng nói: “Lão phu muốn biết, nếu lão phu có thể giúp Dương thái úy một tay, Dương thái úy có thể bảo đảm được gì với lão phu chứ? Lão phu sao có thể đủ tin rằng, Dương thái úy có thể khống chế được nhân mã Khiết Đan, sau khi vào thành sẽ khống chế được loạn binh đánh chém đốt thành, hại bách tính Ngân Châu ta?”

Trúc Vận nghe hắn nói vậy, mừng thầm, mặt bình tĩnh, giơ ngón tay cái lên nói: “Lão gia tử có tấm lòng sáng như gương, luôn lo lắng cho sự an nguy của bách tính Ngân Châu. Còn về nghĩa thiện của Dương thái úy thì lão gia tử cứ yên tâm. Không chỉ Ngân Châu, Lô Châu cũng vậy, đều là cờ hiệu của Đại Tống, ở lãnh thổ này, ai dám làm chuyện ngu xuẩn đây?

Hơn nữa, Lý Quang Duệ bất lực tạo phúc cho Ngân Châu, để nó rơi vào tay phản tặc Khiết Đan, thái úy nhà ta một khi lấy được Ngân Châu, sẽ chắp tay dâng nó cho Lý Quang Duệ sao? Đương nhiên là không có chuyện đó rồi, về sau Ngân Châu này là của thái úy nhà ta, nếu Ngân Châu trở thành một tòa thành chết, thì lấy về có ích gì? Thái úy nhà ta có tâm tư riêng, thực tế ra, chỉ cần lão gia tử giúp thái úy nhà ta đoạt được Ngân Châu, thái úy nhà ta sẽ tận tâm bảo toàn Ngân Châu”.

Lý Nhất Đức không hề động đậy, tỉnh táo nói: “Đạo lý là đạo lý, nhưng thành trì một khi bị phá, binh lính Khiết Đan sẽ làm được gì nữa, ta rất hiểu, không cần nói Dương thái úy, dù là Khiết Đan Nam viện Đại Vương Da Luật Tà Đặc cầm kiếm đích thân đứng ở đầu thành thúc binh cũng không thể kìm được mãnh hổ”.

Trúc Vận giơ ngón tay ra, khẽ lắc lư, cười nói: “Lão gia tử chỉ biết một mà không biết hai, quá ư sốt ruột, Trúc Vận còn chưa nói xong đấy chứ. Thái úy nhà ta chắc hắn sẽ không để Ngân Châu rơi vào tay binh Khiết Đan, bảo toàn được sự an nguy của dân chúng, là vì…nếu như lão gia tử giúp đại nhân nhà ta một tay, tham gia cuộc chiến chiếm thành, đại nhân nhà ta sẽ không để cho người Khiết Đan nhúng tay vào”.

“Ý ngươi là…Lô Châu tự lực hoàn thành?”

“Đúng vậy, đánh úp ban đêm thành Ngân Châu, do quân Lô Châu ta tự thực hiện. Đợi đến khi người Khiết Đan phát hiện ra điểm khác thường, đầu thành Ngân Châu đã lay động chủ soái của thái úy nhà ta rồi, sứ mệnh của Da Luật Tà Thuyên là Khánh Vương Da Luật Thịnh tạo phản, không phải là đoạt thành Ngân Châu với thái úy nhà ta, nếu như chúng ta gi­ao đầu của Da Luật Thịnh, hắn có dám chắc chắn đoạt được Ngân Châu, mà trở mặt với thái úy nhà ta? Nếu như chúng ta thiết kế nó tuyệt một chút, chỉ đuổi Khánh Vương mà không giết, ngươi nói xem Da Luật Tà Thâu/Du sẽ đến đoạt thành hay là đi đuổi theo Da Luật Thịnh đây?”

Lý Nhất Đức chau mày, nói: “Dựa vào nhân mã các người có thể đoạt được trước khi người Khiết Đan tỉnh ngộ rồi tăng tốc khống chế được toàn thành Ngân Châu, có thể hay không? Hôm nay đội quân Lô Châu công thành, lão phu từng nhìn về phía đầu thành, thấy bụi đất bay tung lên sau quân doanh ngươi, đại quân đi lại không biết mệt mỏi, lúc đầu cũng cứ nghĩ rằng các ngươi có viện binh đến, nghĩ lại cho cẩn thận, thì có rất nhiều điểm nghi vấn. Lô Châu không có nhiều binh mã như thế, nếu như là hai thế lực Chiết Dương cho thái úy vay binh, đại quân nhân mã đường dài đánh chớp nhoáng, thanh thế mở rộng cũng không thể dấu được tai mắt Khánh Vương. Các ngươi sẽ không nghĩ rằng Khánh Vương có gián điệp ở khu Hoành Sơn sao?”

Trúc Vận mỉm cười nói: “Sau doanh trại có binh tập luyện đó chính là kế nghi binh. Khánh Vương nhìn thấy như vậy , ở chỗ cao thấy rõ sơ hở. Ngay cả hắn không có mật thám thì cũng không dấu nổi hắn, lại còn làm khó lão gia tử, chỉ căn cứ vào điểm này mà phân tích, thì biết rõ mánh khóe này, thủ đoạn này tuy không qua mắt được Khánh Vương song cũng không dấu được lão gia tử, cần giấu cho sĩ binh và dân chúng mà thôi. Sĩ khí của họ sẽ dư thừa rất nhiều”.

Lý Nhất Đức trầm giọng nói: “Đã là như vậy, các ngươi đoạt thành binh mã sẽ như thế nào đến được? Dựa vào năm bảy nghìn binh ở trong doanh các người sao? Cần biết rằng một khi đêm tối vào thành, là một bãi hỗn chiến, trong cái bóng đêm đen thui ấy, đầu đường cuối hẻm, đánh cho nát vụn thây, sự chuẩn bị lương thực, quân kỷ nghiêm minh, chỉ đạo thống binh cũng chả có ích gì, căn bản là binh lực không nhiều, các ngươi làm như thế, vào thành tứ hạ nhất phân, chớ nói đến khống chế được cả thành, không bị Khánh Vương nuốt gọn mới là lạ”.

Trúc Vận hừ nhẹ lại nói tiếp: “Nếu như thái úy nhà ta còn đủ binh lực thì có thể bảo đảm tốc chiến lấy thế áp đảo khống chế được toàn thành không?”

Lý Nhất Đức phản bác: “Dựa vào vũ khí công thành và lương thực ở Lô Châu, nếu như có thể chế ngự được binh lực toàn thành, cuộc chiến sẽ oanh liệt sao? Tại sao đến giờ vẫn không dùng chứ?”

Trúc Vận nói: “Sỹ binh cũng phải dẫm được hai chân của mình lên vùng đất rắn chắc thì mới có thể áo dụng lực lượng của hắn; Ngựa khỏe là con mà một ngày chạy được cả nghìn dặm, nếu như vướng phải đất bùn, hồ ao thì đương nhiên không phát huy được tốc độ. Lão gia tử nên biết rằng, tướng sĩ chưa bao giờ thực hành công thành, người có nhiều thì cũng sẽ đi đến chỗ chết, Khiết Đan có năm vạn thiết kỵ dũng mãnh, đến từ lục viện bộ tinh nhuệ nhất, tung hoành thảo nguyên, nhưng ở dưới thành Ngân Châu, biểu hiện của họ sao có thể so sánh được với binh mã Lô Châu ta. Binh cần phải có phương pháp đi kèm, ngươi nói có đúng không?”

Lý Nhất Đức lộ ánh mắt nghi ngờ, hắn hơi đổ người về phía trước, chậm rãi nói: “Thế…đại quân rốt cuộc là từ đâu?”

Trúc Vận mỉm cười nói: “Tiểu nữ tử đã nói đủ rồi, lão gia tử bảo ta phải làm gì để tin thành ý của ngươi đây?”

Lý Nhất Đức ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm Trúc Vận, trầm giọng nói: “Người đâu, mang Cửu Vĩ ra đây cho lão phu”. Lập tức có một người bước ra.

Lý Nhất Đức nói: “Lão phu gi­ao cho ngươi đứa cháu đích tôn Trưởng Phòng làm con tin, thành ý này, đủ chưa?”

Lúc này tuy rằng Dương Hạo có mong được Lý Nhất Đức giúp đỡ, nhưng một khi phá thành, thì lại là Lý Nhất Đức nhờ vả Dương Hạo, Lý Nhất Đức đương nhiên không dám cho rằng mình quá mạnh.

Hơn nữa, Tây Bắc dân nghèo quá nhiều, dù có tiền có quyền, song binh thì lại không tập trung được đúng lúc, mà Lý gia không thể vựng dậy lũ con cháu.

Trúc Vận nghiêm nghị nói: “Lão gia tử có thành ý này, đương nhiên là đủ rồi”.

Lý Nhất Đức nói: “Tin rằng Trúc Vận cô nương sớm đã nghe ngóng được tin tức của Lý gia ta, cháu ruột của lão phu Trưởng Phòng hôm nay chỉ có một, nhìn kỹ sẽ là một hạt minh châu, nếu Dương thái úy có đại quân vậy, đủ để chế ngự được toàn thành thì lão phu sẽ hợp tác với họ”.

Đang nói, một người con gái chừng hai lăm hai sáu tuổi dắt một đứa nhỏ tầm tám tuổi vào trong phòng, đứa trẻ đó mắt vẫn còn lim dim buồn ngủ.

Trúc Vận đang nghe ngóng tin tức, ánh mắt lập tức dừng lại ở đứa bé. Đứa bé bày là Cửu Vĩ cháu trưởng của Lý Nhất Đức.

Vừa thấy Lý Nhất Đức, người phụ nữ đó bèn thấp người thi lễ: “Cha”. Đứa bé thì vung tay ra khỏi tay mẹ nó, chạy đến bên gọi “Ông nội”.

“Cháu ngoan”. Lý Nhất Đức mỉm cười ôm lấy đứa cháu, nói: “Cháu ngoan của ta, Lý gia ta gặp phải phiền phức lớn, ông cần phải liên kết với một bộ lạc lớn, và họ muốn ông lấy ra một bảo bối quý trọng nhất để làm con tin, và vật bảo bối quý trọng ấy chính là đứa cháu ngoan của ta, cháu có dám làm con tin cho Lý gia ta không?”

Đứa bé có tóc trái đào, bím tóc đế hai bên, khá giống với người Hồ tây vực, nhìn bề ngoài, dũng mãnh, mày rậm mắt to, có nét giống với Lý Nhất Đức, Lý Nhất Đức vừa hỏi, nó không hề chần chừ, lớn tiếng nói: “Cháu dám”.

“A”. Người phụ nữ xinh đẹp kêu lên một tiếng, rồi vội vàng bịt miệng lại, mắt lộ vẻ lo lắng, nhưng quy định của Lý gia rất nghiêm, trường hợp này không có người đàn bà chen miệng vào, dù người tham gia là con trai mình, phụ nữ nhìn bố chồng với ánh mắt cầu khẩn, song không dám nói thêm lời nào.

Lý Nhất Đức vuốt tóc đứa cháu, cười nói: “Cửu Vĩ à, nếu như ông nội không tin tưởng người ta, họ sẽ lấy cái đầu của cháu, cháu cũng không sợ ư?”

Cửu Vĩ ngây thơ nói: “Không sợ, ông từng nói, không sợ thì mới xứng là đấng nam nhi, sợ chết thì không còn là người của Lý gia ta rồi”.

Lý Nhất Đức cười lớn, khen: “Ngoan quá, cháu tôi ngoan quá, đây mới là hạt giống của Lý gia ta chứ, ha ha ha…”

Hắn chỉ về phía Trúc Vận vỗ vào mông đứa trẻ, nói: “Đi đi, nghe lời tỷ tỷ nhé, chẳng bao lâu, ông sẽ đến đón cháu về”.

Trúc Vận mặt giãn ra cười nói: “Tiểu đệ đệ, lại đây nào”.

Cửu Vĩ quay đầu lại nhìn ông, Lý Nhất Đức nói: “Đi đi”.

Đứa trẻ đó nhảy xuống khỏi đùi ông, chạy nhanh tới mặt Trúc Vận,lớn tiếng nói: “Ngươi muốn giết thì giết đi, nam nhi Lý gia ta chẳng có gì sợ chết hết”.

Trúc Vận bật cười nói: “Tiểu đệ đệ tức giận rất đáng yêu, tỷ tỷ rất quý ngươi, sao có thể giết đệ được chứ. Đệ tên là Cửu Vĩ đúng không? Tên rất hay, lại đây nào, qua chỗ tỷ tỷ đi nào”.

Trúc Vận cười hì hì vẻ khách khí, đặt tay lên vai Cửu Vĩ. Ngón tay thon dài, các ngón tay như hoa. Đôi bàn tay ấy khiến bao chàng trai phải si mê.

Tay Trúc Vận khẽ đặt lên vai Cửu Vĩ, rồi mới thản nhiên cười: “Bí mật này sau khi thành phá, và không phải bí mật gì, nhưng giờ người biết lại không nên quá nhiều, ngoài tiểu huynh đệ này ra, lão gia tử có thể để cho người khác rút khỏi sao?”

Lý Nhất Đức không hề chần chừ, vỗ tay, hai võ sĩ đứng bên cạnh lui ra ngoài, người phụ nữ xinh đẹp lo lắng nhìn đứa con, mở miệng muốn nói gì, song chỉ thở dài, lặng lẽ thi lễ rồi khẽ lui ra ngoài.

*******

Sáng sớm ngày thứ hai, Dương Hạo lại hướng tới chỗ tập kết dưới thành, hai mặt đông, bắc, Da Luật Tà Khinh cũng rất ăn ý chỉ huy quân tới tấn công, như trận đại chiến hôm qua cũng đã nổ ra rồi.

Sân Lý gia lúc này bận rộn không thua gì soái trướng trong quân của Khánh Vương, những nhân vật quan trọng đi ra ra vào vào, liên tục có người nhận lệnh đi, rồi lặng lẽ được điều động, quân sĩ, dân tráng khắp thành chạy đi chạy lại.

Phụ trách đánh úp đoạt thành, ám sát chỗ ở Khánh Vương, dấy lửa nổ ra khắp bốn phía tạo thành thế còn có một sứ mệnh đặc biệt, chế ngự được tính mạng cha con Lưu Kế Nghiệp đều là tuộc hạ của mình điều động, khua chiêng gõ mõ sắp xếp.

Còn Dương Hạo cũng lấy quyền chỉ huy công thành ngày hôm nay gi­ao cho Chiết Duy Chính, bản thân hắn ở trong quân, chủ soái hắn, thân tín, trong quá trình công thành lặng lẽ nổi lên cơn sóng gió động trời.

Trời đã tối, Dương Hạo như hôm qua, vẫn tu binh, sĩ binh tinh nhuệ về doanh trại, quân tốt nhất, món ăn ngon nhất đem ra nghênh đón họ. Dương Hạo không màng đến thiệt hơn chí ít cũng có một phần ba quân được che chở, đánh nhau thì phải có người chết, phải có tổn thất, nhưng binh sĩ trải qua trận chiến khốc liệt, mỗi người đều là một thứ tài sản quý báu. Hắn có tiền có lương thực, chỉ cần có lãnh thổ của mình thì có thể mở rộng được quân đội, nhưng đội quân này là đám ô hợp, vẫn là có một dũng mãnh tác chiến, đội quân có hiệu lệnh truyền thống tốt đẹp, trọng trách lần này cần có vài lão binh.

Thủ quân trong thành cũng đã cố gắng hết sức một ngày đại chiến, Dương Đan Mặc toàn thân lấm lét nhễ nhại mồ hôi, đến áo giáp cũng không muốn cởi, nằm vật lên giường, cứ như hắn là người sắt vậy, một ngày bôn ba ngoài chiến trường cũng đã khiến hắn đủ mệt, cổ họng đau nhức, không cất nên lời, khác gì người câm, những món ăn ngon được bê vào, Dương Đan Mặc vẫn nằm trên giường, không muốn dậy ăn.

“Tướng quân, cơm canh đã chuẩn bị xong”. Tên đầu bếp cung kính nói.

“Để đó đi, lão tử nghỉ ngơi tí rồi hẵng ăn”. Dương Đan Mặc nhắm nghiền mắt lại, mệt mỏi không muốn nói.

“Tướng quân, cơm nóng, để lâu nguội mất ngon, hay là người dậy ăn luôn đi cho nóng”.

Tên đầu bếp ân cần nói, bưng cơm canh lên trước, Dương Đan Mặc tức giận, hoắc mắt, mắng: “Lão tử khi nào ăn chả được, không can hệ đến ngươi”.

Hắn quát lớn, toàn bộ cơm canh nghiêng rồi đổ xuống mặt, bát nước hắt vào mặt hắn, đau đến nỗi khiến hắn kêu um lên, hắn không tự chủ được nhắm mắt lại. Hắn thấy không ổn, một tay ôm lấy mặt, một tay rút đao bên hông, nhưng mắt hắn nào có thể mở được, một lưỡi đao hung hăng bổ lên cổ hắn, chiếc đầu rơi xuống, đao vẫn hung hăng bổ xuống, chém ngay vào cổ họng của tên nằm trên giường, tên đầu bếp lau máu tươi trên mặt, rồi chạy ra ngoài.

Binh lính thủ quân nghe thấy gì đó sợ hãi, vội vàng chạy vào trong lều xem, chỉ thấy một cái xác không đầu trên giường, đầu dữ dằn của Dương Đan Mặc để bên trái người hắn, sau lều có một lỗ hổng lớn, khi họ xông vào, một tên đã chạy mất tiêu qua cái lỗ hổng đó ra ngoài, hai tên sĩ binh sợ hãi, lập tức chạy đuổi theo, một tên toan chạy qua lỗ hổng đó thì một mũi tên bắn lén lao tới, cắm thẳng vào cổ hắn, tiễn sắc bén đâm xuyên qua cổ, mũi tên kề sát mắt phải của tên chạy sau, khiến hắn sợ hãi trán đổ mồ hôi, lại một mũi tên nữa bắn mạnh về phái đỉnh đầu của hắn.

Giống như viên tướng cao cấp Dương Đan Mặc bị sát hại không có nhiều, phần lớn tướng lĩnh dùng đồ không phải là đầu bếp Ngân Châu, thị vệ vào ra liên tục, không dễ đến kề bên. Dương Hạo vạch ra kế hoạch này lấy cái đầu của hắn không phải… mà là dựa vào kinh nghiệm chỉ huy chiến trận trên thực tế cấp quân quan làm chủ.

Chức vị của họ không cao, nhưng nếu không có hỗ trợ, lại cần dân tráng bình thường, mối qua lại giữa binh Ngân Châu là tốp người thuộc hạ dễ nhất, còn đám người này một khi chết đi, thì trước khi tướng tá nhận lệnh mới sẽ lập tức mất tác dụng của chỉ huy, toàn quân bị tê liệt, hiệu quả sẽ rõ rệt hơn giết một viên tướng, cũng càng dễ dàng thuận lợi.

Vào lúc này, Tiểu Dã Khả Nhi cầm đầu bốn vạn năm nghìn đội quân tinh nhuệ của Đảng Hạng Thất Thị cũng đã nhanh chóng từ nơi ẩn núp của họ đến doanh trại Dương Hạo. Bốn vạn năm nghìn tinh binh, là thực lực tiềm tàng của Dương Hạo, toàn bộ bốn vạn năm nghìn tinh binh này rất thiện chiến và dũng mãnh, nếu như để họ công thành, sợ rằng sẽ là bia đỡ đạn, nhưng kỵ binh này dùng để tác chiến sơn dã, hỗn chiến giữa đường hẻm thì lại không hề kém hơn bất cứ đội quân nào.

Dương Hạo cầm cự lại sự đau khổ, vẫn chưa dám đưa ra đội quân dự bị, một phần là vì thép tốt thì dùng làm lưỡi dao, họ dùng để công thành, tác dụng không rõ rệt, mặt khác là vì nếu như không lấy được thành Ngân Châu, không thể hình thành lên một chiến lược thọc sâu tự động tiến thối ở trên địa lý, không thể đi nhờ vả Đảng Hạng Thất Thị bí mật của hắn cho thiên hạ biết, giờ, cuối cùng dã đến lúc dùng họ rồi.

Dưới nam thành, Lý chỉ huy không quản mệt nhọc, chỉ huy toàn bộ quân sĩ tu bổ lại tường thành, đóng chặt cửa thành, cho thấy đám tinh binh Khiết Đan mệt mỏi, nhìn thấy hắn như có thêm sức mạnh, vui vẻ rút sang một bên nghỉ ngơi, họ cởi bỏ áo giáp, bỏ đao thương xuống, ngồi nhàn rỗi nhặn đá vụn ném chơi, bụng đói kêu réo lên, nuốt nước bọt ừng ực nhìn về chỗ cơm tập thể đã nấu chín, binh Ngân Châu bỗng giống như đám người điên, cầm lấy bội đao lao thẳng như mãnh hổ về phía bọn họ.

Lúc này, dân tráng đã rơi rụng ít nhiều theo sự sắp xếp có sẵn, bắt đầu ra tay với đám quân quan nhìn thẳng bọn họ. Máu sung lên, thây ngã xuống, thủ tướng nam thành Dương Đan Mặc bị giết, rất nhiều tướng tá trong quân đồng thời cũng bị thiệt mạng, binh Ngân Châu và dân tráng bỗng nhiên tạo phản, binh Khiết Đan mất đi tướng chỉ huy nên tan rã, gỗ đá chặn cửa thành bị dỡ bỏ, đầu thành có cái cầu treo, từng cây đuốc như Lưu Tinh bị người từ đầu thành phao qua, chiếu sáng vào đường vào thành.

Quân đội của Tiểu Dã Khả Nhi người như hùm cọp, ngựa như rồng, lao nhanh vào, tiếng trống đánh vang rền như sấm, tiếng hò hét nổ tung trời.

Lúc này, khắp nơi trong thành đã dấy lửa chiến tranh, Lưu Kế Nghiệp ngồi trong tù phát hiện ra mấy tên lính Khiết Đan đã ăn no uống say nằm ở cái bàn ở giữa, gáy khò khò như sấm, song vẫn thấy có gì đó khác thường, thấy tên đó luôn bị người Khiết Đan đến kêu đi hét, luôn bị sai vặt bỗng lén lút đi đến, tay cầm một lưỡi dao nhỏ, tóm lấy bím tóc của tên binh Khiết Đan như cầm cái đầu lợn, rồi lập tức đi về phía người thứ hai…

*******

Da Luật Thịnh quất ngựa chạy như điên, gió thổi tới tấp vào mặt hắn, trong bóng đêm không biết có bao nhiêu binh mã cũng quất ngựa như vậy chạy đuổi theo hắn, lòng hoảng sợ, hắn chỉ có thể nhìn thấy phía xa xa lũ người cầm đuốc như nước sông chảy cuồn cuộn đuổi theo hắn.

Bại trận lần này, bại tới mức hắn sắp giết chết Da Luật Hiền, từng giờ từng phú ngồi ghế Hoàng đế không hiểu ra sao cả. Lần đó không chuẩn bị chu toàn, nhưng đã tính đi tính lại rồi, đến cửa doanh trại có mấy tên binh sĩ chiếm lấy kế hoạch tiến vào, song có điều không thể ngờ là xuất hiện ba tên nô lệ, làm hỏng đại sự của hắn. Lần này, hắn vốn nghĩ rằng không thể sức mạnh nào phá được thành Ngân Châu, có thể kháng lại được ba năm năm với Khiết Đan, Lô Châu, mãi đến khi chúng chết, hao tổn hết sạch thì chúng mới không còn sức lực đâu mà phản nữa, và điều càng không thể mảy may nghĩ đến đó chính là đã chiếm được một nửa binh và dân tráng Ngân Châu thì bỗng nhiên chúng lại tạo phản.

Đến khi hắn ngộ ra điều đó thì khắp thành đã dấy chiến trận, tướng soái thì tìm không thấy đâu, khắp nơi chiến tranh liên miên, nơi nơi là những cái xác chết ngổn ngang, binh Ngân Châu tạo phản, dân tráng Ngân Châu tạo phản, dân chúng toàn thành loạn lạc.

Đêm tối, binh Đảng Hạng công thành như có thần tiên giúp đỡ, nhanh chóng chiếm được phủ Khánh Vương, Đông Thành, Bắc Thành, Nam Thành, binh lính xông vào thành, thời loạn đã đến.

Tình hình như thế có muốn chỉ huy thì cũng chẳng có tác dụng gì, Khánh Vương quyết định thật nhanh, lập tức chỉ huy binh, dẫn binh giết hướng tây vực, dù biết rõ Dương Hạo vây thành, cố ý để chừa lại tây vực để làm bẫy đường sống thoát chết, lcus này cũng chỉ có thể liều mình xông đến, nếu như không thể đi nữa, thì không đợi đến trời sáng, hắn có thể chết dưới lưỡi đao của một tên vô danh tiểu tốt nào đó.

Da Luật Thịnh nhổ lấy lá cờ, xông thẳng về phía tây vực, miệng hét lớn, không ít binh Khiết Đan đánh trận thấy đại kỳ Khánh Vương thì tụ tập lại, đuổi theo hắn hướng về phía tây vực, nửa đường gặp Da Luật Mặc Thạch lãnh binh phía trước tìm hắn, hai bên hợp binh lại, chạy tới phủ Khánh Vương chính là gần Ngân Châu phòng ngự sử phủ, không biết từ đâu lại giết một đội mặc giáp đen ở ngực, khăn cuốn đầu, khiến binh mã đoản đao tấm chắn, người tuy không đến năm trăm người song sát khí đằng đằng, khí thế hừng hực, xông thẳng tới đại kỳ của Da Luật Thịnh, Da Luật Mặc Thạch vội vàng phân thân binh, đích thân cực địch, giờ không biết sống chết thế nào, có bình yên mà tháo chạy hay không. Tiếng rầm rầm khua chiêng gõ mõ giống như đám lửa hủy diệt đến chỗ này.

“A” một tiếng kêu thảm, một sĩ binh phía trước bỗng ngã từ trên yên ngựa xuống, Da Luật Thịnh há hốc mồm, đoạn đường phía trước có kẻ mai phục, lúc này kỵ binh xông về phía trước liên tiếp ngã nhào từ trên ngựa xuống, chỉ nghe thấy tiếng ngựa hí vang, một người một ngựa lồm cồm bò dậy, Da Luật Thịnh hô lớn: “Phía trước có bẫy, mau chạy về phía bắc”.

Ánh lửa bập bùng trong đêm tối, Da Luật Thịnh cũng không biết được nó là con đường hay là đường đất hoang, đám người ngựa quẹo hướng bắc mà chạy, truy binh đuổi tới gần, binh mã đuổi theo như bay phi đến gần chúng, nhằm hướng Da Luật Thịnh để lấy bằng được đầu của hắn, một đám thì bắn tiễn về phía trước chúng, rõ ràng đây là kế hoạch được vạch ra chu toàn, hắn sao dễ dàng chạy cho được.

Da Luật Thịnh ghìm chiến mã nhìn về phía tây, bên đó một màn đen u tối, không biết sẽ có bao nhiêu cái bẫy chờ hắn, nhìn sang phía nam, là rừng rú, nhìn sang phía đông, khắp nơi là lửa đuốc, hắn như đứng giữa bốn mũi tên bao vây, Da Luật Thịnh tức giận, giật mạnh cương ngựa, cầm đao trong tay, hét lớn: “Thà chết trận, quyết không hàng, giết”.

“Giết, giết, giết”. Tiếng hô vàng, Da Luật Thịnh nghe rõ mồn một, trấn an lại, những binh sĩ theo hắn chạy ra thành còn khoảng nghìn người, đám nhân mã này chỉ có tham chiến và không biết chừng cái mạng sẽ không còn tồn tại nữa.

Hắn hét lớn, quất mạnh roi vào hông ngựa, quay lại nhìn đám truy binh theo hắn, binh sĩ cùng tộc và đám Hoàng đế Khiết Đan thề chết truy bắt cho hắn, mối thù không đội trời chung này người bộ tộc Bạch Cam không chút do dự đi theo hắn nguyện sống chết…

Cấp bách là toàn bộ nhân mã của Da Luật Tà Chẩn, binh phân thành bốn ngả đường, mỗi ngả có khoảng bốn vạn binh, vừa nhìn thấy Da Luật Thịnh quay người đánh tới, Da Luật Tà Chẩn cười nhạt một tiếng, trong màn đêm ánh sáng không đủ chiếu rõ ngọn cờ, và khi đuổi theo lệnh hô chiêng gõ trống, hắn lập tức dựa vào ngọn lửa mà xếp chúng lại thành một chữ cờ hiệu, hiệu lệnh cho ba bộ thành vòng tròn vây lấy quân địch, đề phòng có tên nào đó chạy thoát được, đám quân tản ra tạo trận hình, bức ép phủ Da Luật Thịnh.

Chương 433: Bẫy thành

“Trúc vận cô nương”

Vừa thấy bóng Trúc Vận, Lý Nhất Đức nở nụ cười, lớn giọng nói: “Cô nương luôn xuất hiện đúng lúc, lão phu đợi đã lâu rồi”.

Trúc Vận nhìn Lý Nhất Đức khoanh tay, tựa người vào nghế, đám võ sĩ bên cạnh trông rất hung mãnh, thản nhiên nói: “Lão gia tử nghĩ sao?”

Lý Nhất Đức nhìn Trúc Vận vẻ nghi hoặc, trầm giọng nói: “Lão phu muốn biết, nếu lão phu có thể giúp Dương thái úy một tay, Dương thái úy có thể bảo đảm được gì với lão phu chứ? Lão phu sao có thể đủ tin rằng, Dương thái úy có thể khống chế được nhân mã Khiết Đan, sau khi vào thành sẽ khống chế được loạn binh đánh chém đốt thành, hại bách tính Ngân Châu ta?”

Trúc Vận nghe hắn nói vậy, mừng thầm, mặt bình tĩnh, giơ ngón tay cái lên nói: “Lão gia tử có tấm lòng sáng như gương, luôn lo lắng cho sự an nguy của bách tính Ngân Châu. Còn về nghĩa thiện của Dương thái úy thì lão gia tử cứ yên tâm. Không chỉ Ngân Châu, Lô Châu cũng vậy, đều là cờ hiệu của Đại Tống, ở lãnh thổ này, ai dám làm chuyện ngu xuẩn đây?

Hơn nữa, Lý Quang Duệ bất lực tạo phúc cho Ngân Châu, để nó rơi vào tay phản tặc Khiết Đan, thái úy nhà ta một khi lấy được Ngân Châu, sẽ chắp tay dâng nó cho Lý Quang Duệ sao? Đương nhiên là không có chuyện đó rồi, về sau Ngân Châu này là của thái úy nhà ta, nếu Ngân Châu trở thành một tòa thành chết, thì lấy về có ích gì? Thái úy nhà ta có tâm tư riêng, thực tế ra, chỉ cần lão gia tử giúp thái úy nhà ta đoạt được Ngân Châu, thái úy nhà ta sẽ tận tâm bảo toàn Ngân Châu”.

Lý Nhất Đức không hề động đậy, tỉnh táo nói: “Đạo lý là đạo lý, nhưng thành trì một khi bị phá, binh lính Khiết Đan sẽ làm được gì nữa, ta rất hiểu, không cần nói Dương thái úy, dù là Khiết Đan Nam viện Đại Vương Da Luật Tà Đặc cầm kiếm đích thân đứng ở đầu thành thúc binh cũng không thể kìm được mãnh hổ”.

Trúc Vận giơ ngón tay ra, khẽ lắc lư, cười nói: “Lão gia tử chỉ biết một mà không biết hai, quá ư sốt ruột, Trúc Vận còn chưa nói xong đấy chứ. Thái úy nhà ta chắc hắn sẽ không để Ngân Châu rơi vào tay binh Khiết Đan, bảo toàn được sự an nguy của dân chúng, là vì…nếu như lão gia tử giúp đại nhân nhà ta một tay, tham gia cuộc chiến chiếm thành, đại nhân nhà ta sẽ không để cho người Khiết Đan nhúng tay vào”.

“Ý ngươi là…Lô Châu tự lực hoàn thành?”

“Đúng vậy, đánh úp ban đêm thành Ngân Châu, do quân Lô Châu ta tự thực hiện. Đợi đến khi người Khiết Đan phát hiện ra điểm khác thường, đầu thành Ngân Châu đã lay động chủ soái của thái úy nhà ta rồi, sứ mệnh của Da Luật Tà Thuyên là Khánh Vương Da Luật Thịnh tạo phản, không phải là đoạt thành Ngân Châu với thái úy nhà ta, nếu như chúng ta gi­ao đầu của Da Luật Thịnh, hắn có dám chắc chắn đoạt được Ngân Châu, mà trở mặt với thái úy nhà ta? Nếu như chúng ta thiết kế nó tuyệt một chút, chỉ đuổi Khánh Vương mà không giết, ngươi nói xem Da Luật Tà Thâu/Du sẽ đến đoạt thành hay là đi đuổi theo Da Luật Thịnh đây?”

Lý Nhất Đức chau mày, nói: “Dựa vào nhân mã các người có thể đoạt được trước khi người Khiết Đan tỉnh ngộ rồi tăng tốc khống chế được toàn thành Ngân Châu, có thể hay không? Hôm nay đội quân Lô Châu công thành, lão phu từng nhìn về phía đầu thành, thấy bụi đất bay tung lên sau quân doanh ngươi, đại quân đi lại không biết mệt mỏi, lúc đầu cũng cứ nghĩ rằng các ngươi có viện binh đến, nghĩ lại cho cẩn thận, thì có rất nhiều điểm nghi vấn. Lô Châu không có nhiều binh mã như thế, nếu như là hai thế lực Chiết Dương cho thái úy vay binh, đại quân nhân mã đường dài đánh chớp nhoáng, thanh thế mở rộng cũng không thể dấu được tai mắt Khánh Vương. Các ngươi sẽ không nghĩ rằng Khánh Vương có gián điệp ở khu Hoành Sơn sao?”

Trúc Vận mỉm cười nói: “Sau doanh trại có binh tập luyện đó chính là kế nghi binh. Khánh Vương nhìn thấy như vậy , ở chỗ cao thấy rõ sơ hở. Ngay cả hắn không có mật thám thì cũng không dấu nổi hắn, lại còn làm khó lão gia tử, chỉ căn cứ vào điểm này mà phân tích, thì biết rõ mánh khóe này, thủ đoạn này tuy không qua mắt được Khánh Vương song cũng không dấu được lão gia tử, cần giấu cho sĩ binh và dân chúng mà thôi. Sĩ khí của họ sẽ dư thừa rất nhiều”.

Lý Nhất Đức trầm giọng nói: “Đã là như vậy, các ngươi đoạt thành binh mã sẽ như thế nào đến được? Dựa vào năm bảy nghìn binh ở trong doanh các người sao? Cần biết rằng một khi đêm tối vào thành, là một bãi hỗn chiến, trong cái bóng đêm đen thui ấy, đầu đường cuối hẻm, đánh cho nát vụn thây, sự chuẩn bị lương thực, quân kỷ nghiêm minh, chỉ đạo thống binh cũng chả có ích gì, căn bản là binh lực không nhiều, các ngươi làm như thế, vào thành tứ hạ nhất phân, chớ nói đến khống chế được cả thành, không bị Khánh Vương nuốt gọn mới là lạ”.

Trúc Vận hừ nhẹ lại nói tiếp: “Nếu như thái úy nhà ta còn đủ binh lực thì có thể bảo đảm tốc chiến lấy thế áp đảo khống chế được toàn thành không?”

Lý Nhất Đức phản bác: “Dựa vào vũ khí công thành và lương thực ở Lô Châu, nếu như có thể chế ngự được binh lực toàn thành, cuộc chiến sẽ oanh liệt sao? Tại sao đến giờ vẫn không dùng chứ?”

Trúc Vận nói: “Sỹ binh cũng phải dẫm được hai chân của mình lên vùng đất rắn chắc thì mới có thể áo dụng lực lượng của hắn; Ngựa khỏe là con mà một ngày chạy được cả nghìn dặm, nếu như vướng phải đất bùn, hồ ao thì đương nhiên không phát huy được tốc độ. Lão gia tử nên biết rằng, tướng sĩ chưa bao giờ thực hành công thành, người có nhiều thì cũng sẽ đi đến chỗ chết, Khiết Đan có năm vạn thiết kỵ dũng mãnh, đến từ lục viện bộ tinh nhuệ nhất, tung hoành thảo nguyên, nhưng ở dưới thành Ngân Châu, biểu hiện của họ sao có thể so sánh được với binh mã Lô Châu ta. Binh cần phải có phương pháp đi kèm, ngươi nói có đúng không?”

Lý Nhất Đức lộ ánh mắt nghi ngờ, hắn hơi đổ người về phía trước, chậm rãi nói: “Thế…đại quân rốt cuộc là từ đâu?”

Trúc Vận mỉm cười nói: “Tiểu nữ tử đã nói đủ rồi, lão gia tử bảo ta phải làm gì để tin thành ý của ngươi đây?”

Lý Nhất Đức ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm Trúc Vận, trầm giọng nói: “Người đâu, mang Cửu Vĩ ra đây cho lão phu”. Lập tức có một người bước ra.

Lý Nhất Đức nói: “Lão phu gi­ao cho ngươi đứa cháu đích tôn Trưởng Phòng làm con tin, thành ý này, đủ chưa?”

Lúc này tuy rằng Dương Hạo có mong được Lý Nhất Đức giúp đỡ, nhưng một khi phá thành, thì lại là Lý Nhất Đức nhờ vả Dương Hạo, Lý Nhất Đức đương nhiên không dám cho rằng mình quá mạnh.

Hơn nữa, Tây Bắc dân nghèo quá nhiều, dù có tiền có quyền, song binh thì lại không tập trung được đúng lúc, mà Lý gia không thể vựng dậy lũ con cháu.

Trúc Vận nghiêm nghị nói: “Lão gia tử có thành ý này, đương nhiên là đủ rồi”.

Lý Nhất Đức nói: “Tin rằng Trúc Vận cô nương sớm đã nghe ngóng được tin tức của Lý gia ta, cháu ruột của lão phu Trưởng Phòng hôm nay chỉ có một, nhìn kỹ sẽ là một hạt minh châu, nếu Dương thái úy có đại quân vậy, đủ để chế ngự được toàn thành thì lão phu sẽ hợp tác với họ”.

Đang nói, một người con gái chừng hai lăm hai sáu tuổi dắt một đứa nhỏ tầm tám tuổi vào trong phòng, đứa trẻ đó mắt vẫn còn lim dim buồn ngủ.

Trúc Vận đang nghe ngóng tin tức, ánh mắt lập tức dừng lại ở đứa bé. Đứa bé bày là Cửu Vĩ cháu trưởng của Lý Nhất Đức.

Vừa thấy Lý Nhất Đức, người phụ nữ đó bèn thấp người thi lễ: “Cha”. Đứa bé thì vung tay ra khỏi tay mẹ nó, chạy đến bên gọi “Ông nội”.

“Cháu ngoan”. Lý Nhất Đức mỉm cười ôm lấy đứa cháu, nói: “Cháu ngoan của ta, Lý gia ta gặp phải phiền phức lớn, ông cần phải liên kết với một bộ lạc lớn, và họ muốn ông lấy ra một bảo bối quý trọng nhất để làm con tin, và vật bảo bối quý trọng ấy chính là đứa cháu ngoan của ta, cháu có dám làm con tin cho Lý gia ta không?”

Đứa bé có tóc trái đào, bím tóc đế hai bên, khá giống với người Hồ tây vực, nhìn bề ngoài, dũng mãnh, mày rậm mắt to, có nét giống với Lý Nhất Đức, Lý Nhất Đức vừa hỏi, nó không hề chần chừ, lớn tiếng nói: “Cháu dám”.

“A”. Người phụ nữ xinh đẹp kêu lên một tiếng, rồi vội vàng bịt miệng lại, mắt lộ vẻ lo lắng, nhưng quy định của Lý gia rất nghiêm, trường hợp này không có người đàn bà chen miệng vào, dù người tham gia là con trai mình, phụ nữ nhìn bố chồng với ánh mắt cầu khẩn, song không dám nói thêm lời nào.

Lý Nhất Đức vuốt tóc đứa cháu, cười nói: “Cửu Vĩ à, nếu như ông nội không tin tưởng người ta, họ sẽ lấy cái đầu của cháu, cháu cũng không sợ ư?”

Cửu Vĩ ngây thơ nói: “Không sợ, ông từng nói, không sợ thì mới xứng là đấng nam nhi, sợ chết thì không còn là người của Lý gia ta rồi”.

Lý Nhất Đức cười lớn, khen: “Ngoan quá, cháu tôi ngoan quá, đây mới là hạt giống của Lý gia ta chứ, ha ha ha…”

Hắn chỉ về phía Trúc Vận vỗ vào mông đứa trẻ, nói: “Đi đi, nghe lời tỷ tỷ nhé, chẳng bao lâu, ông sẽ đến đón cháu về”.

Trúc Vận mặt giãn ra cười nói: “Tiểu đệ đệ, lại đây nào”.

Cửu Vĩ quay đầu lại nhìn ông, Lý Nhất Đức nói: “Đi đi”.

Đứa trẻ đó nhảy xuống khỏi đùi ông, chạy nhanh tới mặt Trúc Vận,lớn tiếng nói: “Ngươi muốn giết thì giết đi, nam nhi Lý gia ta chẳng có gì sợ chết hết”.

Trúc Vận bật cười nói: “Tiểu đệ đệ tức giận rất đáng yêu, tỷ tỷ rất quý ngươi, sao có thể giết đệ được chứ. Đệ tên là Cửu Vĩ đúng không? Tên rất hay, lại đây nào, qua chỗ tỷ tỷ đi nào”.

Trúc Vận cười hì hì vẻ khách khí, đặt tay lên vai Cửu Vĩ. Ngón tay thon dài, các ngón tay như hoa. Đôi bàn tay ấy khiến bao chàng trai phải si mê.

Tay Trúc Vận khẽ đặt lên vai Cửu Vĩ, rồi mới thản nhiên cười: “Bí mật này sau khi thành phá, và không phải bí mật gì, nhưng giờ người biết lại không nên quá nhiều, ngoài tiểu huynh đệ này ra, lão gia tử có thể để cho người khác rút khỏi sao?”

Lý Nhất Đức không hề chần chừ, vỗ tay, hai võ sĩ đứng bên cạnh lui ra ngoài, người phụ nữ xinh đẹp lo lắng nhìn đứa con, mở miệng muốn nói gì, song chỉ thở dài, lặng lẽ thi lễ rồi khẽ lui ra ngoài.

*******

Sáng sớm ngày thứ hai, Dương Hạo lại hướng tới chỗ tập kết dưới thành, hai mặt đông, bắc, Da Luật Tà Khinh cũng rất ăn ý chỉ huy quân tới tấn công, như trận đại chiến hôm qua cũng đã nổ ra rồi.

Sân Lý gia lúc này bận rộn không thua gì soái trướng trong quân của Khánh Vương, những nhân vật quan trọng đi ra ra vào vào, liên tục có người nhận lệnh đi, rồi lặng lẽ được điều động, quân sĩ, dân tráng khắp thành chạy đi chạy lại.

Phụ trách đánh úp đoạt thành, ám sát chỗ ở Khánh Vương, dấy lửa nổ ra khắp bốn phía tạo thành thế còn có một sứ mệnh đặc biệt, chế ngự được tính mạng cha con Lưu Kế Nghiệp đều là tuộc hạ của mình điều động, khua chiêng gõ mõ sắp xếp.

Còn Dương Hạo cũng lấy quyền chỉ huy công thành ngày hôm nay gi­ao cho Chiết Duy Chính, bản thân hắn ở trong quân, chủ soái hắn, thân tín, trong quá trình công thành lặng lẽ nổi lên cơn sóng gió động trời.

Trời đã tối, Dương Hạo như hôm qua, vẫn tu binh, sĩ binh tinh nhuệ về doanh trại, quân tốt nhất, món ăn ngon nhất đem ra nghênh đón họ. Dương Hạo không màng đến thiệt hơn chí ít cũng có một phần ba quân được che chở, đánh nhau thì phải có người chết, phải có tổn thất, nhưng binh sĩ trải qua trận chiến khốc liệt, mỗi người đều là một thứ tài sản quý báu. Hắn có tiền có lương thực, chỉ cần có lãnh thổ của mình thì có thể mở rộng được quân đội, nhưng đội quân này là đám ô hợp, vẫn là có một dũng mãnh tác chiến, đội quân có hiệu lệnh truyền thống tốt đẹp, trọng trách lần này cần có vài lão binh.

Thủ quân trong thành cũng đã cố gắng hết sức một ngày đại chiến, Dương Đan Mặc toàn thân lấm lét nhễ nhại mồ hôi, đến áo giáp cũng không muốn cởi, nằm vật lên giường, cứ như hắn là người sắt vậy, một ngày bôn ba ngoài chiến trường cũng đã khiến hắn đủ mệt, cổ họng đau nhức, không cất nên lời, khác gì người câm, những món ăn ngon được bê vào, Dương Đan Mặc vẫn nằm trên giường, không muốn dậy ăn.

“Tướng quân, cơm canh đã chuẩn bị xong”. Tên đầu bếp cung kính nói.

“Để đó đi, lão tử nghỉ ngơi tí rồi hẵng ăn”. Dương Đan Mặc nhắm nghiền mắt lại, mệt mỏi không muốn nói.

“Tướng quân, cơm nóng, để lâu nguội mất ngon, hay là người dậy ăn luôn đi cho nóng”.

Tên đầu bếp ân cần nói, bưng cơm canh lên trước, Dương Đan Mặc tức giận, hoắc mắt, mắng: “Lão tử khi nào ăn chả được, không can hệ đến ngươi”.

Hắn quát lớn, toàn bộ cơm canh nghiêng rồi đổ xuống mặt, bát nước hắt vào mặt hắn, đau đến nỗi khiến hắn kêu um lên, hắn không tự chủ được nhắm mắt lại. Hắn thấy không ổn, một tay ôm lấy mặt, một tay rút đao bên hông, nhưng mắt hắn nào có thể mở được, một lưỡi đao hung hăng bổ lên cổ hắn, chiếc đầu rơi xuống, đao vẫn hung hăng bổ xuống, chém ngay vào cổ họng của tên nằm trên giường, tên đầu bếp lau máu tươi trên mặt, rồi chạy ra ngoài.

Binh lính thủ quân nghe thấy gì đó sợ hãi, vội vàng chạy vào trong lều xem, chỉ thấy một cái xác không đầu trên giường, đầu dữ dằn của Dương Đan Mặc để bên trái người hắn, sau lều có một lỗ hổng lớn, khi họ xông vào, một tên đã chạy mất tiêu qua cái lỗ hổng đó ra ngoài, hai tên sĩ binh sợ hãi, lập tức chạy đuổi theo, một tên toan chạy qua lỗ hổng đó thì một mũi tên bắn lén lao tới, cắm thẳng vào cổ hắn, tiễn sắc bén đâm xuyên qua cổ, mũi tên kề sát mắt phải của tên chạy sau, khiến hắn sợ hãi trán đổ mồ hôi, lại một mũi tên nữa bắn mạnh về phái đỉnh đầu của hắn.

Giống như viên tướng cao cấp Dương Đan Mặc bị sát hại không có nhiều, phần lớn tướng lĩnh dùng đồ không phải là đầu bếp Ngân Châu, thị vệ vào ra liên tục, không dễ đến kề bên. Dương Hạo vạch ra kế hoạch này lấy cái đầu của hắn không phải… mà là dựa vào kinh nghiệm chỉ huy chiến trận trên thực tế cấp quân quan làm chủ.

Chức vị của họ không cao, nhưng nếu không có hỗ trợ, lại cần dân tráng bình thường, mối qua lại giữa binh Ngân Châu là tốp người thuộc hạ dễ nhất, còn đám người này một khi chết đi, thì trước khi tướng tá nhận lệnh mới sẽ lập tức mất tác dụng của chỉ huy, toàn quân bị tê liệt, hiệu quả sẽ rõ rệt hơn giết một viên tướng, cũng càng dễ dàng thuận lợi.

Vào lúc này, Tiểu Dã Khả Nhi cầm đầu bốn vạn năm nghìn đội quân tinh nhuệ của Đảng Hạng Thất Thị cũng đã nhanh chóng từ nơi ẩn núp của họ đến doanh trại Dương Hạo. Bốn vạn năm nghìn tinh binh, là thực lực tiềm tàng của Dương Hạo, toàn bộ bốn vạn năm nghìn tinh binh này rất thiện chiến và dũng mãnh, nếu như để họ công thành, sợ rằng sẽ là bia đỡ đạn, nhưng kỵ binh này dùng để tác chiến sơn dã, hỗn chiến giữa đường hẻm thì lại không hề kém hơn bất cứ đội quân nào.

Dương Hạo cầm cự lại sự đau khổ, vẫn chưa dám đưa ra đội quân dự bị, một phần là vì thép tốt thì dùng làm lưỡi dao, họ dùng để công thành, tác dụng không rõ rệt, mặt khác là vì nếu như không lấy được thành Ngân Châu, không thể hình thành lên một chiến lược thọc sâu tự động tiến thối ở trên địa lý, không thể đi nhờ vả Đảng Hạng Thất Thị bí mật của hắn cho thiên hạ biết, giờ, cuối cùng dã đến lúc dùng họ rồi.

Dưới nam thành, Lý chỉ huy không quản mệt nhọc, chỉ huy toàn bộ quân sĩ tu bổ lại tường thành, đóng chặt cửa thành, cho thấy đám tinh binh Khiết Đan mệt mỏi, nhìn thấy hắn như có thêm sức mạnh, vui vẻ rút sang một bên nghỉ ngơi, họ cởi bỏ áo giáp, bỏ đao thương xuống, ngồi nhàn rỗi nhặn đá vụn ném chơi, bụng đói kêu réo lên, nuốt nước bọt ừng ực nhìn về chỗ cơm tập thể đã nấu chín, binh Ngân Châu bỗng giống như đám người điên, cầm lấy bội đao lao thẳng như mãnh hổ về phía bọn họ.

Lúc này, dân tráng đã rơi rụng ít nhiều theo sự sắp xếp có sẵn, bắt đầu ra tay với đám quân quan nhìn thẳng bọn họ. Máu sung lên, thây ngã xuống, thủ tướng nam thành Dương Đan Mặc bị giết, rất nhiều tướng tá trong quân đồng thời cũng bị thiệt mạng, binh Ngân Châu và dân tráng bỗng nhiên tạo phản, binh Khiết Đan mất đi tướng chỉ huy nên tan rã, gỗ đá chặn cửa thành bị dỡ bỏ, đầu thành có cái cầu treo, từng cây đuốc như Lưu Tinh bị người từ đầu thành phao qua, chiếu sáng vào đường vào thành.

Quân đội của Tiểu Dã Khả Nhi người như hùm cọp, ngựa như rồng, lao nhanh vào, tiếng trống đánh vang rền như sấm, tiếng hò hét nổ tung trời.

Lúc này, khắp nơi trong thành đã dấy lửa chiến tranh, Lưu Kế Nghiệp ngồi trong tù phát hiện ra mấy tên lính Khiết Đan đã ăn no uống say nằm ở cái bàn ở giữa, gáy khò khò như sấm, song vẫn thấy có gì đó khác thường, thấy tên đó luôn bị người Khiết Đan đến kêu đi hét, luôn bị sai vặt bỗng lén lút đi đến, tay cầm một lưỡi dao nhỏ, tóm lấy bím tóc của tên binh Khiết Đan như cầm cái đầu lợn, rồi lập tức đi về phía người thứ hai…

*******

Da Luật Thịnh quất ngựa chạy như điên, gió thổi tới tấp vào mặt hắn, trong bóng đêm không biết có bao nhiêu binh mã cũng quất ngựa như vậy chạy đuổi theo hắn, lòng hoảng sợ, hắn chỉ có thể nhìn thấy phía xa xa lũ người cầm đuốc như nước sông chảy cuồn cuộn đuổi theo hắn.

Bại trận lần này, bại tới mức hắn sắp giết chết Da Luật Hiền, từng giờ từng phú ngồi ghế Hoàng đế không hiểu ra sao cả. Lần đó không chuẩn bị chu toàn, nhưng đã tính đi tính lại rồi, đến cửa doanh trại có mấy tên binh sĩ chiếm lấy kế hoạch tiến vào, song có điều không thể ngờ là xuất hiện ba tên nô lệ, làm hỏng đại sự của hắn. Lần này, hắn vốn nghĩ rằng không thể sức mạnh nào phá được thành Ngân Châu, có thể kháng lại được ba năm năm với Khiết Đan, Lô Châu, mãi đến khi chúng chết, hao tổn hết sạch thì chúng mới không còn sức lực đâu mà phản nữa, và điều càng không thể mảy may nghĩ đến đó chính là đã chiếm được một nửa binh và dân tráng Ngân Châu thì bỗng nhiên chúng lại tạo phản.

Đến khi hắn ngộ ra điều đó thì khắp thành đã dấy chiến trận, tướng soái thì tìm không thấy đâu, khắp nơi chiến tranh liên miên, nơi nơi là những cái xác chết ngổn ngang, binh Ngân Châu tạo phản, dân tráng Ngân Châu tạo phản, dân chúng toàn thành loạn lạc.

Đêm tối, binh Đảng Hạng công thành như có thần tiên giúp đỡ, nhanh chóng chiếm được phủ Khánh Vương, Đông Thành, Bắc Thành, Nam Thành, binh lính xông vào thành, thời loạn đã đến.

Tình hình như thế có muốn chỉ huy thì cũng chẳng có tác dụng gì, Khánh Vương quyết định thật nhanh, lập tức chỉ huy binh, dẫn binh giết hướng tây vực, dù biết rõ Dương Hạo vây thành, cố ý để chừa lại tây vực để làm bẫy đường sống thoát chết, lcus này cũng chỉ có thể liều mình xông đến, nếu như không thể đi nữa, thì không đợi đến trời sáng, hắn có thể chết dưới lưỡi đao của một tên vô danh tiểu tốt nào đó.

Da Luật Thịnh nhổ lấy lá cờ, xông thẳng về phía tây vực, miệng hét lớn, không ít binh Khiết Đan đánh trận thấy đại kỳ Khánh Vương thì tụ tập lại, đuổi theo hắn hướng về phía tây vực, nửa đường gặp Da Luật Mặc Thạch lãnh binh phía trước tìm hắn, hai bên hợp binh lại, chạy tới phủ Khánh Vương chính là gần Ngân Châu phòng ngự sử phủ, không biết từ đâu lại giết một đội mặc giáp đen ở ngực, khăn cuốn đầu, khiến binh mã đoản đao tấm chắn, người tuy không đến năm trăm người song sát khí đằng đằng, khí thế hừng hực, xông thẳng tới đại kỳ của Da Luật Thịnh, Da Luật Mặc Thạch vội vàng phân thân binh, đích thân cực địch, giờ không biết sống chết thế nào, có bình yên mà tháo chạy hay không. Tiếng rầm rầm khua chiêng gõ mõ giống như đám lửa hủy diệt đến chỗ này.

“A” một tiếng kêu thảm, một sĩ binh phía trước bỗng ngã từ trên yên ngựa xuống, Da Luật Thịnh há hốc mồm, đoạn đường phía trước có kẻ mai phục, lúc này kỵ binh xông về phía trước liên tiếp ngã nhào từ trên ngựa xuống, chỉ nghe thấy tiếng ngựa hí vang, một người một ngựa lồm cồm bò dậy, Da Luật Thịnh hô lớn: “Phía trước có bẫy, mau chạy về phía bắc”.

Ánh lửa bập bùng trong đêm tối, Da Luật Thịnh cũng không biết được nó là con đường hay là đường đất hoang, đám người ngựa quẹo hướng bắc mà chạy, truy binh đuổi tới gần, binh mã đuổi theo như bay phi đến gần chúng, nhằm hướng Da Luật Thịnh để lấy bằng được đầu của hắn, một đám thì bắn tiễn về phía trước chúng, rõ ràng đây là kế hoạch được vạch ra chu toàn, hắn sao dễ dàng chạy cho được.

Da Luật Thịnh ghìm chiến mã nhìn về phía tây, bên đó một màn đen u tối, không biết sẽ có bao nhiêu cái bẫy chờ hắn, nhìn sang phía nam, là rừng rú, nhìn sang phía đông, khắp nơi là lửa đuốc, hắn như đứng giữa bốn mũi tên bao vây, Da Luật Thịnh tức giận, giật mạnh cương ngựa, cầm đao trong tay, hét lớn: “Thà chết trận, quyết không hàng, giết”.

“Giết, giết, giết”. Tiếng hô vàng, Da Luật Thịnh nghe rõ mồn một, trấn an lại, những binh sĩ theo hắn chạy ra thành còn khoảng nghìn người, đám nhân mã này chỉ có tham chiến và không biết chừng cái mạng sẽ không còn tồn tại nữa.

Hắn hét lớn, quất mạnh roi vào hông ngựa, quay lại nhìn đám truy binh theo hắn, binh sĩ cùng tộc và đám Hoàng đế Khiết Đan thề chết truy bắt cho hắn, mối thù không đội trời chung này người bộ tộc Bạch Cam không chút do dự đi theo hắn nguyện sống chết…

Cấp bách là toàn bộ nhân mã của Da Luật Tà Chẩn, binh phân thành bốn ngả đường, mỗi ngả có khoảng bốn vạn binh, vừa nhìn thấy Da Luật Thịnh quay người đánh tới, Da Luật Tà Chẩn cười nhạt một tiếng, trong màn đêm ánh sáng không đủ chiếu rõ ngọn cờ, và khi đuổi theo lệnh hô chiêng gõ trống, hắn lập tức dựa vào ngọn lửa mà xếp chúng lại thành một chữ cờ hiệu, hiệu lệnh cho ba bộ thành vòng tròn vây lấy quân địch, đề phòng có tên nào đó chạy thoát được, đám quân tản ra tạo trận hình, bức ép phủ Da Luật Thịnh.

Chương 434: Ôm Ngân Châu.

Dương Hạo đêm hôm tập kích Ngân Châu, hơn bốn vạn quân tinh nhuệ giữ sức dưới sự chỉ đạo của đệ tử Lý gia trong ngoài phối hợp với nhau, tăng tốc chiếm lấy các cửa ải trọng yếu, tiếng chém giết đã truyền vào trong quân doanh của Khiết Đan, Da Luật Tà Chẩn nghe vậy cảnh giác, chỉ thấy trong thành nơi nơi xảy ra chiến loạn, không biết rốt cuộc xảy ra chuyện gì, hắn vừa phái người liên lạc với Dương Hạo, vừa nhanh chóng tập kết quân đội, những binh sĩ vừa mới nghỉ ngơi được lệnh tập trung, phòng ngừa xảy ra chuyện.

Lúc này Dương Hạo đã phái người nhanh chóng tới gặp hắn nói binh Ngân Châu bất ngờ tạo phản, mở thành nghênh quân Dương Hạo vào thành, bộ đội sở thuộc Lô Châu đang tạo phản chiến đấu với binh Ngân Châu và binh Khiết Đan, tấn công quân thủ đầu thành, Khánh Vương Da Luật Thịnh đã bỏ chạy về tây vực, có khả năng trốn chạy, xin Da Luật đại vương mau chóng viện trợ.

Da Luật Tà Chẩn có sứ mệnh là tiêu diệt tên phản nghịch Da Luật Thịnh, vừa nghe nói có khả năng hắn bỏ trốn, thì không nghĩ nhiều, lập tức huy quân đuổi theo. Hai thành bắc, đông nằm trong tay quân Khiết Đan, nhân nội loạn hắn cố nhiên có thể đắc thủ, nhưng trì hoãn này chỉ sợ Da Luật Thịnh sẽ chạy mỗi ngày, cho nên Da Luật Tà Chẩn huy quân men theo đường sông tới tây vực, đợi hắn đến tây vực một cái, Khánh Vương Da Luật Thịnh vừa ra khỏi thành, Da Luật Tà Chẩn lập tức đuổi theo sau, bám riết không tha và cuối cùng thì quyết chiến với Da Luật Thịnh: “Giết”.

Song phương còn có đất hai tiễn, đội quân Da Luật Tà Chẩn đột nhiên lại phân tán, trở thành một mũi tên trúng ba đích, đội hình xung phong thăm dò phía trước giống như con dao sắc bén, bám riết lấy hai bên đội hình của Da Luật Thịnh, bên cánh sườn, mưa tiễn bay đầy trời giết liên tiếp nhân mã của Da Luật Thịnh, liên tục có tên ngã ngựa, trận hình càng vót càng mỏng: “Giết, giết, giết”.

Hai bên còn chưa vật lộn đã đỏ cả mắt, cho nên đội quân kỵ sĩ giơ cao mã tấu, quất mạnh roi vào mông ngựa, hai chân đạp mạnh vào hông ngựa, tạo tư thế quyết chiến đến cùng.

Hai đội quân hừng hực khí thế chạm mặt nhau, đánh kiểu giáp lá cà, mũi tên sắc bén bay ra khỏi cung va vào nhau chan chát, tên bay đổi hướng. Tài năng của kỵ binh xung phong thể hiện được uy lực của nó, nhưng tên va chạm mất đi cái đầu thì có ích gì?

Tay Da Luật Thịnh cầm một viên đá, máu chảy, quân địch trước mặt ngã ngựa liên tục vì bị hắn ném cho, tay chân chia lìa. Da Luật Thịnh vốn dùng đại đao, chiến mã thì dũng mãnh vô địch, nhưng ban đầu hắn vào cung hành thích vua bị la Khắc Địch đâm thương thủng vai, dù đã được điều trị nhưng một bên bả vai vẫn không có lực lớn lắm, nên hắn đổi sang dùng mã tấu, như vậy so với võ công lúc trước của hắn đại đả chiết khấu, nhưng so với binh sĩ bình thường vẫn có sức mạnh áp đảo.

Máu tươi phun ra, dựa vào võ công của hắn, khí thế hừng hực và thể lực cường tráng, Da Luật Thịnh vẫn xông lên phía trước hô: “Giết”.

Quân địch ngã ngựa liên tiếp, sườn phải của Da Luật Thịnh đã bị tên nào đó đâm cho một thương, chiến mã hí vang, một binh sĩ ngã ngựa chặt chân ngựa, chiến mã hí vang lồng lộn phi về phía trước, Da Luật Thịnh ngồi trên lưng ngựa cố gắng ghìm cương, lúc chiến mã sắp ngã xuống hắn nhanh chóng bay người sang con ngựa khác.

Da Luật Thịnh có ý định quay lại tái chiến, bỗng nhiên nhìn thấy binh lính theo mình phía sau đã không cánh mà bay, mấy thân binh thân cận của hắn đã bị mất tích, trong ánh đuốc tù mù chỉ thấy thương kích như rừng, tiếng hô hoán giết.

Da Luật Thịnh mở to hai mắt, hét lên một tiếng lớn, vứt bỏ mã tấu, cướp lấy một trường thương, tiện đâm một cái vào tên kia, một cái đầu bay lên khỏi không trung, máu tươi ấm nóng phun lên, Da Luật Thịnh ghìm ngựa quay lại, bất chấp có người đuổi theo hay không, chỉ thấy phía trước như có lửa, hắn như con thiêu thân lao về phía đó, múa trường thương, máu bắn tung tóe, quân địch giáp mặt như cỏ bị dẫm nằm rạp xuống.

Binh hai bên nếu so sánh thì còn cách xa nhau, binh Khiết Đan đánh bọc sườn, trong đêm tối như vầng sáng cực đại, dần dần bọc lấy trung tâm, binh mã Khánh Vương ở giữa thì lại giống như đom đóm. Chu kỳ sống của đom đóm rất ngắn, chúng từng con từng con ngã xuống, cuối cùng vòng nhỏ thành vòng to, vô số trung ương vầng sáng chỉ tồn lại một chiến sĩ tuyệt vọng bổ tới, đó chính là Khánh Vương Da Luật Thịnh.

Mồ hôi thấm ướt chiến bào, toàn thân là máu tươi, thực thảm hại, mồ hôi và máu hòa quện trên tóc hắn, rồi chảy xuống trước trán, che tầm nhìn của hắn, nhưng hắn không còn thời gi­an đâu mà lau đi, cuối cùng thì quân địch cũng đã thối lui, vòng vây mà quân địch vây lấy hắn đã dần lui về phía sau, cuối cùng thì hắn cũng hình thành nên một vòng không một kẽ hở.

Da Luật Thịnh lúc này mới vén mái tóc sang một bên, lau đi máu và mồ hôi chảy xuống mặt, mở to mắt nhìn về phía trước chỉ thấy lửa ở phía trước càng rõ nét hơn, một viên tướng cưỡi chiến mã lớn lạnh lùng nhìn hắn: “Da Luật Tà Chẩn”.

Da Luật Tà Chẩn ghì cương ngựa, đần người không nói nên lời, Da Luật Thịnh chỉ cảm thấy cánh tay bủn rủn, không nhấc nổi đao nữa, hắn thở sâu, gắng sức giơ đao lên, mã tấu trở thành đao thép, lớn tiếng quát: “Da Luật Tà Chẩn, ngươi dám chiến với ta hả?” Da Luật Tà Chẩn không đáp, giương cung bắn tên.

Da Luật Thịnh tức giận, cười thảm thấy mình đã lâm vào ngõ cụt, hắn làm rơi đao trong tay, từ từ ngẩng đầu dậy, nhìn lên ánh sao trên trời, nhìn một hồi lâu, bỗng nhắm nghiền mắt lại, nghĩ về biển sao tươi đẹp.

Tiếng dây cung vang lên, vai phải Da Luật Thịnh rung lên một cái, hắn nghiến răng, cười lớn: “Da Luật Tà Chẩn, tài bắn cung của ngươi chỉ như vậy thôi sao? Gọi người của ngươi đến bắn cho ngươi sáng mắt ra đi, nếu không ta sẽ làm ngươi đau đấy”.

Da Luật Tà Chẩn im lặng không nói gì, Da Luật Thịnh bỗng phát hiện ra vai phải của mình không đau, ngược lại nó có cảm giác xót xót, hắn vội hiểu ra, từ từ mở mắt, nói: “Tên tiểu nhân, ngươi muốn bắt sống đưa bổn vương tới trước mặt hàng nghìn hàng vạn dân chúng sao?”

Lưỡi đao của hắn buông thõng xuống, rồi cho nó sang bên hông, nhưng trong màn đêm bảy tám con ngựa bị đâm chuẩn xác nằm vật xuống đường. Da Luật Thịnh cố gắng mở to mắt, muốn mắng chửi, muốn giãy dụa nhưng mắt hắn càng ngày càng trĩu lại, hắn bị kéo rê trên mặt đất, thì buồn ngủ vô cùng…

Dương Hạo ghìm ngựa đứng ở trên sườn núi cao, nhìn binh mã Khiết Đan chậm rãi đi về phía bắc, khẽ thở phào.

Suy nghĩ của Tiêu Xước hắn thực sự không thể đoán nổi, đây không phải là người đàn bà có cái đầu sẽ bị hôn mê bởi tình dục và tình yêu, nếu như cô ta muốn đánh rắn động rừng, tiêu diệt Khánh Vương, chiếm lấy Ngân Châu, hai việc này cùng làm, chỉ sợ hắn không kham nổi.

Cho dù hắn đã có địa lợi nhân hòa, một khi đau đầu với cường địch, lúc đó thì không thể không cứng đầu cứng cổ chào hỏi Triệu Quang Nghĩa, may mà Da Luật Tà Chẩn chí chỉ tại Da Luật Thịnh, sau khi bắt sống Da Luật Thịnh, hắn vui vẻ rút binh, xem ra sức chú ý của Bắc quốc một khi hồi lâu sẽ không để ở Tây Bắc.

Trở lại, lại nhìn về Ngân Châu, lòng Dương Hạo cảm thấy vui vẻ vạn phần, chiếm được tòa Ngân Châu là một việc không phải dễ dàng gì, nhưng có thể chiếm được tòa thành ấy thì có hy sinh mấy cũng thấy đáng, một thành phố mới xây dựng được hai năm, sức bắn xa tứ phía, dù thế nào cũng không thể sánh được với thành cổ, chỗ nước cạn chỉ có thể nuôi tôm, nuôi sao được thuồng luồng. Chiếm được Ngân Châu rồi, hắn mới có thể thông suốt được Hoành sơn, thêm Đảng Hạng Bát Thị, Tây lược Thổ Phiên cường ngựa, bắc thu Hồi Hột tinh binh, đông có Hoành Sơn người Khương dũng mãnh, chân chính có vốn địa vị ngang nhau với Hạ Châu Lý Quang Duệ, Phủ Châu Chiết Thị, Lân Châu Dương Thị mới sẽ chân chính theo hắn như thiên lôi sai đâu đánh đó.

Giờ sông ngòi mênh mông, kéo dài ngàn dặm, cỏ mọc um tùm, dãy núi trùng trùng điệp điệp. Cuộc chiến khói lửa này sẽ mau chóng ngưu dương khắp nơi, trâu bò lợn gà thành đàn, mảnh đất màu mỡ này sẽ là nền tảng căn cơ của hắn, có mảnh đất rộng này, hắn sẽ có một mảnh đất dụng võ. Nghĩ đến đây, Dương Hạo cảm thấy lòng mình lâng lâng, Chiết Tử Du thúc ngựa đi đến bên cạnh hắn, khẽ liếc mắt nhìn hắn, ánh mắt trìu mến.

Dương Hạo ngồi trên lưng ngựa, mắt nhìn về phía xa xăm, lòng tràn đầy hoan lạc, tóc bay theo gió, hồng bào bay phần phật, trông khí khái oai hùng. Hắn ngày càng trưởng thành, không còn là một tiểu gia đinh thích pha trò mà người trong đại viện Trình gia thường thấy nữa, hắn giờ là một thống soái, nắm đại quân năm vạn người có thể xuất binh bất cứ lúc nào, ở Tây Bắc, vũ lực như vậy đã được coi là anh hùng rồi.

Dương Hạo dường như để ý đến cái nhìn của nàng, bỗng quay đầu lại nhìn nàng một cái. Chiết Tử Du không hề trốn tránh, chỉ khẽ hỏi: “Chàng hợp lực với người Khiết Đan chiếm Ngân Châu, tin này sợ đã bị truyền đến Biện Lương rồi, đường đường Tống quốc Hoành Sơn tiết độ sứ, thẩm tra thái úy đối chiếu sự thực, cấu kết với ngoại địch, chàng đoán xem Triệu Quan Gia sẽ nghĩ sao đây?”

Dương Hạo nhìn cô cười, nói: “Ở đâu ra ngoại địch vậy? Khiết Đan và Đại Tống ta vừa mới thiết lập ngoại gi­ao với nhau hai năm, tên phản nghịch Da Luật Thịnh bỏ chạy tới Tây Bắc, giết phòng ngự sử Ngân Châu Đại Tống ta, chiếm lấy Ngân Châu trị dân này, thân là Tống tướng, bổn quan há ngồi đó mà nhìn? Xuất binh đuổi thổ phỉ, đó là chuyện đương nhiên phải làm. Khiết Đan xuất binh tiêu diệt phản nghịch, đó cũng không có gì đáng trách, hai quân chúng ta như trăm sông đổ về một biển, đối phó với thù chung, có gì đáng trách chứ? Quan Gia dựa vào cái gì mà gán tội cho ta đây?”

Chiết Tử Du nhoẻn miệng cười nói: “Thế Đảng Hạng Thất Thị xuất binh giúp chàng thì giải thích sao đây? Đảng Hạng Thất Thị vẫn là bộ lạc dưới quyền Lý Quang Duệ, chàng điều động binh mã Đảng Hạng Thất Thị đã được Lý Quang Duệ đồng ý hay chưa? Vừa mới đến Lô Châu hai tháng, người Khương Đảng Hạng tự hào vì chàng, Triệu Quan Gia không giận gì hay sao? Lý Quang Duệ có chắc chắn rằng từ bỏ ý đồ không?”

Dương Hạo nháy mắt, giảo hoạt nói: “Sự giải thích này dễ thôi, Lý Quang Duệ lại làm sao ư? Lẽ nào không phải là thần của Tống quốc ta sao? Đảng Hạng Thất Thị là con dân của Tống quốc, họ xung phong nhận việc, cùng ta hợp sức đánh đuổi ngoại địch, triều đình nên ngợi khen phong thưởng mới đúng chứ, nếu ngang ngược chỉ trích, há không lạnh lòng của người Khương? Còn về Lý Quang Duệ…”

Dương Hạo cười một cái khinh miệt nói: “Lý Quang Duệ vốn có trọng trách bảo vệ đất đai, song lại để cho quốc thổ rơi vào tay ngoại địch, khiến không biết bao con dân Đại Tống li biệt. Hắn chẳng có năng lực đoạt lại đất đã mất, bổn quan xuất binh, hắn có gì mà dám lên tiếng, Lý Quang Duệ có thể làm được chuyện đó không mà nói?”

Chiết Tử Du rất hài lòng câu trả lời của hắn nói: “Được rồi, chàng ý, Dương thái úy ạ, đại nhân đại nghĩa, đáng được ngợi khen, nhưng… giờ Ngân Châu đã được đoạt về, chàng sẽ gi­ao lại cho Lý Quang Duệ không vậy?”

Dương Hạo đại nghĩa nghiêm nghị nói: “Đó là đương nhiên rồi. Ngân Châu này không phải là mảnh đất vô chủ, gi­ang sơn xã tắc của triều đình, há có thể tự chiếm dụng. Nhưng Tây Bắc không ổn, vì không để Ngân Châu lại một lần nữa rơi vào tay ngoại địch, để bách tính Ngân Châu không phải chịu lầm than một lần nữa, bổn thái úy sẽ cố gắng hết sức, tạm thời sẽ quản lý Ngân Châu, đợi đến khi Lý Quang Duệ đại nhân giải quyết xong việc của Thổ Phiên, Hồi Hột, có khả năng bảo toàn, giữ gìn được Ngân Châu thì bổn thái úy nhất định sẽ gi­ao Ngân Châu lại cho hắn”.

Chiết Tử Du lấy tay che miệng cười, nàng mím môi lại để nén cười, Dương Hạo thấy vậy cũng cười theo nói: “Tử Du, thực là khi nàng cười ta rất thích nhìn nàng, miệng nhỏ nhỏ như anh đào, vốn đã đẹp rồi, khi cười nàng không cần che miệng đâu”.

Chiết Tử Du trợn mắt lên nhìn hắn, nũng nịu: “Bảo chàng dùng nhân mã của Đảng Hạng Thất Thị, Hạ Châu Lý Quang Duệ một khi mà biết được tin này, sẽ biết thân tín đại hoạn ở Ngân Châu, mà không ở Thổ Phiên và Hồi Hột. Chàng ở Thổ Phiên và Hồi Hột có cái uy nhất định, nhưng dựa vào lực lượng của chàng giờ không đủ để thao túng họ, nếu Lý Quang Duệ không tiếc chi phí và giảng hòa, lại chỉ huy quân tiếp ứng thu Ngân Châu trước, chàng có gi­ao Ngân Châu cho hắn không?”

“Đương nhiên, chẳng có gì phải nghĩ cả”. Dương Hạo không chút do dự trả lời rồi lại nói tiếp: “Nhưng…nếu lúc đó quân dân Ngân Châu, người Khương Hoành Sơn, các bộ Đảng Hạng, Thổ Phiên của Ngân Châu, dân chúng Hồi Hột không tin tưởng sự lãnh đạo của Lý Quang Duệ có thể giữ được Ngân Châu, kiên quyết yêu cầu bổn thái úy gánh vác trách nhiệm ấy thì sao, haiz…lòng dân đã quyết thì không thể trái, ý dân đã quyết thì không thể đổi, …bổn thái úy chỉ có gánh vác trọng trách này mới đền trả được sự tín nhiệm của họ.

Chiết Tử Du âu yếm nhìn hắn, mãi sau mới cất tiếng nói: “Dương thái úy, trước đây thiếp thực sự chưa nhìn thấy mặt này của chàng”.

Dương Hạo nghiêm túc nói: “Nàng cứ từ từ mà tìm hiểu thì sẽ phát hiện ra, ưu điểm của con người ta không chỉ dừng ở đây đâu”.

Chiết Tử Du nhướn mũi, khẽ hừ nhẹ một tiếng không nói gì. Dương Hạo liếc mắt sang nhìn nàng, nói giọng khàn khàn, thủ thỉ vào tai Chiết Tử Du: “Tử Du, nàng có muốn xâm nhập và tìm hiểu con người ta không?”

Chương 435: Hai đôi tình nhân

Chiết Tử Du nghe không hiểu những điều Dương Hạo nói, nàng ho khan một tiếng, rồi dùng roi ngựa chỉ ra hướng xa xa nói: “Mảnh đất Tây Bắc được gọi là vùng đất khó khăn, nhưng đó là vùng đất rộng. Tục ngữ nói ‘Hoàng Hà bách hại, độc phú nhất sáo’, vùng đất này phong thổ phì nhiêu, nguồn nước phong phú, chỉ cần có ít chiến tranh, có minh chủ kinh doanh thì chính là vùng lương xuyên, đi tiếp về phía Tây thì lại có thảo nguyên rộng lớn, cây cối phát triển tốt, có thể chăn thả cừu dê, chiến mã, còn có thể thông thương với Ba Tư, Thiên Trúc, nếu như kinh doanh được thì còn có thể trở thành một Gi­ang Nam của thành Tây”.

Dương Hạo khẽ thở dài, vừa quất ngựa vừa đi tới.

Chiết Tử Du lại nói: “Nhìn từ địa hình mà nói, Hà Tây là đất anh hùng có thể dụng võ, một đường hẹp kéo dài hai nghìn dặm, Tây khống chế Tây Vực, Đông nhìn xuống Trung Nguyên, ở vị trí cao, có thể bao quát hà Lũng, Quan trung, có thể nói là có thể tiến mà lùi cũng có thể thủ. Nếu như hôm nay thái úy có được Ngân Châu, Ngân Châu Lô Châu hô ứng, Hoành Sơn nam bắc đã nối liền, lại được sự trợ giúp của hai Châu, Tây Bắc chư hầu, có thể so cao thấp với Lý Quang Mãnh được rồi. Trở thành vua của Tây Bắc sẽ chỉ có một người là thái úy. Không biết sau khi thái úy có được Ngân Châu thì đã chuẩn bị gì rồi?”

Dương Hạo suy nghĩ một chút rồi nói từng chữ một: “Ngừng binh phạt, hòa hảo láng giềng, tu sửa thủy lợi, nông canh, khai công thương, chăn thả gia súc, chiêu mộ dân tứ xứ bốn phương về định cư dưới trướng ta”.

Chiết Tử Du nghe xong liếc hắn một cái, khen: “Lời ấy đang mừng. Sau đại loạn, dân chúng yên tâm, ngài làm như thế ắt lấy được lòng dân. Trị đại loạn, ai mà ngĩ đến việc gây loạn thì người đó sẽ bị dân coi là địch, sẽ đứng kề vai sát cánh cạnh người, toàn dân hiệp sức. Làm như vậy thật tốt. Có điều, việc khó nhất là lấy được lòng dân, đặc biệt là vùng Tây thành, cư dân hỗn tạp, mỗi người một huyết thống, cứ cho là họ có chung một chủ, nhưng giữa họ thì khó mà chung sống với nhau dễ dàng như dân Trung Nguyên. Đợi đến khi ngài có nhiều dân rồi thì rất có thể nội loạn sẽ bắt đầu phân tranh, nếu không cẩn thận sẽ xảy ra nội phản, điều này cần hết sức đề phòng.”

Sức chú ý của Dương Hạo cuối cùng cũng bị nàng lôi kéo, hắn trịnh trọng gật đầu, nói: “Ta biết, đối với ta mà nói thì dẫu cho sau này có bao nhiêu kẻ địch thì kẻ địch mạnh nhất chính là việc đó. Giải quyết khó khăn đó không dễ dàng gì, dựa vào dân chúng Lô Châu, bắt nộp thuế, thiết lập pháp luật, hôn nhân, thịnh Phật giáo…”

Hắn hít vào một hơi, chậm rãi nói: “Vấn đề này ta đã nghĩ đến từ lâu, chư hầu Tây thành nhiều tạp cư, trước nay đều chỉ khống chế, mỗi một bộ tộc bộ lạc đều có thủ lĩnh, như vậy thì hiển nhiên đỡ hao lực, nhưng một khi những thủ lĩnh đó có tà ý thì bách tính trong bộ lạc đó sẽ hô ứng, tạo nên nội loạn. Thiết lập hộ tịch, trực tiếp quản lý từng hộ, là cách để khống chế trực tiếp các bộ tộc.

Nộp thuế, dẫu là định thuế thấp đến đâu thì cũng bắt buộc phải nộp, như vậy thì dân chúng mới dần dần hiểu rõ được quyền lợi của mỗi người trong bộ lạc. Đặc biệt là trẻ em, thiếu niên và những đứa trẻ được sinh ra sau này, từ nhỏ đã biết được những việc này thì có thể thiết lập nên một tiết độ sứ trong lòng chúng, nộp thuế, cần phải thu trực tiếp đến từng hộ trong bộ tộc”.

Chiết Tử Du khẽ thở dài: “Cách của chàng không quyết liệt, dẫu chăng là cách mà mọi người có thể chấp nhận được, nhưng mỗi bước của chàng đều có tầm nhìn rộng, khiến người khác không biết chàng lại nghĩ chàng là một thủ lĩnh thâm hiểm, đúng là không biết đâu là họa đâu là phúc”.

Dương Hạo mỉm cười nhìn nàng, ánh mắt sáng lên vẻ kỳ lạ: “Nàng không biết đây là anh minh ngút trời hay sao? Căn bản mà nói, những tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bộ tộc không phải là trời phú cho việc tốt hay sao? Nói tầm nhìn của ta rộng, ôi, điều này quả không sai, sở trường duy nhất hơn người của ta không phải là văn và võ công, mà là ở một mức độ nhất định, những việc ta làm thường là xa hơn người khác, cái này… là cái nhất của ta, là cái thiên phú mà có học cũng không có được, sau này.. nàng sẽ hiểu rõ ta hơn”.

Chiết Tử Du cảm thấy lúng túng trước ánh mắt của hắn, thiên phú, những điều mà Dương Hạo nói.. nàng đột nhiên nghĩ thầm: “Chàng đối với ta.. không phải là lợi dụng cái gì chứ, thiên phú, bản năng, dự tính, mắt nhìn xa?”

Nghĩ đến mình, thậm chí nghĩ đến nhân sinh, đều có thể quy thuận, bất giác, nàng có thể học theo người ta, sắp xếp từng bước đi một, Chiết Tử Du không khỏi rùng mình một cái, đột nhiên cảm thấy Dương Hạo không giống như chàng vẫn hay tỏ ra là vô hại trước mặt nàng, cái kiêu ngạo của cô có chút sụt vỡ…

Dương Hạo không biết câu nói của mình có ý khác, có thể khiến Chiết Tử Du hiểu theo hướng khác, hắn tiếp tục giải thích: “Thiết lập luật pháp, chư bộ chư tộc, không kể là Hán Khương, tư pháp nhất định phải được nắm trong phủ tiết độ sứ, nay chư bộ làm loạn, đang cần ta đánh giá, ít nhiều cũng phải nhượng bộ một chút, về điểm này thì họ sẽ đồng ý”.

Nắm vững được quyền tư pháp, dân sự tranh cãi, vụ án hình sự, cần được tiết độ sứ của ta khống chế, đây chính là quyền uy then chốt của tiết độ sứ, điểm này mà giải quyết xong thì tạm thời tiết độ sứ không thể thay được vai trò khống chế của thủ lĩnh, ít nhất cũng có thể ngang tài ngang sức.

Còn có chinh binh. Dân chúng các bộ tộc ở Tây Bắc bình thường đều làm nông, săn bắn, du mục, vào thời chiến thì tập kết binh, nông nghiệp ở đó không phát triển, muốn xây dựng số lượng lớn đồ sộ đội quân thường bị giống như Trung Nguyên, ăn quân lương, điều đó căn bản là không thể, ít nhất là không chống đỡ nổi. Nhưng quân thường bị nhất định cũng phải thành lập một đội, không chỉ là để đề phòng quân ngoại bang, mà đó là điều tất yếu để bảo đảm hệ thống thống trị của nội bộ”.

Xem ra quả thực hắn đã phải trải qua rất nhiều suy nghĩ, lúc nói cũng không được lưu loát, nói đến đây, hắn trầm giọng xuống, nói: “Tu sửa thủy lợi, phát triển nông nghiệp, khai thác công thương, chăn nuôi, trong quá trình này có thể khiến các bộ tộc chư tộc cùng chung sống hòa hợp, hôn nhân và đạo Phật cũng là một cách hay để họ có những quan niệm khác nhau về văn hóa, tập tục cuộc sống. Cùng một cuộc sống, cùng một tín ngưỡng, rất dễ dàng để người ta nảy sinh ra đồng cảm. Có điều phải cần thời gi­an, cần một thời gi­an dài. Nhưng chúng ta có lòng tin, rất nhiều người lao động đã đi sai đường, đi đường vòng, chúng ta đều đã đi qua rồi, nếu như có thể cho chúng ta được hưởng một cuộc sống yên bình thì dù có phải mất bao thời gi­an, cục diện đó cũng không thể thay đổi”.

Chiết Tử Du hạ giọng nói: “Chỉ sợ rằng, không có người nhìn thấy chàng vĩ đại như thế”.

Dương Hạo cười nhạt: “Phàm là việc có lợi thì nhất định có chỗ xấu, nếu như có người muốn phát động chiến tranh với ta thì chỉ cần dung hòa nội bộ của ta thì còn sợ gì nữa?”

Chiết Tử Du lại nhìn Dương Hạo, con người trước mắt nàng nông như một dòng suối nhỏ, nhưng có lúc lại sâu như biển, nàng quả thực không thể đoán được, Dương Hạo có chí khí, chắc chỉ có mình chàng mới biết được trong lòng chàng có những chuyện gì.

Lúc này Dương Hạo mới thở dài lẩm bẩm nói: “Thế nhưng, bao nhiêu chuyện như thế, nói thì dễ, nhưng làm thì rất khó. Đây không phải là điều mà mình ta có thể làm được, ta cần người, cần một số lượng lớn nhân tài, cần một lượng lớn người có thể nghe lời ta, đem tài năng phụng sự ta, nếu không, có kinh nghiệm thế nào đi nữa cũng sẽ khiến ta đi lạc đường, nhân tài ơi…”

Nhân tài đương nhiên là có, không biết mọi người thường nói mảnh đất Tây thành khốn khổ, là nơi khó sống, những người sống ở đó đều là những người nghèo khổ, dã man, thực tế nơi này là cái nôi văn hóa của Tần và Đường, từ khi Tần Chiêu Vương thiết lập nên Lũng Tây, nơi đây trở thành trọng địa của Tây Bắc, vào thời Đường thì Lũng Tây trở thành đệ nhất quân sự của Trường An, văn hóa lẫy lừng, địa linh nhân kiệt.

Vào thời cận Đường, từ khi vào triều trở thành quan văn võ số lượng nhiều hằng hà sa số, sau đó nền văn hóa chỉ nằm trong tay một số ít người, những người này là đệ tử của nhà giàu thế gia, người như thế Dương Hạo không thể dùng, lại không thể ỷ lại vào bọn họ, nếu không dựng hắn làm hoàng đế, xuất hiện ngay trước mắt cũng chỉ là một cái đuôi mà thôi, hậu họa vô cùng.

Nhân tài ơi…

Ta không phải là hoàng đế, không thể lấy sĩ từ trong nhân gi­an, những người này từ nơi nào đến?

***************************

Lý Dục ngửa cổ, uống cạn một hơi hết chén rượu trong tay, nằm say trên trướng, đột nhiên lên tiếng khóc lớn.

Đã từng là một bậc đế vương, nước bị phá rồi, nhà cũng tan rồi, xã tắc đều không còn, con dân đều rơi vào tay người, bị chính tín dân ngày xưa của mình, bị người vợ yêu thương của mình lăng nhục, cả thế giới này còn có ai khốn khổ bằng hắn?

Con tiện nhân đó sau khi vào cung, sau khi trang điểm tắm rửa còn có tâm tình đi dạo, vừa cười vừa nói, nghĩ tới đây Lý Dục vừa thấy xấu hổ vừa thấy tức giận, rượu trên án bị hất một cái, rơi xuống đất vỡ tan tành.

Đêm đó, ả ta còn tự mình giải thích là do hoàng tử Đức Sùng đột nhiên xông vào phòng, may mà thoát thân, nếu không đã bị ô nhục, những lời nói dối trá đó ai mà tin được? Hoàng cung đại nội nội quy thâm nghiêm, phu tử cũng là quân thần, ai dám vô lễ? Khi hắn ở cung hoàng hậu trước mấy cung tần mỹ

nữ chơi trò ‘cẩm hồng động thiên’ thì thái tử nào dám đến?

Mấy ngày này ả ta thường đi Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, Lý Dục đã từng phái người lén đến đó, mỗi lần ả ta đến đó đều vô cớ mất tích một khoảng thời gi­an, không biết đi đâu, gặp ai. Hơn nữa hắn còn nghe ngóng được rằng hôm nay Thánh thượng Triệu Quan gia cho dù ở Nam phủ vẫn thường đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, hành tung cũng rất bí mật, không biết là hắn đi đâu?

Nghĩ như vậy, lẽ nào nữ nhi không biết vô sỉ, sớm đã có qua lại với Triệu Quang Nghĩa?

Lý Dục càng nghĩ càng tức giận, lại nghĩ đến Tiểu Chu hoàng hậu, thật lòng cũng muốn giết nàng, nhưng hắn không dám, giết nàng thì dễ, nhưng hắn làm sao chịu đựng nổi cơn giận dữ của thiên tử đây? Khi hắn phát hiện ra Tiểu Chu hoàng hậu thường hay lui tới Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, mà thánh thượng cũng thường xuyên tới đó, hắn liền phái người đi thăm dò, phát hiện chân tướng thì sẽ ra sao? Người đàn ông đó là không phải là người hắn có thể phản kháng, đến lúc đó chẳng phải tự mình gây khó dễ cho mình hay sao?

Hôm nay ả ta lại đến chỗ Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, nghĩ rằng ắt hẳn là đi cùng quan gia, hai người tình tự với nhau, thật là bức bối…

Lý Dục càng nghĩ càng tức giận, hắn gầm lên một tiếng, gạt phăng chiếc bàn trước mặt mình, bầu rượu trên bàn bị gạt vỡ tung tóe, đám người dưới lén lút sợ hãi nhìn, thấy hắn ngày ngày mượn rượu giải sầu, hôm nay lại say như phát điên, nôn mửa lung tung, tất cả đều tháo lui.

Lý Dục ngẩng khuôn mặt đầy nước mắt, nhìn tấm bình phong đặt đối diện, hắn lại lờ mờ nghĩ tới hoa viên của nước Đường khi xưa, với cuộc sống đầy ý thơ, gió xuân ấm áp, chim nhạn bay lượn. Khi đó là lễ hội thưởng nguyệt, thông kinh lễ phật, đọc thơ ngâm phú, vẽ tranh, ban thưởng tiệc rượu, ca hát vui vẻ, thật vui làm sao, so với hiện tại thì cuộc sống của hắn giờ như trong tù, chỉ thiếu mỗi sợi xích buộc vào hai chân, khiến người ta cảm thấy thật thương cảm, phẫn nộ đau thương, không nén nổi lên tiếng ngâm: ” Khi nào lại xuân hoa thu nguyệt, việc đã qua nào biết được bao nhiêu, căn lầu nhỏ đêm qua lại có gió Đông, quay đầu nhìn cố quốc trong ánh trăng đêm…

Điêu lan ngọc tồn tại chỉ là hồng nhan thay đổi. Hỏi quân có bao nhiêu sầu, giống như nước sông Gi­ang Xuân…”

Lý Dục chậm rãi ngâm, lệ ngân đầy trên mắt, đột nhiên như có tiếng bước chân nhẹ nhàng vẳng đến bên tai, hắn hét lớn: “Ai cho ngươi vào đây, mau cút ra!”

Lúc đó, mũi hắn ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng, đó chính là mùi nước hoa của Tiêu hậu. Lý Dục nhanh như chớp ngồi thẳng lưng, giống như một con mèo gặp thiên địch, uốn cong người, thở dốc, mắt không dám mở ra.

Hắn không dám nhìn thấy vẻ kiều diễm tươi cười của nàng, không dám nhìn dáng điệu thon thả của nàng, đó vốn là của hắn, nhưng hiện đã thuộc về một người còn cao hơn hắn một bậc, đó là người hắn không thể đi tranh chấp, hắn vô kế khả thi, không dám nhìn nàng, giống như chính mình là một nỗi ô nhục vậy, hắn chỉ muốn tháo chạy…

Lý Dục lồng ngực phập phồng, hít thở hồi lâu, mãi sau hắn mới đứng thẳng lên, lảo đảo đi về phía Tiêu hậu.

“Đứng lại!”

Tiểu Chu hoàng hậu nghe thấy vậy cảm thấy trong lòng tràn đầy bi thương.

Đây là người đàn ông của nàng, từ khi nàng mười lăm tuổi, nàng đã bầu bạn hầu hạ người ấy, trong tim nàng, con người hắn đầy đủ tài hoa, ưu tú kinh ngạc, là người đàn ông ưu tú nhất trong thiên hạ. Nhưng khi quân địch kéo đến, hắn càng ngày càng khiến cho nàng thất vọng. Trên thế gi­an không có anh hùng nào là bất bại, gặp những kẻ địch càng mạnh thì hắn lại càng không thể chạy trốn, không phải người đàn ông mạnh mẽ nhất mới được coi là đàn ông, cũng nên sống sao cho có khí phách, sống sao cho giống một người chân chính. Trong lòng hắn đầy mâu thuẫn, những thứ trước đây nàng cho rằng không thể nhìn ra, thì bây giờ nó lại lù lù trước mặt.

Lý Dục từ từ đứng lại, đầu cũng không quay lại.

Tiểu Chu hậu sau khi nhìn một cái, bèn quay sang nắm chặt vai của hắn, nói: “Đi theo ta!”

Lý Dục giận dữ, trong lòng vị tài tử mẫn cảm sớm đã có dự liệu, không thể bị kích thích được nữa, nàng bao giờ mới lại dùng những ngôn ngữ như vậy để nói hắn? Trừ phi là bám vào người đó, làm hắn không nhận ra dưới tình yêu hiện nay thì như vậy có là uy phong?

Lý Dục bắt tay rồi nói lớn: “Đây cũng là nhà của ta, ta nghĩ đi đâu thì đi chứ, tại sao ta lại phải đi theo nàng?”

Tiểu Chu hoàng hậu sững sờ, lệ nhanh chóng chảy xuống, nàng nức nở nói: “Chàng cả ngày ngồi trong phòng uống rượu, ngoài việc tự oán thán bản thân thì có thể làm được cái gì? Không phải là ngày từ đầu chỉ biết mỗi vui vẻ hay sao, không biết cầu trị, đến việc tồn vong của quốc gia người cũng không quan tâm, bị người ta cho vào tù là xong? Chàng chỉ biết hắn là người xã hội đen thôi, nhưng có thể lấy việc của tiểu thư làm ví dụ cho mình học hỏi được không?”

Tiểu Chu hoàng hậu phẫn nộ, những giờ phút kiêu ngạo nhất của hắn đã tiêu tan, hắn lại quay người bỏ đi, Tiểu Chu hoàng hậu phải ngạc nhiên đi theo.

***********************************

“Nàng…nàng nói gì?”

Lý Dục nghe mà trợn mắt ngạc nhiên, sau lưng toát mồ hôi lạnh, hồi lâu sau mới tỉnh lại nói: “Lạc Tuyển xuất kinh? Vậy… nàng thường đi đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu không phải là đi với quan gia, mà là đi bàn chuyện này sao?”

Tiểu Chu hoàng hậu trợn tròn mắt, không dám tin nói: “Chàng nói gì?

Chàng…chàng cho rằng ta đi đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu là đi lăng nhăng thông dâm với người khác ư?”

Lý Dục cũng biết mình nói lỡ, không nói gì nữa. Tiểu Châu hoàng hậu sau khi trừng trừng quan sát hắn một hồi lâu mới cười lạnh nói: “Chàng được lắm, được lắm, hóa ra trong mắt chàng ta là một người như vậy. Ta nói thế nào người cũng cứ u sầu không vui, mỗi ngày đều ở trong phòng uống rượu say khướt, hóa ra là do chàng nghĩ… Haizzz, chàng đã cho rằng ta như vậy thì sao không mượn oai phong của người chồng ra mà trừng trị kẻ thông dâm? Bản lĩnh của chàng chỉ dừng lại ở việc mượn rượu giải sầu, ngồi trong phòng buồn rầu cả ngày hay sao?”

Lý Dục bị nói cho cảm thấy hổ thẹn, cầu khẩn nói: “Nàng… nàng không cần nói nữa, nàng không biết mấy ngày nay ta đã phải chịu biết bao dày vò..”

Tiểu Chu hoàng hậu nhìn thấy dáng vẻ như vậy của hắn, mái tóc bạc phơ lộ ra, trong lòng không khỏi thấy thương xót, đành im lặng không nói gì. Lý Dục lại vui mừng nắm lấy tay nàng, cảm động nói: “Nàng cân nhắc chuẩn bị kĩ, muốn thoát ra khỏi Biện Lương, xem ra nàng và quan gia thực sự không… thực là ta đã trách nhầm nàng…”

Tiểu Chu hoàng hậu buồn rầu nói: “Chàng quả nhiên là đã trách nhầm ta, ta biết. Nhưng trong mắt chàng, ta chỉ như một bức cổ họa, là một vật rất quý, nhưng có gì khác biệt nào? Chàng có bao giờ nghĩ ta là một người sống sờ sờ, cũng có những suy nghĩ của ta, chàng có bao giờ nghĩ cho những suy nghĩ của ta không?” Nàng vừa nói, nước mắt chảy xuống lưng tròng…

Lý Dục mặt đỏ tới mang tai, nói: “Ta sai rồi, đều là ta sai rồi. Nàng từ ngày vào cung nương nương, có đúng là không bị quan gia làm nhục đến sự trong sạch của nàng?”

Tiểu Chu hoàng hậu tức giận, vung tay ra khỏi tay hắn, nói: “Điều chàng quan tâm chỉ có cái đó thôi sao? Sự an nguy của ta chàng không từng bận tâm đến đúng không? Chàng biết rồi còn cố tình hỏi thế? Nếu như ta thực sự đã bị Triệu Quang Nghĩa làm nhục, chàng có thể đi đòi lại lẽ phải cho vợ chàng được không, hay chàng chỉ coi ta như mảnh giấy vứt đi?”

Lý Dục lúng túng nói: “Ta… đương nhiên là ta sẽ để nàng trong lòng. Nếu như không quan tâm đến nàng thì ta… ta làm sao lại cứ truy hỏi chuyện đó?”

Tiểu Chu hoàng hậu nhìn hắn - một kẻ hèn, rồi lại đành bất lực thở dài nói: “Ta đã nói rồi, ngày hôm đó không biết tại sao hoàng tử lại điên cuồng đi tìm hắn, trong nội cung đều chặn không nổi, Triệu Quang Nghĩa không làm gì được đành bỏ ta, tiếp đó ta phải đi mới thoát khỏi đại nạn”.

Lý Dục cười mừng rỡ, nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt. Đúng là ta đã trách nhầm nàng”.

Tiểu Chu hoàng hậu buồn bã nói: “Có thể chạy trong chốc lát, không thể thoát được cả đời, ta tránh được tháng này nhưng tháng sau thì làm thế nào? Nước đã tan, nếu như Triệu Quang Nghĩa muốn cưỡng ta thì phận nữ nhi yếu ớt có thể kháng cự được không? Vì vậy mới phải tìm cách tháo chạy”.

Vừa nói đến việc tháo chạy, Lý Dục đã thấy căng thẳng: Trong thiên hạ này ở đâu chả là ở trong lòng bàn tay của Tống, chúng ta có thể chạy đi đâu? Đại Lý? Khiết Đan? Hay là chạy ra nước ngoài? Nhật Bản? Chúng ta chạy là có thể thoát sao? Quan gia một khi đã phát hiện thì ắt sẽ phái đại binh đuổi theo, chúng ta có mọc cánh cũng sẽ lại rơi vào lưới của hắn, tuyệt đối không có đường thoát”.

Tiểu Chu không chịu nổi cả giận: “Vậy chàng có kế gì? Đợi đến khi cái thân này bị hắn làm nhục rồi thì chàng càng nhẫn nhịn nén tức, tiếp tục làm quận công ở Lũng Tây ư?”

Lý Dục nghe nói vậy mặt đỏ bừng, nghe nói đến Lũng Tây, hắn nhớ lại một chuyện, nghi ngờ nói: “Không đúng, Dương Hạo cũng là thần tử của nhà Tống, hắn hà cớ gì phải chịu mạo hiểm đi cứu chúng ta rời khỏi đây? Hắn mạo hiểm giúp chúng ta, sắp xếp giúp chúng ta, mạo hiểm như vậy chẳng lẽ… chẳng lẽ…”

Tiểu Chu hoàng hậu nghe thấy những lời này của hắn mắt không khỏi dướn lên, vội vàng hỏi hắn: “Chẳng lẽ thế nào?”

Lý Dục nghi ngờ nói: “Chẳng lẽ Dương Hạo cũng mê đắm sắc đẹp của nàng, muốn gây chú ý với nàng?”

Tiểu Chu hoàng hậu trợn to hai mắt, mặt dần lộ ra vẻ tức giận không thể nói được gì, rồi đột nhiên nàng đứng thẳng dậy, tát vào mặt Lý Dục một cái!

Chương 436: Rối ren (1)

Cái bạt tai đó không đánh trúng mặt Lý Dục, Tiểu Chu hoàng hậu đứng đó nắm chặt tay, trong lòng đầy đau khổ nói: “Chàng… trong lòng chàng chỉ nghĩ được những thứ này thôi sao?”

Lý Dục lúng túng nói: “Ta… làm sao nàng trách ta được chứ, nếu như không phải vì lý do này thì Dương Hạo việc gì phải mạo hiểm để cứu chúng ta?

Không nghĩ đến thể diện của Triệu Quang Nghĩa, Dương Hạo… rốt cuộc là nghĩ thế nào?”

Tiểu Chu hoàng hậu chậm rãi lắc đầu nói, kiên quyết nói: “Ta không biết, từ khi mười lăm tuổi vào cung, ta chỉ là người ca múa trong những bữa tiệc của triều đình, thơ ca nhạc họa, rất nhiều việc lớn trong triều đình ta đều không hiểu được. Dương Hạo tại sao lại cứu chúng ta, hoặc giả xuất phát từ lòng căm phẫn thì cũng không giống như những gì chàng nghĩ”. Lý Dục ngoan cố nói: “Làm sao nàng biết?”

Tiểu Chu nói: “Do trong thiên hạ này số mỹ nữ nhiều không kể xiết, bên cạnh Dương Hạo có biết bao là mỹ nữ, hắn không phải là người tham sắc, cũng không phải là người vì sắc mà làm chuyện dại dột, không để ý đến hậu quả. Do những ngày ta đi đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu có gặp hắn, nếu như hắn có tà ý với ta thì lẽ nào còn để ta đi? Tại sao không tranh thủ thời cơ?

Thành Biện Lương rộng lớn có mất đi một vài người như ta thì cũng chẳng phải là chuyện lớn, nhưng mất đi quận công Lũng Tây thì lại là chuyện chấn động triều đình, hắn vì sao vẫn cương quyết giúp chàng bỏ chạy? Đem cả nhà chúng ta đi thì đã đành, nhưng lại còn đem theo cả Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm là những trung thần nhà Đường nữa? Cách làm này là cách một tên tham sắc làm hay sao?”

Lý Dục nghe có chút tức khí, hắn tuy rằng không để ý đến chính sự, cả ngày toàn văn thơ, nhưng rốt cuộc cũng đã từng làm vua, bao việc đại sự cũng đã qua tay, hơn nữa Lâm hổ tử còn là trung thần của hắn, một kế sách đơn giản như vậy mà hắn cũng bị trúng kế, người này có thể nói là cực kỳ đa nghi.

Giờ trong đầu hắn chỉ toàn là lửa giận, chỉ nghĩ đến việc mình bị cho cắm sừng, bị Tiểu Chu tố giác, rồi nghĩ đến bao điểm nghi vấn chưa nghĩ đến, hắn trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới từ từ nói: “Dương Hạo có tâm tạo phản!” “Chàng nói sao?” “Nhất định là như vậy!”

Lý Dục càng nghĩ càng thấy đúng, rất bình tĩnh nói: “Dương Hạo là tiết độ sứ, ngồi ở đất Tây Bắc, tung hoành ngang dọc, Lý Quang Duệ, Dương Sùng Huấn, Chiết Ngự Huân được coi là ba Tống thần, trên thực tế vốn là chư hầu, Dương Hạo há chẳng biết hay sao? Hắn không có ý cướp Trung Nguyên, nhất định phải có ý muốn cắt Tây vực, hắn muốn giúp chúng ta rời khỏi đây hay là muốn ta đem đến cho hắn vài thần dân nhà Đường, chẳng lẽ… chẳng lẽ muốn vực ta dậy, trùng tu lại nhà Đường?”

Lý Dục càng nghĩ càng thấy hưng phấn, “Nếu như hôm nay nước Thục có khoảng hơn mười vạn binh tạo phản, triều đình dốc sức diệt trừ, lúc đó nếu như ta có thể hiệu triệu binh cũ, tái khởi Đông sơn, đến khi đó triều Thục loạn rồi, Gi­ang Nam cũng loạn, Dương Hạo ở Tây Bắc sẽ nhẹ nhõm, đại triển quyền cước, hắn muốn lợi dụng ta, hắn do đó mới cứu chúng ta ra khỏi đây”. Tiểu Chu hoàng hậu lắp bắp nói: “Dương Hạo có dã tâm thế sao?”

Lý Dục vui vẻ nói: “Nhất định là thế, nhất định là thế. Hắn ta muốn lợi dụng ta, ta làm sao không thể lợi dụng hắn được. Haizz, một khi rời khỏi cái lồng này nói không chừng sẽ có cơ hội khôi phục lại nước Đường, tái lập đế vương”.

Nói đến đây, hắn lại đứng lên suy tính, cẩn thận ngó Tiểu Chu hoàng hậu, nói: “Nàng bảo… hắn… có phải là hắn thật sự muốn đem chúng ta ra khỏi Biện Lương này không? Hắn giờ ở tận vùng Tây Bắc, có binh có đất, một khi sự việc thất bại thì coi như là đã công khai trở mặt với vua, nhưng đối với chúng ta mà nói thì cũng là những người chết không có chỗ chôn rồi”.

Tiểu Chu hoàng hậu oán hận nói: “Vậy chúng ta đành ở lại Biện Lương hay sao? Chàng cam tâm để ta bị Triệu Quang Nghĩa nhục mạ sao?”

“Tất nhiên là không cam tâm!” Vừa mới nghĩ đến việc mình có cơ hội làm lại hoàng đế, Lý Dục đã kích động, cái tôn nghiêm của hoàng đế khôi phục lại được đôi chút, lập tức không hề do dự, nhưng rồi lại lo lắng đứng lên: “Vậy… nàng nói ta còn cơ cơ hội không? Những đại thần đồng ý theo ta giờ không còn mấy, Gi­ang Nam đã bị nhà Tống chiếm mất rồi”.

Nói đến đây, hắn đột nhiên khóc nức nở, nói: “Hận thì hận, mới đầu đã ngộ sát các trọng thần Lâm Nhân Triệu, Phan Hữu, Lý Bình, nếu khi quân Tống kéo đến thành trẫm nghe lời Trần Kiều, liều chết giữ thành Kim Lăng thì với sáu vạn quân tinh nhuệ, có thể dùng lương thực trong hai mươi năm, yên lặng đợi động tĩnh, trọng thần và bách tính cùng hưởng ứng, há rơi vào tình trạng như thế này. Nếu như lại hiệu triệu binh cũ, e rằng con đường phía trước gi­an nguy trùng trùng, cuối cùng để Lý Dục phải nước mắt như thế này, càng nghĩ càng đau lòng. Tiểu Chu hoàng hậu kinh ngạc mở to mắt, Lý Dục không có nỗi đau giống của những người đàn ông thường tình khác. Trong lòng nàng có chút mỹ hóa, chỉ cảm giác hắn là một vị hoàng đế khác so với những vị hoàng đế khác tự cổ chí kim, là một người có biểu hiện tình cảm, nay nhìn lại, lại thấy phẫn nộ không xiết. Hắn có điểm nào là có khí chất anh hùng? Cơ hội lớn đến ngay trước mắt hắn lại nghĩ… đúng là khác hẳn người thường.

Trán của Tiểu Chu hoàng hậu nổi gân lên, tim đập thình thịch, nàng nghiến răng trèo trẹo: “Ta hỏi chàng, chàng có đi hay không?”

Lý Dục chần chừ một hồi lâu mới hung hăng nói: “Nếu như sống không bằng chết thế này thì còn vui vẻ nỗi gì? Chúng ta đi thôi!”

Tiểu Chu hoàng hậu vui mừng nói: “Được, vậy chàng nghe kế hoạch của

thiếp, chúng ta cứ như thế, trên danh nghĩa là mời Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm cùng người trong phủ đi dự yến tiệc, cùng với các cựu thần sẽ dốc hết sức mời họ, nhưng… nếu như có chút gì đó không đáng tin cậy thì không thể gọi họ, để tránh xảy ra họa lớn!”

Tống hoàng hậu đã rời khỏi cung hoàng hậu, ở trong một cung điện có ít người qua lại, duy tu cũng không kịp, bên trong đã hư hỏng nhiều. Trước khi nàng chuyển đến, nơi đây bài trí hết sức đơn giản, trong cung còn có mùi dầu, trộn lẫn trong không khí ẩm mốc, hết sức khó ngửi. Tống hoàng hậu nằm trên giường, mặt mày ảm đạm, hai mắt vô thần.

Triệu Đức Chiêu, Triệu Đức Phương, công chúa Vĩnh Khánh, ba người ngồi quanh bà, đến nay người ở bên cạnh bà đã ít đi nhiều, những người trong cung tuy vẫn nghe lời sai bảo của bà, nhưng vẫn thường âm thầm tỏ ý không đồng ý, do vậy khi được lệnh cho lui đi nghỉ, bốn mẹ con mới có thể ngồi với nhau chuyện trò.

Triệu Đức Chiêu đỏ mặt nói: “Nhị thúc đã nảy sinh lòng nghi ngờ, nay chúng ta ngoài mặt tự do nhưng trên thực tế là bị gi­am lỏng, bất kể đi đâu thì cũng đều có người của nhị thúc đi theo. Nương nương, Đức Phương và Vĩnh Khánh muội có ít cơ hội gặp nhau, trừ phi là do nương nương sinh trọng bệnh, còn không thì khó có cơ hội gặp mặt mọi người”.

Triệu Đức Phương oán hận nói: “Đâu chỉ đại ca, đến đệ là trẻ con cũng bị bọn trong cung kiểm soát gắt gao, không thể ra ngoài cung, cả ngày đều bị gi­am giữ trong viện, ngẩng đầu chỉ thấy được một khoảng trời nhỏ, chẳng khác nào bị ngồi tù”.

Tống hoàng hậu cười khổ não: ” Nay ta đã ngã bệnh rồi, chỉ có điều là ta bị bệnh quan gia mới không ngăn cản mẹ con ta gặp mặt”.

Nàng kéo tay Triệu Đức Phương, mắt đỏ hoe: “Cung cấm đối với mẹ không có vấn đề gì, với lại đây là nhà của ta, còn cần phải đi đâu nữa? Đức Phương, mẹ thấy chúng ta đều vẫn còn tốt, trong lòng cũng thấy kiên định hơn nhiều rồi. Nơi này không thể ở lâu, quan gia đã có ý nghi ngờ các con rồi, nếu như bọn họ có tà ý với chúng ta, thì bản cung có chết cũng không đủ, nhưng các con thì phải sống.. Ta, ta ở dưới cửu tuyền thì làm sao gặp mặt phụ thân của các con được”.

Nói đến đây, nàng nước mắt lưng tròng, Vĩnh Khánh phẫn nộ nói: “Nói thế có ích gì, ông ấy đến con còn không nhìn được, đến nay có gì là con không nhìn thấy, cái gì là không nghe thấy, như vậy so với cái chết thì có khác gì nhau?”

Nàng liếc Triệu Đức Chiêu một cái rồi nói: “Muội chỉ hy vọng đại ca có thể phản kinh, ai mà biết được những dự liệu của Dương Hạo, đại ca căn bản là không đủ sức chỉ huy những tướng sĩ đó, hôm nay chúng ta chỉ còn có một tia hy vọng duy nhất là Dương Hạo, hắn đã đi Tây thành rồi, trong tay hắn có binh quyền, cái chức tiết độ sứ của hắn là do chúng ta tặng cho hắn, chung quy nên có đi có lại mới đúng”.

Tống hoàng hậu nói: “Nhưng… nếu như hắn ở Tây bắc thì tình hình ra sao rồi? Chúng ta căn bản không biết, cả ngày bị bọn chúng giám sát, chúng ta không nghe được chút tin tức gì, càng không th ể liên lạc được với hắn, bị nhốt ở đây thì có thể làm được gì?”

Triệu Đức Chiêu và Triệu Đức Phương nhìn nhau: Nay thiên hạ đã ở trong tay Triệu Quang Nghĩa, ngôi hoàng đế của hắn đã ngồi vững, bọn chúng ở đây còn có thể thay đổi cục diện thế nào được? Sau một hồi lâu, Vĩnh Khánh công chúa đột nhiên nhảy dựng lên, ánh mắt sáng rực: “Muội có cách rồi.”

Tống hoàng hậu cùng đám Triệu Đức Chiêu đều đồng thanh nói: “Cách gì?” “Xuất gia!” “Cái gì?” mấy người cùng đồng thanh đáp.

Vĩnh Khánh công chúa nói: “Tiên triều đã từng có biết bao người xuất gia, trong đó có không ít trường hợp là những người trốn tránh nội chiến trong cung, bọn họ có thể, muội nghĩ cũng có thể. Nếu hôm nay chúng ta bị bức đến mức này thì chẳng khác nào bị cầm tù, đi một bước cũng khó, nhưng nếu như chúng ta xuất gia làm ni cô, theo tiền lệ cũ, thì phải xa rời cung điện, tiến vào đền chùa”.

Hắn có tài nhưng cũng không có cách nào suốt ngày cử tai mắt theo chúng ta được, chúng ta cũng biết trong cung có nhiều người phụ trách giám sát ta, nhưng đó là những ngày khổ hạnh, bọn họ đều không muốn. Do đó nếu như có thể lén thì lén, nếu như muội xuất gia thì những ngày đó sẽ càng khổ hạnh, mặc dù khó tránh khỏi tai mắt giám sát nhưng trong miếu thì bọn chúng cũng bị hạn hẹp hơn, chúng ta sẽ thoải mái hơn bây giờ rất nhiều, hoặc giả… rất nhiều tín đồ tới dâng hương, chỉ cần cẩn thận thì sợ gì không có cách liên lạc với bên ngoài?”

Tống hoàng hậu kinh ngạc nói: “Tuyệt đối không thể, quan gia đang muốn con kết hôn, muốn gả con cho đứa con thứ ba của Ngụy tướng công, con chưa chắc đã không thể có được tự do. Đây chỉ là việc trước mắt, chúng ta lẽ nào không đợi được? Nhưng nếu như xuất gia thì đó sẽ là việc cả đời của con, cả đời phải tụng kinh niệm phật?”

Chương 436: Rối ren (2)

Vĩnh Khánh cười lạnh nói: “Bà nội tìm cho con một đức lang quân! Con nghe nói con trai quý của Ngụy tướng quân là đồ keo kiệt bủn xỉn, đầy thủ đoạn, tiếng dữ đồn xa. Sáu năm trước Ngụy tướng công qua đời, hắn ỷ lại vào khối tài sản ông ấy để lại ôm ẵm hết, không chia cho anh em một chút nào”.

Chiếm gia sản mà không nhả ra, không chia cho anh em, bây giờ người nhà hắn còn đang theo hắn lên tòa án, ai cũng khinh bỉ hắn, người như vậy con không cam tâm lấy làm chồng. Chỉ có điều là do đích thân bà nội chỉ định, phụ thân phải hiếu thuận, không dám trái lời, không dám hủy hôn.

Khi đó con cũng không có cách nào khác, cũng không muốn xuất gia, nhưng nay đã khác rồi, tiền đồ của Vĩnh Khánh làm sao lại thế được? Con xuất gia đúng là nhất cử lưỡng tiện.

Nếu không, nghe nói rằng quy tắc của nhà Ngụy tướng công đó rất nghiêm, con mà bị gả vào đó, lại gặp phải một người chồng vô sỉ thì làm sao còn có cơ hội lấy thông tin đây?”

Tống hoàng hậu và Triệu Đức Chiêu bốn mắt nhìn nhau, không nói câu gì, Triệu Đức Phương tuổi tác còn nhỏ, không muốn xuất gia, còn không rõ rốt cuộc có ý gì, v ừa nghe thấy chị mình có ý như vậy để nghe ngóng tin tức bên ngoài, lập tức vỗ tay nói: “Con tán thành, tỷ tỷ thật thông minh, chúng ta cứ làm thế đi”.

Triều Bắc Tống có rất nhiều người xuất gia, Triệu Quang Nghĩa có tất cả sáu người con gái, trong đó có hai người đã xuất gia thành ni cô, một người ở ẩn, nhưng lịch sử nay đã thay đổi, Vĩnh Khánh công chúa còn chưa xuất thế đã trở thành công chúa ni cô đầu tiên của nước Tống.

Công chúa Vĩnh Khánh đã quyết, lập tức lấy kéo ra cắt phăng mái tóc, Tống hoàng hậu thất sắc nói: “Vĩnh Khánh, con làm sao lại lỗ mãng như vậy, chúng ta phải từ từ bàn bạc đã”. “Còn có thể thương lượng gì nữa? Cứ dùng dằng mãi không thể làm chuyện đại sự”.

Vĩnh Khánh công chúa trầm giọng nói: “Con sẽ nói với hắn, Vĩnh Khánh quá đau lòng nên không muốn vướng bụi trần nữa, nương nương bệnh nặng không gượng nổi, Vĩnh Khánh càng thêm đau lòng, nguyện sẽ cắt tóc đi tu, sẽ ngày đêm cầu phúc cho phụ thân, cầu cho thiên hạ được thái bình. Bất kể hắn có đồng ý hay không thì Vĩnh Khánh từ nay trở đi sẽ là người xuất gia!” Nói rồi nàng lại lấy kéo cắt phăng mái tóc xuống đất…

**************

“Tìm thống soái của Khương, Thổ Phiên, Hồi Hột, Khiết Đan, còn cả bộ tộc người Hán nữa, tìm hiểu dân số, tập quán sinh hoạt, hoặc mục canh, nhanh chóng hoạch định khu vực, đồng thời tiến hành cải tổ. Việc này tự ngươi đi giải quyết” Dương Hạo nói.

Đinh Thừa Tông mỉm cười nói: “Như vậy tốt lắm, càng bận rộn bao nhiêu ta mới càng cảm thấy mình không phải là kẻ vô dụng, huống hồ đây là chuyện của huynh đệ”.

Sắc mặt của hắn quả nhiên rất tốt, thần khí cũng dần khôi phục lại được như xưa. Dương Hạo thấy vui vẻ, gật gật đầu, mắt nhìn vào Đinh Thừa Tông, rồi quay người nói với Lâm Bằng Vũ: “Lâm lão, việc binh sĩ do ông phụ trách. Ngoài đoàn binh thường bị này thì mỗi bộ lạc, những đứa trẻ tuổi từ bảy đến mười bốn cũng đều phải tiến hành luyện quân định kỳ, đây là việc rất quan trọng, hộ tịch vẫn chưa xây dựng xong, hai việc này đồng thời phải tiến hành song song.”

Lâm Bằng Vũ đang xử lý một đống tài liệu lớn nghe thấy vậy liền ngẩng đầu lên đồng ý: “Tiểu Vũ, Đông Nhi bao giờ tới?” Mục Vũ hỏi. “Tỷ tỷ của ta đang tới, chắc khoảng ngày kia sẽ tới Ngân Châu”. “Vậy thì tốt!”

Dương Hạo nói: “Phạm tiên sinh, vũ khí trong kho của phủ và số lượng lương thực cần làm rõ ràng. Còn nữa, số binh sĩ thương vong cần phải được chăm sóc tốt, định cư ngay trong thành Ngân Châu, sau cuộc đại chiến, trong thành rất nhiều quả phụ, có thể tìm người tác hợp cho họ, khiến nam nữ đều có chỗ dựa, đã không thể dùng việc kinh doanh mưu sinh thì phải đảm bảo cho họ, việc này có liên quan đến tinh thần của quân Lô Châu chúng ta, chớ có sơ xuất”.

Doanh Điền phụ trách việc ở Tần Gi­ang, Lô Vũ Hiên, thấy mấy vị quan đang vây quanh án nghe dặn dò, cũng nhanh chóng vâng một tiếng: “Thái úy xin cứ yên tâm, việc này thần đã sắp xếp rồi, sau này sẽ đích thân quan tâm”.

Lúc đó, Diệp đại thiếu hớt hải xông vào nói: “Thái úy, mật tín Đông Kinh”.

Mọi người trong sảnh đang bận rộn đều phải ngẩng đầu lên ngó Dương Hạo, Dương Hạo vội vàng mở ống trúc, lấy thư ra, phát hiện bức thư này dùng mật mã của quân khác viết, Dương Hạo vội bảo Mục Vũ lôi ra, tự mình nằm sấp trên án dịch, xem hồi lâu mới từ từ đứng lên, trên mặt lộ vẻ nửa cười nửa không.

Trong sảnh im ắng, tất cả mọi người đều đang dõi theo hắn, Dương Hạo cười ha hả nói: “Nhìn cái gì, có rất nhiều việc đang đợi đi làm kìa, phải dốc sức làm cho thật tốt”. Nói rồi đem lá thư ra đốt sạch sẽ.

Lúc này đây bảy tám cỗ xe đang hướng về phía thành Ngân Châu, nhìn thành Ngân Châu dựng đứng từ đằng xa, Thúc Đại Lang đang ngồi trên xe.

Trên tay hắn là một tấm lụa tơ tằm mỏng manh, nhìn hồi lau, Thúc Đại Lang mới đốt trụi tấm lụa đó, lẩm bẩm nói: “Cái tên Dương Hạo này, quả là có bản lĩnh làm như vậy sao? Bọn chúng… quả nhiên là đã thoát khỏi Biện Kinh…”

Thúc Đại Lang kinh ngạc trước tài dự đoán của Dương Hạo về những chuyện thế này, có điều sự chú ý chủ yếu nằm ở việc hắn có thể tận dụng được bao nhiêu điểm tốt ở mỗi người. Thúc Đại Lang khẽ thở dài, trầm ngâm hồi lâu, hắn mới lắc đầu nói: “Có điều… Dương Hạo cẩn thận đến mấy cũng có sai sót, hoặc là… hắn còn chưa đủ tàn nhẫn. Muốn hiệu triệu cố quân của nước Đường, người đó chắc gì đã còn sống; muốn dùng cố binh của nước Đường thì người đó càng không thể sống, còn có con trai hắn. Tên ác nhân này, hãy để ta xử lý”.

Mắt hắn lộ ra đầy sát khí, hắn nhấc bút lên, lấy một tấm lụa, viết lên đó một bức thư mà ai cũng không đọc hiểu, sau đó nhét vào ống trúc, buộc vào con chim ưng. Chim ưng tung cánh bay đi, hướng về phía thành Ngân Châu… rồi đến phủ của Khánh Vương, nay đã thuộc phủ của Dương Hạo.

Dương Hạo rời khỏi phủ, đích thân dẫn binh đi tuần quanh Ngân Châu một lượt rồi tiến hành gia cố thành, tốc độ khẩn trương, không khỏi gật đầu ưng ý. Hắn nhìn ra bốn phía rồi nói với Lý Nhất Đức: “Lý đại nhân, hai ngày nay đã bận rộn quá rồi, không kịp đi gặp người kia, không biết tình hình hiện tại thế nào rồi?”

Lý Nhất Đức hiểu cái người mà Dương Hạo nhắc đến là ai, hắn cười nói: “Bẩm thái úy, hạ quan lập tức đưa cha con hắn chuyển vào ở sâu trong thâm trạch của Lý gia, ngoài việc sắp xếp người trông coi, hạn chế hành động của bọn chúng, cơm ăn vẫn không hề bạc đãi bọn chúng thái úy cứ yên tâm”.

Dương Hạo vui vẻ nói: “Rất tốt, Chiết cô nương đã mơ hồ nghe nói người trợ giúp cho Khánh Vương là một người Hán, cũng đã từng hỏi ta. Dù Lưu Kế Nghiệp là người Hán, không qua lại với Lân Châu, nhưng họ rốt cuộc cũng là người một nhà, phu nhân hắn lại là chị em song sinh của người ở Phủ Châu, nếu như Chiết cô nương biết có một vài việc ta không tiện đi làm”. Lý Nhất Đức cười nói: “Thái úy muốn thu phục người này sao?” “Không sai”.

Lý Nhất Đức bùi ngùi thở dài nói: “Hắn vốn là người họ Dương ở Lân Châu, nhưng bảo hộ cho tên họ Lưu người Hán, không qua lại với nhà thần. Người thế này xin người cứ yên tâm, hơn nữa, dù nói hắn không vãng lai với nhà Dương ở Lân Châu thì hai nhà Chiết - Dương cũng đã đủ mật thiết, nếu như hắn không thuận theo thái úy thì xử lý thế nào cũng là việc khá đau đầu đấy”.

Dương Hạo đã có tính toán trong lòng, đối với Dương Kế Nghiệp, hắn muốn thu nạp. Nhưng hắn cũng biết muốn người này quy tâm thì không phải cứ lấy của cải ra là giải quyết được, Dương Kế Nghiệp là giống tên Quan Vân Trường kia, Tào A Man đối với hắn không thể nói là không tốt, cuối cùng giết đại ca bên cạnh.

Dương Kế Nghiệp không phải là kẻ tâm địa đen tối, còn nhớ việc ghi chép về hắn, người này do nhìn thấy xu thế của nhà Tống ngày càng lớn, mới khuyên vua nên bỏ chạy đầu hàng, để bảo toàn tính mạng, nhưng vua Lưu Kế Nguyên không đồng ý, hắn đành chết để bảo vệ thành. Mãi đến khi thành bị phá, Lưu Kế Nguyên mới bị quân Tống bắt, hắn mới chịu buông vũ khí, khóc ầm ĩ, từ đó mới hàng nhà Tống.

Đương nhiên, việc đó chỉ là do sử sách ghi chép lại, Dương Hạo cách thời đó đã khá xa, dã biết rất nhiều thứ trong dân gi­an, cũng biết tự hào về những gì triều đại này có, những triều khác không, có rất nhiều lời nói thực ra không đúng, nhưng sử sách ghi chép lại hoàn toàn không chuẩn, hắn cũng quen rồi Chính vì như thế mà hắn cũng chỉ biết ôm hy vọng.

Nếu như Dương Kế Nghiệp thực sự là trung nghĩa vô song, đến chết vẫn không hàng thì hắn cũng không thể giết người này. Một khi giết hắn, có nghĩa là tự mình đặt một quả bom cho mối quan hệ hai nhà Dương - Chiết, thiệt lớn hơn hại, huống hồ đã biết đường đi rồi thì sau này không cần phải thu nạp người này, cứ cho người này cuối cùng vẫn là quy Tống, quyết định vận mệnh Tây Bắc có dựa vào thực lực của Dương Hạo hay không, hắn có lợi dụng mâu thuẫn giữa Khiết Đan và Tống hay không, nước Tống cũng có rất nhiều tướng giỏi như Dương Kế Nghiệp, cũng không sợ một đối thủ như hắn. Lý Kế Thiên ở Trung Nguyên đã thành công trong việc xây dựng thế lực cho mình ở Tây Hạ, bản thân mình còn không bằng một tên mọi?

Nghe xong lời Lý Nhất Đức, hắn chỉ mỉm cười, nói: “Chỉ cần thử mới biết được, đi thôi, chúng ta đi gặp hắn”.

Hai người xuống thành, phi lên ngựa, chạy về hướng nhà cũ của Lý gia, đột nhiên có một người thúc ngựa phi nhanh tới, đến gần họ liền xuống ngựa, thi lễ nói: “Thái úy, Thúc Đại Lang đã đến phủ, đem theo một người mũi cao mắt sâu, mặc một bộ quần áo màu trắng, đang muốn yết kiến thái úy”.

Dương Hạo đến nay đi đâu cũng cần dùng đến tiền, muốn mượn một ít của Kế Tự đường, vừa nghe thấy tin Thúc Đại Lang đến, không nén nổi mừng rỡ, còn người khách đi cùng là ai thì hắn tuyệt nhiên không quan tâm. Dương Hạo cười, nói với Lý Nhất Đức: “Ha­ha, khách tới rồi, việc trước mắt không vội, chúng ta đi gặp vị khách đó trước đã”.

Chương 437: Khách từ phương xa

Dương Hạo cùng Lý Nhất Đức trở lại soái phủ. Vừa xoay người xuống ngựa thì thấy trong đình viện đã có mấy chiếc xe đứng đó. Căn đình viện vốn khá rộng rãi, nhưng lúc này vì chứa mấy chiếc xe kia mà bắt đầu trở nên hơi chật chội. Đám hộ vệ đi theo đều đứng ở ngoài phủ, nhưng vẫn có rất nhiều hắc nô cao lớn to béo đứng xung quanh mấy chiếc xe ngựa. Nhìn bộ dáng hẳn đều là yêm nô ( người hầu bị hoạn), dưới cằm nhẵn thín không râu, mặc trang phục dị tộc, thái độ rất dè dặt, lúc nào cũng cúi đầu khom người.

“Những hắc nô này có lẽ là tôi tớ của đám khách dị tộc mắt xanh mũi lõ da trắng rồi. Thôi Đại Lang là hậu duệ Trung Nguyên thế gia, trong phủ có vài tên hắc nô, Côn Lôn nô cũng chẳng phải lạ, nhưng mà tuyệt đối không thế dùng tất cả người dị tộc làm tôi tớ được”. Dương Hạo cầm roi ngựa cùng Lý Nhất Đức bước nhanh vào trong đình viện, vừa đi vừa quan sát mấy chiếc xe ngựa bên cạnh. Đúng lúc đó, màn che một chiếc xe đột nhiên vén lên, thấp thoáng có mấy nữ tử đang ngồi bên trong, xiêm y trắng như tuyết, bộ ngực căng đầy, eo thon hương kiêu đập thẳng vào mắt, trên mặt lại dùng khăn lụa che, chỉ để lộ ra một đôi mắt to tròn quyến rũ, cũng đang lơ đãng nhìn ra phía ngoài. Dương Hạo ngẩn người, vội vàng quay đầu đi, nữ quyến nhà người ta thì không nên nhìn nhiều ( Haiz, hắn cũng biết tam đại cấm kị “con thầy, vợ bạn, gái cơ quan” cơ đấy)

Cất bước đi vào đại sảnh, Thôi Đại Lang đang ôm tay quan sát bốn phía xung quanh, vừa thấy hắn liền vội bước tới, ôm quyền thi lễ nói: “Đại Lang tham kiến Dương thái úy. Hôm nay Đại Lang mạo muội làm phiền, mong thái úy đứng trách”.

Thôi Đại Lang lén lút hợp tác với Dương Hạo, luận thế lực nắm giữ thực tế không hề dưới Dương Hạo, bất quá ở mặt ngoài hắn vẫn phải cung kính, không thể lộ ra bất cứ vẻ vô lễ nào.

Dương Hạo mới chiếm được Ngân châu, đang thực hiện chính sách khai hoang nạp dân, chiêu binh mãi mã, cần kíp một lượng lớn tiền bạc và công cụ sản xuất. Đang định kiếm vị Thôi Đại Lang thần thông quảng đại này mượn tiền thì đã thấy hắn tới. Dương Hạo vội vàng bước tới, nâng Thôi Đại Lang dậy, cười nói: “Đại Lang không cần khách khí như vậy. Ta và ngươi quen biết thân tín, từ trước đến giờ vãn là hảo hữu tri gi­ao, còn phải quy củ rối rắm như vậy làm gì. Vị này là?”

Hắn vừa nói, ánh mắt đã liếc về phía vị thương nhân đang mỉm cười đứng bên cạnh. Người nọ đầu quấn khăn trắng, ở giữa khảm một viên ngọc xanh biếc, mặc một bộ đồ trắng, hai tay đút vào tay áo, râu quai nón mọc đầy mặt, đang mỉm cười nhìn Dương Hạo.

Dương Hạo vừa hỏi, Thôi Đại Lang vội nói: “À, vị này là hảo hữu Đại Thực quốc của ta, đến phương Đông kiếm chút lợi nhuận. Nghe đại danh thái úy liền muốn tới gặp mặt một lần. Thái úy hiện giờ có ảnh hưởng rất lớn ở Tây Vực. Mong rằng sau này sẽ quan tâm tới hắn nhiều hơn một chút”.

Người Đại Thực quốc mắt xanh mũi lõ kia đan tay trước ngực, cười ồm ồm nói: ” …(tên quá dài, để lại ba chữ cuối xưng hô thôi )…Tháp Lợi Bặc bái kiến thái úy đại nhân. Ta ở Tây Vực đã từng được nghe tới đại danh của thái úy đại nhân. Lại biết Thôi Đại Lang huynh đệ và đại nhân là chỗ quen biết, cho nên mới bảo hắn dẫn ta tới bái kiến đại nhân”.

Dương Hạo nghe hắn xổ ra cái tên dài như tám ngàn chín trăm chữ mà hoa mày chóng mặt, chỉ nhớ được ba chữ đầu là Cáp Hi Mỗ, còn lại quên mất sạch. Vị thương nhân Đại Thực kia dường như đã biết, đối với người phương Đông mà nói, nhớ được tên của mình là chuyện quá khó, cho nên hắn liền nói tiếp: “Thái úy đại nhân gọi ta là Tháp Lợi Bặc là được”.

Dương Hạo thở phào một hơi, vội nói: “Tháp Lợi Bặc tiên sinh là bằng hữu từ xa tới, lại là người quen biết của Đại Lang, nếu đã đặt chơi tới Ngân châu thì chính là khách quý của ta rồi. Mời ngồi, mời ngồi.

Dương Hạo ngồi ở ghế chủ vị, Thôi Đại Lang cùng Tháp Lợi Bặc ngồi bên tay trái còn Lý Nhất Đức ngồi ở ghế đầu bên phải. Quan sát đối phương từ trên xuống dưới một lượt, Dương Hạo phát hiện tuy Tháp Lợi Bặc này lặn lội đường xa mà tới, nhưng người lại cực kỳ sạch sẽ. Trên người không có một hạt bụi, hắn ngồi trên ghế mỉm cười, thái độ ung dung, vẻ mặt phóng khoáng, tuyệt đối không có một tí gì gọi là mùi tiền bạc. Nhân vật như vậy, nếu như đi buôn bán thì cũng phải là buôn to bán lớn, tiểu thương nhân tuyệt không thể có loại khí độ này.

Thị tỳ quý phủ dâng trà lên, Dương Hạo mời trà, vừa nhấc trà lên, nhẹ nhàng gạt lá trà vừa khẽ mỉm cười nói: “Theo ta được biết, triều đình sau khi diệt Nam Hán quốc đã hạ lệnh cấm, không cho phép thương nhân Đại Thực quốc đi đường bộ từ Tây Vực tới, mà bắt các ngươi thông thương bằng đường biển. Hơn nữa những năm gần đây, Tây Vực cũng không yên tĩnh, kinh thương đi lại quả thực cũng nguy hiểm. Tháp Lợi Bặc tiên sinh vì sao lại không ngại cực khổ, lặn lội đường xa từ Tây Vực tới đây chứ?”

Tháp Lợi Bặc khom người xuống, nói: “Thái úy đại nhân minh giám, triều đình Tống quốc yêu cầu chúng ta tới bằng đường biển cũng là vì lo lắng cho thương nhân Đại Thực chúng ta. Đây là có lòng tốt, chúng ta vốn nên vâng theo, chỉ là trên biển đường xá xa xôi, hao tổn dọc đường lớn hơn đường bộ rất nhiều. Hơn nữa còn có sóng gió, mưa bão, hải tặc, đều là kẻ thù của chúng ta. Nếu đem ra so sánh, đi bằng đường bộ tuy có chút phiêu lưu nhưng lại hao tổn ít hơn đường biển. Cho nên chúng ta vẫn mong muốn thông thương với Trung Nguyên bằng đường bộ. Nghe Đại Lang nói, thái úy đại nhân coi trọng công thương, Tháp Lợi Bặc rất hy vọng sau này thương đội của chúng ta có thể được thái úy đại nhân chiếu cố nhiều hơn”.

Tháp Lợi Bặc cứ nói, Dương Hạo cứ nghe. Kỳ thật hai người cũng biết lý do chân chính đương nhiên không phải đơn giản như vậy. Tống quốc cấm người Đại Thực đến thông thương theo đường bộ là vì bọn họ tới từ Tây Vực. Tống quốc thông thương với Tây Vực cũng có nghĩa là thông thương với Khiết Đan. Mà Tống quốc lại đang tiến hành bao vây kinh tế Khiết Đan, muối và sắt đều là hai thứ hàng hóa quan trọng cần cấm vận. Nếu như cứ thông thương bằng đường bộ với Tây Vực thì ý đồ làm suy yếu kinh tế Khiết Đan của Tống quốc sẽ hoàn toàn thất bại.

Còn đối với Tây Vực mà nói, thủ lĩnh, tộc trưởng của bọn họ cũng không thể không biết tầm quan trọng của thương nghiệp, căn bản vẫn giữ thái độ hoan nghênh các thương nhân từ Đại Thực tới, nhưng do giữa các bộ tộc thường xuyên xảy ra chiến loạn, quân đội các bộ tộc vừa nổi lên lại chẳng khác nào thổ phủ, đốt giết đánh cướp không gì không làm. Loạn binh chỉ cầu lợi nhỏ trước mắt, làm sao lại có thể bỏ qua cho mấy tay thương nhân Đại Thực giàu có này được. Vì thế Triệu Khuông Dận vừa diệt xong Nam Hán quốc, có được cửa ra biển liền lập tức lấy cớ bảo vệ an toàn cho thương nhân dị quốc, hạ chỉ sau này thương nhân Đại Thực chỉ có thể thông thương với Trung Nguyên qua đường biển.

Dương Hạo cũng không sổ toẹt ra, cười ha ha nói: “Xấu hổ rồi, các bộ tộc tở Tây Bắc chúng ta quá đông, tuy nói là lệ thuộc nhưng bản thái uý cũng không ước thúc được họ”.

Tháp Lợi Bặc mỉm cười nói: “Tháp Lợi Bặc chỉ là một thương nhân, chỉ là hàng năm có lui tới mấy nước như Ba Tư, Thiên Tiệm, Đại Tần, Cao Xương, Khâu Từ, Vu Quýnh. Quân chủ, thống soái, quan chấp chính lớn nhỏ cũng được gặp rất nhiều, cặp mắt nhìn người này của ta vẫn chuẩn lắm. Thái úy hiện giờ đã chiếm được dân tâm của các bộ tộc, theo các nói của người Trung Nguyên chính là đã chiếm được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Hiện tại có lẽ thái úy còn chưa thể kiềm chế được chư bộ (các bộ tộc) Tây Bắc, nhưng nếu tương lai có người có thể trở thành người thống trị toàn bộ Tây Vực, thì ngoài thái úy ra còn có ai chứ”.

Sắc mặt Dương Hạo hơi biến đổi, khẽ cười nói: “Tháp Lợi Bặc tiên sinh chắc chắn không hiểu tình hình Trung Thổ chúng ra rồi. Bản quan là Tiết độ sứ do triều đình khâm phái tới Tây Bắc, theo ý chỉ triều đình mà làm việc. Nếu tương lại thật có thể nhất thống Tây Vực, đó cũng là hoàng đế bệ hạ triều ta trở thành người thống trị Tây Vực. Còn Dương mỗ sao? Ta chỉ là thần tử trông coi một phương cho thiên tử thôi. Ha ha, người không biết không có tội, người không biết không có tội. Không biết Tháp Lợi Bặc tiên sinh lặn lội từ Tây Vực tới đây là muốn buôn bán thứ gì? Bao lâu thì tới một lần? Một lần có thể mang theo bao nhiêu hàng hóa? Muốn bản quan giúp những thứ gì?

Tháp Lợi Bặc hơi khựng lại, ánh mắt theo bản năng liếc về phía Lý Nhất Đức. Lý Nhất Đức lập tức hiểu ý, mỉm cười đứng dậy, nói: “Thái úy, hạ quan chợt nhớ ra có một số việc phải làm, xin phép được lui ra trước”.

Dương Hạo khẽ gật gật đầu, chờ đến khi Lý Nhất Đức ra khỏi đại sảnh rồi, Thôi Đại Lang mới nói: “Thái úy, lương mã Đại Thực và khôi giáp đều là nhờ Tháp Lợi Bặc tiên sinh đây mua giúp ta, sau đó ta mới đem tới cho thái úy. Tháp Lợi Bặc chỉ là một vị thương nhân, bôn ba khắp nơi cũng chỉ vì kiếm chút tiền bạc thôi. Mong thái úy có thể mở chiếu cố cho hắn”.

Dương Hạo kinh ngạc nói: “Thì ra trọng kỵ binh (kỵ binh hạng nặng) của bản quan đều là do Tháp Lợi Bặc tiên sinh lo liệu giúp đỡ. Đa tạ, đa tạ, Tháp Lợi Bặc tiên sinh lấy kinh doanh quân giới làm chủ sao?”

Tháp Lợi Bặc vội xua tay nói: “Không không không. Chỗ chiến mã và khôi giáp kia là ta dùng một số tiền lớn, đút lót một vị quan chấp chính của Đại Tần đế quốc mà mua được. Ta chủ yếu là kinh doanh ngọc, châu, sừng tê giác, hổ phách, mã não…. rồi lại mua tơ lụa, gốm sứ, lá trà của Trung Nguyên..v..v… đem về Đại Thực. Thương đội của ta vốn là một năm tới một lần, chỉ là con đường này cũng không được yên bình, vì an toàn, hiện giờ ta chỉ có thể tập hợp nhiều thương đội hết sức có thể, thuê một lượng lớn lính đánh thuê, cứ ba năm lại tới một lần. Hơn nữa bất kể là buôn bán với Tống quốc hay là buôn bán với Khiết Đan đều phải thật cẩn thận, che che giấu giấu. Nếu thái úy đại nhân có thể nới lỏng một chút, như vậy cũng đã là giúp Tháp Lợi Bặc rất nhiều rồi”.

Đại Tần đế quốc mà hắn nói tới chính là đế quốc La Mã. Thời đó Trung Thổ gọi họ là Đại Tần. Dương Hạo thấy hắn là người giúp mình xoay sở quân giới, thì cho dù Thôi Đại Lang không nói cho hắn biết toàn bộ thì hắn cũng phải hiểu biết kha khá về lai lịch của mình, có một số việc không cần giấu giấu giếm giếm trước mặt hắn, cho nên Dương Hạo cũng chẳng cần biểu lộ trung thành với triều đình làm gì, mà bắt đầu cẩn thận cân nhắc.

Thủ công nghiệp Đại Thực đế quốc phát triển, mậu dịch quốc tế thịnh vượng, mà Tây Bắc lại trái ngược Trung Nguyên, tình cảnh đã bần cùng từ lâu. Cộng thêm nhiều năm chiến tranh, dân chúng đã nghèo lại càng nghèo. Nếu như có thể buôn bán với thương nhân Đại Thực, đối với Tây Bắc mà nói rõ ràng có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, cho nên Dương Hạo chỉ hơi suy nghĩ một chút liền gật đầu, nói: “Nếu Tháp Lợi Bặc tiên sinh muốn ta phụ trách an toàn cho quý thương đoàn trên toàn bộ Tây Bắc thì thực không dám giấu giếm, bản quan hiện giờ thực sự là có lòng mà không có lực. Bất quá nới lỏng việc buôn bán với thương nhân Tống quốc, Khiết Đan thì có thể. Tháp Lợi Bặc tiên sinh có thể mở cửa hàng trong thành Ngân Châu ta, coi đây là bàn đạp, buôn bán với thương nhân Tống quốc và Khiết Đan. Có thể chiếu cố chỗ nào, bản quan nhất định không cự tuyệt”.

Tháp Lợi Bặc mừng rỡ, vội vàng đứng dậy, đặt tay lên ngực thi lễ nói: “Ngài là một người thống trị anh minh. Không chỉ Tháp Lợi Bặc mà tất cả thương nhân Tây Vực đều cảm kích sự khảng khái của ngài.

Hôm nay Tháp Lợi Bặc còn mang đến chút lễ vật cho thái úy đại nhân, xin ngài đừng từ chối”.

Hắn vỗ tay ba cái, từ bên ngoài phòng bỗng nhiên có bốn mỹ nữ tóc vàng xinh đẹp như hoa , đẹp như mộng bước vào. Người nào người nấy đều sở hữu đôi chân nuột nà, dài tới nách, trên người chỉ mặc một bộ đồ bằng voan mỏng, chiếc eo nhỏ như ẩn như hiện, mang theo một loại hấp dẫn khó mà kể ra được, khiến cho tâm tinh ai cũng lay phải động. Dương Hạo nhìn mà không khỏi có chút ngạc nhiên. Lúc này phía sau lại tiếp tục có bảy tám yêm nô cao lớn, khỏe mạnh xách bốn chiếc rương đi vào. Đặt vào giữa đại sảnh rồi mở nắp rương ra, lập tức châu quang bảo khí, hào quang chói mắt tỏa ra khiến cho cả căn phòng trở nên sáng bừng.

Dương Hạo kinh ngạc hói: “Tháp Lợi Bặc tiên sinh, đây là….”.

Tháp Lợi Bặc cười nói: “Bốn vị vũ nương Ba Tư cà bốn rương châu báu này là lễ vệ của Tháp Lợi Bặc, xin thái úy đại nhân nhận cho. Bốn vị vũ nương này hiểu được tiếng Hán, hầu hạ đại nhân hẳn không phải là vấn đề”.

Thôi Đại Lang cũng hùa theo: “Đúng đấy. Đây là một chút thành ý của Tháp Lợi Bặc huynh đệ, thái úy đại nhân không nên từ chối”. Nói xong còn nháy nháy mắt với Dương Hạo.

Dương Hạo biết, đây chính là thù lao vì việc mình nới lỏng cho Tháp Lợi Bặc. Thù lao đương nhiên không thể chỉ có một chút như vậy, bất quá nếu coi như lễ gặp mặt thì cũng rất nặng rồi. Hắn hiện giờ xài tiền như nước, nếu đem bán sạch bốn rương châu báu này đi, nhất là đem tới Biện Lương, thông qua Thiên Kim Nhất Tiếu lâu phù phép, bán ra một cái giá lớn cũng không phải là không thể.

Về phần bốn tiểu mỹ nhân tóc vàng này, da trắng như tuyết, tóc vàng óng, đôi mắt màu xanh dương quyến rũ, thân cao thước bảy thước tám, dáng người lồi lõm động lòng người. Dương Hạo thật đúng là chưa từng nếm thử mấy tiểu mỹ nhân Tây Dương mắt xanh tóc vàng như thế này bao giờ, bất kể là kiếp trước hay là kiếp này, nếu như được….. thì….

“Khụ khụ, nơi ôn nhu chính là mộ anh hùng, hiện giờ đang có không biết bao nhiêu người nhìn chằm chằm nhất cử nhất động của ta, ta không thể để người khác nghĩ ta là kẻ háo sắc được.”.

Mặc dù trong đầu nghĩ là như vậy, nhưng hắn cũng biết, chỗ lễ vật này bất thể thế nào cũng phải nhận. Về phần xử lý thế nào thì đó là chuyện sau này, trước mắt cứ nhận lấy chỗ hậu lễ này thì vị thương gia Đại Thực giàu có kia mới có thể yên tâm được. Nghĩ đến đây, hắn lập tức làm ra vẻ rất là hài lòng,chậm rãi nói: “Ồ, Tháp Lợi Bặc tiên sinh thật quá khách khí rồi. Lần trước người giúp bản quan trang bị trọng kỵ binh, bản quan còn chưa kịp cảm tạ. Hiện giờ lại để người tốn kém như vậy. Ha ha, thật ngại quá”.

Tháp Lợi Bặc cười híp mắt nói: “Chỉ cần đại nhân thích là được rồi!” Hắn khẽ hất hàm một cái, tám tên yêm nô kia lập tức đóng nắp hòm lại, khiêng đến góc phòng, sau đó lần lượt lui ra ngoài. Tháp Lợi Bặc lại nói: “Nỗ Mỹ Lợi, A Lệ Á, A Lệ Á, Tô Tạp Á, vị này chính là Dương đại nhân, chủ nhân của các ngươi từ giờ trở đi, các ngươi phải hầu hạ đại nhân cho tốt, nghe rõ chưa?”

Thôi Đại Lang đứng bên cạnh cười nói: “Tên nam nhân bọn họ thường dùng chỉ có hai mươi mấy cái, tên nữ nhân lại càng ít, cho nên thỉnh thoảng lại trùng lẫn, rối tinh rối mù. Bất quá thế cũng không sao, nữ nhân thôi mà. Ở với bọn họ cứ gọi một tiếng bảo bối là tốt nhất, quản làm gì tên của các nàng. Ha ha, đại nhân sau này cứ gọi ….”.

“Khụ!”

Thôi Đại Lang còn chưa kịp nói xong thì một tiếng ho khan đột nhiên từ ngoài cửa truyền đến. Chiết Tử Du mặc trang phục nam nhân, tay cầm roi ngựa đi vào đại sảnh, bên cạnh còn có Chiết Duy Chính và hai huynh đệ Mộc Ân, Mộc Khôi đi cùng. Hai người Mộc Ân, Mộc Khôi đảo mắt quanh đại sảnh một lượt liền phát giác tình hình có vẻ không ổn, vội vàng nháy nháy ra hiệu với Dương Hạo.

Hôm nay Dương Hạo vốn muốn đi gặp Dương Kế Nghiệp, nhưng Chiết Tử Du vẫn ở trong thành chưa đi, hơn nữa còn ở lại phủ của Lý Nhất Đức. Hiện giờ chỗ dừng chân có điều kiện tốt nhất trong thành cũng chỉ có Lý gia thôi. Dương Hạo sợ nàng chú ý tới hành tung của mình, nên cho Mộc Ân, Mộc Khôi lấy cớ dẫn nàng đi thăm thú kiến trúc trong Ủng thành.

Tuy Mộc Ân và Mộc Khôi đã cố gắng kéo dài thời gi­an nhưng mà cuối cùng cũng phải kết thúc. Chiết Tử Du muốn đến soái phủ, bọn họ không ngăn cản được, hơn nữa bọn họ cũng nghĩ, nếu thái úy vẫn còn ở phủ Lý Nhất Đức thì Chiết cô nương sẽ không gặp được hắn, nếu như hắn đã trở về soái phủ thì có nghĩa là hắn đã gặp Dương Kế Nghiệp, chẳng đi đâu mà sợ. Ai mà biết, vừa tới nơi thì lại thấy một tên mắt xanh mũi lõ đang hiến mỹ nhân cho thái úy.

Tình ý của Chiết Tử Du đối với Dương Hạo, cho dù là bọn họ là hai tên đầu đất cũng phải cảm giác được. Mắt thấy hũ dấm chua đang nghiêng ngà sắp đổ, hai người thầm kêu khổ trong lòng không ngớt.

Dương Hạo thấy Chiết Tử Du nhưng mặt vẫn không đổi sắc mà mặt mày hớn hở cười nói với Tháp Bặc Lợi: “Đa tạ ý tốt của Tháp Lợi Bặc tiên sinh, chỗ hậu lễ này, Dương mỗ xin nhận”.

Tháp Lợi Bặc vô cùng vui vẻ, liên tục gật đầu. Dương Hạo lại ung dung quay lại nói với hai người Mộc Ân, Mộc Khôi: “Mộc Ân, Mộc Khôi, các ngươi lại đây”.

Hai người đưa mắt nhìn nhau, bỏ lại Chiết Tử Du đi tới trước mặt Dương Hạo, ôm quyền nói: “Thái úy”.

Dương Hạo quay sang Tháp Lợi Bặc cười nói: “Tháp Lợi Bặc tiên sinh, hai vị này là Mộc Ân tướng quân, Mộc Khôi tướng quân, bọn họ dũng mãnh thiện chiến, chính là phụ tá đắc lực của bản quan. Mộc Ân Mộc Khôi, vị này chính là hảo hữu của Thôi Đại Lang, thương nhân Đại Thực quốc- Tháp Lợi Bặc tiên sinh. Sau này, vì chuyện buôn bán nên Tháp Lợi Bặc tiên sinh sẽ phải thường xuyên tới Ngân Châu thành. Các ngươi trước cứ làm quen trước, đến lúc cần trợ giúp, các ngươi phải chiếu cố nhiều hơn cho Tháp Lợi Bặc tiên sinh”.

Mộc Ân Mộc Khôi nghe xong liền quay về phía Tháp Lợi Bặc ôm quyền nói: “Tháp Lợi Bặc tiên sinh”.

Tháp Lợi Bặc vội vàng ôm quyền hoàn lễ: “Không dám nhận, không dám nhận”.

Dương Hạo lại nói: “Tháp Lợi Bặc tiên sinh tặng bản quan bốn vị vũ nương. Bản quan công vụ bề bộn, quý phủ làm sao nuôi được nhiều người nhàn rỗi. Hai người đi theo bản quan đã lâu, rừng thương gió tên cũng trải qua không biết bao nhiêu lần. Bên người hiện giờ vẫn chưa có người chăm sóc. Như vậy đi, Nỗ Mỹ Lợi, Tô Lạp Á, hai người các ngươi sau này sẽ theo hầu hạ Mộc Khôi tướng quân. Còn hai vị cô nương A Lệ Á theo vị Mộc Ân tướng quân này đi thôi”.

“Hả?” Mộc Ân, Mộc Khôi nhất thời choáng váng.

Tháp Lợi Bặc nhìn DƯơng Hạo an bài như vậy không khỏi thầm bội phục: ” Bốn vị vũ nương này tuy không phải tư sắc tuyệt hảo, nhưng cũng không thua mỹ nữ nhất đẳng là mấy. Đủ để khiến cho đàn ông phải mê muội, nghiêng ngả rồi. Vậy mà hắn lại lập tức ban thưởng hết cho thuộc hạ tướng lãnh, không thèm chớp mắt đến một cái. Thôi Đại Lang quả không nói sai, lòng dạ khí độ người này đúng là không tầm thường. Còn về phần hắn có đủ tài năng và thực lực trở thành kẻ thống nhất Tây Vực hay không thì ta phải ở lại Ngân Châu thành, quan sát một thời gi­an ngắn, xác định người này có thực lực trở thành mình hữu của chúng ta thì tiến thêm một bước nữa cũng

không muộn”.

Thôi Đại Lang cùng Tháp Lợi Bặc thương nghị xong xuôi liền trở về tìm chỗ nghỉ ngơi, Chiết Tử Du cũng hài lòng rời đi. Về phần hai người Mộc Ân Mộc Khôi ù ù cạc cạc lại được hai nàng Hồ cơ làm thị thiếp, cũng ngơ ngơ ngác ngác rời khỏi soái phủ. Dương Hạo lúc này mói như trút được gánh nặng, vuốt vuốt ngực, thầm hô may mắn: “May mà ta còn kiềm chế được. Nếu lúc đó mà mê gái lú lẫn đầu óc, vui vẻ vội vàng thu bốn nàng Hồ cơ kia vào phủ thì chỉ sợ Tử Du đã nổi giận bỏ đi, không bao giờ quay trở lại nữa”.

Đang nghĩ ngợi thì Lý Nhất Đức đã đi dạo xong, quay trở lại đại sảnh. Dương Hạo vội vàng kéo hắn ngồi xuống, kể lại một lượt chuyện vừa rồi với hắn. Dương Hạo phải lấy Ngân Châu làm căn cơ, rất cần được Lý Nhất Đức ra sức trợ giúp, chuyện này cũng không tính là quá mức bí mật, bây giờ cứ nói cho hắn biết, tỏ vẻ mình đã coi hắn là người tâm phúc.

Lý Nhất Đức thấy Dương Hạo đối xử chân thành với mình vậy, quả nhiên lập tức tỏ ra vui vẻ. Nghe Dương Hạo cẩn thẩn kể lại mọi chuyện một lần, hắn trầm ngâm nói: “Thái úy, theo suy nghĩ của hạ quan, Tháp Lợi Bặc này chỉ sợ không chỉ đơn giản là một thương nhân như vậy”.

Ánh mắt Dương Hạo trở nên ngưng trọng: “Lý đại nhân nói như vậy là sao?”

Lý Nhất Đức nói: “Thái úy, hạ quan sống ở Tây Vực, cũng biết chút ít về Đại Thực đế quốc. Đại Thực đế quốc năm đó đánh bại Ba Tư, phá Phất Sâm, phía nam đánh chiếm Ba Là Môn, đô hộ các nước, hùng binh bốn mươi vạn, với vũ lực của Đại Thực đế quốc lúc đó nên mới độc bá con đường thông thương tới Tây Vực. Chỉ là hiện giờ nó đã suy yếu rồi. Gần đây, Đại Thực chinh chiến với Đại Tần đế quốc, nhiều lầm bại trại, thực lực đã không còn mạnh mẽ như lúc trước. Thương nhân bình thường tuyệt không có lực lượng tổ chức thương đoàn khổng lồ, thuê đại đội lính đánh thuê buôn hàng về hướng Đông, trừ phi hắn cực kỳ có thân phận ở Đại Thực đế quốc.

Ở Đại Thực đế quốc, có thể trở thành Đại Cáp Lý Phát ( Đại Ha-Li-Pha= vua đạo Hồi, lãnh tụ hợp nhất chính giáo của các ngước theo Đạo Hồi) đồng thời là hoàng đế Đại Thực quốc, luôn luôn là hậu duệ của gia tộc Ngũ Mạch Diệp và gia tộc Cáp Hi Mỗ. Giống như hoàng đế Khiết Đan chỉ có thể sinh ra từ bộ tộc Da Luật, hoàng hậu chỉ có thể sinh ra từ bộ tộc Tiêu thị. Trong tên tay thương nhân này có ba chữ Cáp Hi Mỗ ( ba chữ đầu tiên trong tên của hắn ý) thì mười phần là người của gia tộc Cáp Hi Mỗ”.

Hắn nhìn nhìn bốn chiếc rương lớn, nói: “Người vì kết gi­ao với đại nhân mà một lần ném ra một vạn kim, thân phân tuyệt đối không nhỏ”.

Dương Hạo nghĩ nghĩ rồi bật cười: “Ta thật nghĩ không ra hắn muốn gì ở chúng ta. Mà mặc kệ hắn, mặc hắn có là gió Đông gió Tây gì, ta đều bất động, lấy bất biến ứng vạn biến đi”.

Hắn vừa nói đến đây thì bất chợt thấy Mục Vũ kích động chạy vào, vừa thấy Dương Hạo liền hưng phấn kêu lên: “Đại Nhân, Hứa Lương Thành đến ban chỉ, đại nhân lại thăng quan rồi”.

Trong hậu viên Lý gia, Chiết Tử Du đã đổi sang trang phục nữ tính, quần áo trắng như tuyết, mắt sáng răng trắng, lệ sắc động nhân.

Ngồi cùng bàn trong hiên còn có ba người. Một lão thái thái đầu tóc bạc phơ, mặt mày hồng hào, tinh thần mạnh khỏe, chính là lão nương họ Trịnh của Lý Nhất Đức. Một người là trung niên phụ nhân thanh tú văn nhược, chính là thê thất chính phòng họ Phàn của Lý Nhất Đức. Người cuối cùng chính là con dâu đích tôn họ Lý của Lý Nhất Đức. Lúc này bốn người đang đánh Diệp Tử hí ( kiểu như đánh bài).

Phụ nhân Lý gia này cũng không biết thân phân thật sự của nàng, chỉ nghe Lý Nhất Đức nói hàm hồ, đây là nữ tử mà thái úy đại nhân cực kỳ coi trọng, tạm thời ở nhờ Lý gia, tiện thể chiếu cố cho người ta. Hiện giờ Dương Hạo phải dựa vào gia tộc họ Lý trợ giúp, mà gia tộc họ Lý cũng phải dựa vào Dương Hạo mới có chỗ nương thân. Đây đã là nữ tử Dương thái úy coi trọng, Lý gia đương nhiên không thể không coi trọng. Lão thái thái nghĩ cho con, cũng có chút ý định nịnh bợ trong lòng, cho nên mới thường xuyên mời nàng đánh bài.

Ở soái phủ, Chiết Tử Du thấy Dương Hạo an bài như vậy, thần sắc rất vui vẻ. Nhưng mà sau khi trở về Lý phủ rồi, nàng càng nghĩ càng thấy không đúng. Cái loại ánh mắt thích thú của Dương Hạo lúc nhìn về phía bốn ả vũ nương man dại kia tất nhiên không thể thoát khỏi ánh mắt của nàng. Chỉ là lúc đó thấy Dương Hạo đem bốn ả vũ nương kia ban thưởng luôn cho thuộc hạ, trong lòng thầm vui mừng, cho nên cũng không để ý lắm. Bây giờ ngẫm lại, hắn sảng khoái như thế vị tất đã là không động tâm, mà chỉ là nhìn thấy mình nên mới nhìn đau bỏ qua thôi.

Nhưng mà cho dù có thật là như vậy thì cũng chứng tỏ địa vị của mình trong lòng hắn vẫn rất quan trọng. Nghĩ thì nghĩ như vậy nhưng trong lòng nàng vẫn có chút không vui, hắn làm sao lại không thể quân tử đường đường chính chính như Liễu Hạ Huệ nhỉ?

Lão thái thái sống trong đại gia tộc lâu như vậy, lại làm vợ nhiều năm, nhãn lực cao khỏi phải nói. Nàng thấy tiểu cô nương trước mặt hình như không vui vẻ lắm, liền gợi một câu đã dễ dàng khiến Chiết Tử Du tự mình kể lại một lượt chuyện nàng nhìn thấy ở soái phủ. Đương nhiên nàng không thể nói là mình đang ghen, nên chỉ có thể đổ hết lên người dân chúng Ngân Châu, nói: “Ngân Châu mới trải qua chiến loạn, hiện giờ bá tánh đều đang hy vọng thái bình, ăn no mặc ấm. Dương Hạo thân là thành chủ Ngân Châu, đáng ra phải nên chăm lo việc công, chăm chỉ làm chính sự mới đúng. Thế mà bây giờ lại sa vào tửu sắc, ta thấy…. hừ hừ”.

Trước mặt mấy nử nhân cả ngày ở trong viện lớn trạch sâu, chẳng lo các nàng lại nói huyên nói thuyên chuyện này ra bên ngoài, lại càng không sợ các nàng nói cho Dương Hạo, cho nên mặc dù Chiết Tử Du đã cố ý không nói đến mình, nhưng trong giọng nói vẫn lộ ra chút mùi chua cay. Lão thái thái biết Dương thái úy đã có thê thiếp đầy nhà, hơn nữa gia quyến lại sắp tới Ngân Châu rồi. Dương thái úy gửi một nữ tử xinh đẹp mà hắn cực kỳ coi trọng đến ở tạm Lý gia, trong lòng đã chắc mẩm rồi. Lúc này lại nghe khẩu khí Chiết Tử Du như vậy, trong lòng lại càng thêm chắc chắn.

Ở chung mấy ngày, lão thái thái cũng rất thích Chiết Tử Du, cho nên mới có lòng chỉ điểm cho nàng. Lão thái thái chẹp miệng một cái, đánh ra một quân bài, cười ha ha nói: “Trên thế gi­an làm gì có con mèo nào không an tanh. Nữ tử thông minh không nên so đo với hắn mấy cái đó. Phải giữ được thân phận của mình mới là đúng đắn. Nhất Đức nhà ta cũng từng rước mấy ả Hồ cơ về, cả đám ai nấy đều mông cao ngực nở vô cùng, chỉ là thị thiếp vẫn mãi chỉ là thị thiếp. không sinh con trai, trên dưới trong phủ ai chịu hầu hạ các nàng?

Ngươi xem Phàn thị này, người gầy guộc có khác nào khúc gỗ. Song cái bụng nàng lại rất tốt, vén váy một ra một thằng cu, vén váy một cái lại ra một thằng cu nữa. Lúc đầu nàng có phải là chính thất phu nhân, ở trong phủ đã cùng ăn cùng ngồi với chính thất nguyên phối của Nhất Đức rồi. Sau này chính thất kia của Nhất Đức sinh bệnh, thiên phòng ( vợ nhỏ) nào mà không muốn phù chính ( lên vợ chính)? Chỉ là các nàng nghĩ đến nát óc, sử hết thủ đoạn cũng không bằng lão thân nói một câu, Nhất Đức đã nâng Phàn thị lên làm chính thất. Vì sao? Mẹ quý nhờ con. Nha đầu ngươi đó, vừa nhìn đã biết chiều chồng khỏe, đẻ con tốt. Nếu thực có thể sinh một thằng cu, thì tương lai trong Dương gia, ngươi chẳng phải sợ ai hết”.

Lão thái thái vẫn cho rằng tiểu nữ tử xinh đẹp đáng yêu này là ngoại thất Dương Hạo lén lút nuôi bên ngoài, hiện giờ chắc là còn chưa tiến phủ. Nghe ngữ khí dấm chua của nàng, hiển nhiên là đang nổi cơn ghen, cho nên mới có lòng tốt chỉ điểm cho nàng, chỉ cho nàng một chiêu đã ra là bất bại. Nhưng vừa nói xong thì mặt mày Chiết Tử Du đã đỏ bừng, còn phu nhân Lý Nhất Đức bên cạnh mặc dù đã luống tuổi nhưng cũng phải ửng hồng hai má.

Chiết Tử Du từ cổ tới tai đều đỏ bừng như tôm chín, gắng gượng biện bạch: “Lão phu nhân, ngươi chớ nói linh tinh. Ta chỉ muốn nói hắn sa vào chơi bời, hại dân chúng Ngân Châu thôi. Hắn, hắn và ta chẳng có tí quan hệ nào cả”.

Nàng càng nói như vậy, lão thái thái càng chắc mẩm nàng nhất định là người của Dương Hạo. Lão thái thái tủm tỉm cười, đang định nói tiếp thì thấy Chiết Duy Chính chân thấp chân cao chạy tới: “Tiểu cô, tiểu cô, người Biện Kinh tới, mang theo thánh chỉ, gia phong Dương thái úy rồi”.

Chiết Tử Du ngẩn ngơ, ngạc nhiên nói: “Gia phong? Gia phong cái gì?

Chiết Duy Chính nói: “Nói là Dương thái úy không phụ thánh vọng, gia phong làm Hà Tây Lũng Hữu Binh Mã đại nguyên soái rồi”.

“Quan Gia có lòng tốt như vậy?”

Chiết Tử Du cười lạnh, nàng chẳng tin Triệu Quang Nghĩa lại có lòng tốt như vậy. Nghĩ lại, Chiết Tử Du lập tức minh bạch mấu chốt trong đó, biến sắc nói: “Quan gia đây là muốn đặt hắn lên lò lửa. Không được. Ta phải đi khuyên nhủ hắn, cái chức quan hữu danh vô thực này nhất định phải tốn tạ bất thụ ( cảm tạ mà không nhận)”.

Chiết Tử Du vội vàng xin lỗi ba phụ nhân một tiếng rồi chân thấp chân cao chạy ra ngoài. Lão thái thái chẹp chẹp miệng, cười ha ha nói: “Hai người các ngươi nhìn kìa, vừa mới còn nói chẳng có tí quan hệ nào với Dương thái úy. Nha đầu kia cái gì cũng tốt, chỉ mà da mặt mỏng quá”.

Cả dâu lẫn cháu dâu đều cười rộ lên.

Chương 32 (438): Bát diện phong.

Chiết Tử Du và Chiết Duy Chính thúc khoái mã mau chóng phi về soái phủ, trên đường Chiết Tử Du luôn lo lắng đến chuyện Triệu Quan Gia có thăng quan tiến chức cho Dương Hạo hay không; Dương Hạo chiếm được Ngân Châu, đã làm cho tòa thành thuộc về Hạ Châu Lý Thị chiếm cho mình dùng, có một chỗ đứng ổn định, hấp dẫn được các thế lực tây vực quan tâm đến nó, nhưng điều có thể dự đoán được trước đó là chỉ cần Lý Quang Duệ ra tay, thế lực song phương ắt sẽ xảy ra đại chiến.

Nếu như Dương Hạo có sự ủng hộ của hai châu Lân Châu, Đảng Hạng Thất Thị giúp đỡ, miễn cưỡng gi­ao chiến với Lý Quang Duệ, nếu như thủ thế, thì chưa biết chừng còn có cơ hội để cho Lý Quang Duệ được chịu thiệt. Nhưng Triệu Quan Gia với phong hiệu là Hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, thì Dương Hạo lập tức sẽ thành cái đích của trăm mũi tên, bách tính mong muốn được thái bình, các anh hùng tây vực chỉ muốn duy trì hiện trạng như bây giờ mà thôi, chẳng có ai mong trên đầu mình bỗng nhiên có một tên thống trị ngồi trên, lúc này Dương Hạo bị đưa đến nơi đầu sóng ngọn gió, danh vọng của hắn giờ không tương xứng với thế lực nặng, đó không phải là chuyện tốt.

Huynh trưởng của hắn và Dương Sùng Huấn Lân Châu cố nhiên hi vọng trong cuộc chiến đối kháng Lý Quang Duệ sẽ do Dương Hạo lãnh quân, cũng có ý bảo hắn làm minh chủ đồng minh, nhưng nếu Dương Hạo được cương vị cầm đầu, thì không phải có ý nhường cho hai châu Lân phủ, mà làcái danh tiết đại nghĩa ấy có chỗ đứng, theo lý đương nhiên là người đệ nhất tây bắc, điều này có khiến cho huynh trưởng và Dương Sùng Huấn đố kỵ không đây?

Triệu Quan Gia long trọng tổ chức buổi tiệc khen ngợi Dương Hạo, sẽ cho người Khiết Đan tín hiệu này hay không: Dương Hạo là thân tín trọng thần của Triệu Quan Gia, thăng tiết độ của cổ nhân và lực lượng mới thành lập ở tây vực đều là vì có Triệu Quan Gia ngầm ủng hộ, giờ cho hắn thân phận này Triệu Quan Gia ngầm biết, là một điểm báo trước để tây vực chú ý?

Nếu như Khiết Đan vì lẽ này mà tạo áp lực tây vực, cùng lúc đó huynh trưởng nhà mình và Dương Sùng Huấn lại vì lo lắng cho Dương Hạo trở thành một bá chủ nguy hiểm hơn cả Hạ Châu Lý Quang Duệ nên lòng thấp thỏm, giờ Đảng Hạng Thất Thị cho đến Thổ Phiên, người tương đối thân cận với Dương Hạo, các bộ lạc Hồi Hột sẽ không vì sự xa xôi của hai châu Lân phủ, vì sự tạo áp lực của Khiết Đan mà bỏ hắn đi? Dương Hạo vựng tây vực dậy là một kỳ tích, nhưng hắn cơ bản chưa ổn định, thực lực có hạn, một vấn đề xử trí không kịp dẫn một loạt việc xảy ra, giờ cần sụp đổ trong chốc lát.

Chiết Tử Du càng nghĩ càng cảm thấy bất an, phóng ngựa bay nhanh đến soái phủ, đi nhanh vào soái phủ, thị vệ ở cửa vội ra chặn, nói: “Là ai vậy? dám to gan tự tiện xông vào soái phủ? À, là ngươi, ngươi…”

Bình thường Chiết Tử Du cải trang thành nam nhi, mấy binh lính thị vệ vừa nhìn thấy nàng chỉ thấy quen quen, giống với một tiểu tướng đi bên Dương Hạo, lúc này Chiết Duy Chính đi lên phía trước, trầm giọng nói: “Chúng ta có chuyện muốn gặp Dương thái úy, ngươi mau đi bẩm báo đi”.

Tên sĩ tốt đó nhận ra Chiết Duy Chính, vội nhoẻn miệng cười: “Chiết tướng quân, thực xin lỗi, không phải là ti chức không dám bẩm báo, mà là thái úy đại nhân đang thiết khoản đãi khâm sai, không thể làm phiền được. Hơn nữa thái úy đại nhân sớm đã dặn vậy rồi, nếu…

Chiết Tử Du chau mày nghĩ ngợi, bình tĩnh nói: “Hắn mở tiệc chiêu đãi dù sao cũng chỉ là viên quan mà thôi, dù sao cũng không phải hoàng đế gì, có cần phải long trọng vậy không? Chúng ta đang có việc gấp, ngươi đi báo Dương thái úy một tiếng, chúng ta nhất quyết đợi ở đây gặp mới thôi”.

Chiết Tử Du thay trang phục thành một thiếu nữ xinh đẹp, nhưng khi nói chuyện, không chút giận dỗi mà vẫn uy nghiêm, thậm chí còn uy hơn cả Chiết Duy Chính, thái độ của tên bảo vệ cửa càng cung kính hơn, cười bồi nói: “Chiết tướng quân, vị cô nương này…thái úy đại nhân sớm đã gi­ao nhiệm vụ cho tiểu nhân, nếu như Chiết tướng quân đến, hoặc là bất kỳ người nào họ Chiết đến đều bảo tiểu nhân nói một tiếng, sáng sớm ngày mai, thái úy đại nhân sẽ đợi các người ở phủ, còn hôm nay thực sự là không giúp gì được, xin Chiết tướng quân xin cứ về đi, ngày mai lại đến”.

Chiết Duy Chính hỏi: “Thái úy sớm biết chúng ta đến rồi sao? Song một viên quan mà cũng phải mở tiệc nịnh bợ sao?”

Tên gác cửa xoa tay nói: “Cái này…tiểu nhân cũng không biết nữa”. Chiết Duy Chính đang định hỏi, Chiết Tử Du đã kéo tay hắn: “Ta đi thôi”.

Hai người cưỡi ngựa phi ra khỏi ngõ, Chiết Duy Chính mới kiềm chế lại nói: “Tiểu cô nương, chẳng lẽ cô nương biết Dương thái úy có dụng ý gì đó?”

Chiết Tử Du lắc đầu, khẽ nói: “Không biết nữa, mà chỉ biết rằng, ta tại sao đến, có đến hay không, Dương Hạo đã đoán được rồi, hắn đã có sự chuẩn bị, muốn có được chủ ý của hắn, hắn dù biết ý của chúng ta, hiểu được sự lợi hại của việc này thì tốt, còn về ý của hắn….mai sẽ biết ngay thôi, có gì mà vội chứ? Ta lười nghĩ lắm…”

Chiết Duy Chính lén nhìn tiểu cô nương, tiểu cô nương ấy vân đạm phong kinh, nhưng nhìn khí sắc mặt mày của cô, lại tinh tế, Chiết Duy Chính vội ý thức được ngậm mồm lại, để tránh không cẩn thận làm lộ đuôi. Ngày thứ hai Chiết Tử Du đến.

Lần này không có Chiết Duy Chính đi cùng, một mình Chiết Tử Du đi. Tên canh cửa sớm được Dương Hạo dặn dò, vừa sáng sớm đã đứng ở trước cửa thò cổ ra nhìn ngược nhìn xuôi, vừa nhìn thấy Chiết Tử Du đến, vội chạy lại đón, dắt ngựa hộ cô, khẽ nói: “Chiết cô nương, tiểu nhân đã đợi người khá là lâu rồi, mau xuống ngựa thôi”.

Thấy tên Tiểu Hiệu cẩn thận như vậy, Chiết Tử Du lại không chần chừ gì dậm chân của mình vào chân Tiểu hiệu, coi nó là bàn đạp xuống ngựa, khẽ nhảy xuống đất, rồi chạy vào trong phủ, tiểu hiệu dắt ngựa đi bên cạnh, gọi cho người trong cổng một tiếng, hai thị vệ chạy ra dẫn Chiết Tử Du vào trong. Qua tiền viện, rồi đi qua cửa vào đại sảnh là soái đường. Thị vệ đưa Chiết Tử Du vào trong soái đường, rót trà nóng mời nàng uống, nàng vừa cầm chén trà nhấp môi thì Dương Hạo đến.

Chiết Tử Du đeo đao bên hông ngồi ở đó, thấy Dương Hạo đến cũng không đứng dậy, mấy ngày gần đây giả trang nam nhi khiến nàng quên hôm nay lại mặc nữ nhi, ngồi chân bắt chéo nhau, không khách khí nói: “Hôm qua được tin ta vội vàng đến, ai ngờ Hoàng đế không vội thái giám đã vội, làm người ta vội phi đến, tưởng liệu sự như thần thế nào, thôi, giờ ta cũng đã đến rồi, không biết Dương thái úy có gì úp mở muốn nói với tiểu nữ đây?”

Dương Hạo nhìn cử động của nàng, không kìm nổi cười phá lên, ngoài người thân trong nhà của nàng ấy, người có thể trêu chọc được Chiết Tử Du không nhiều, Dương Hạo rát thích nhìn bộ dạng tức giận của nàng, khi nàng ấy tức giận cứ như là khi nàng ấy cười vậy, có thể làm cho nàng tức giận, Dương thái úy cảm thấy rất hả hê.

Hắn cười ha ha nói: “Ta chẳng có gì phải úp úp mở mở cả, mà cũng cứ coi là ta úp mở không rõ ràng đi thì chẳng phải là nàng cũng đã xuất hiện trước mặt ta rồi sao?” Chiết Tử Du bĩu môi, khẽ hừ một tiếng, nhưng cơn tức giận đã bay mất tiêu. Thực ra là có người đàn ông mình thích nịnh nọt tí thì con gái ai chả thích, một Chiết Tử Du cao ngạo cũng không thể tránh khỏi.

Dương Hạo ngồi đối diện nàng, cười tủm tỉm nói: “Thực ra là không có gì, lúc thái giám truyền chỉ đến thì trong quan lại không có gì, nhưng hắn lại mang đến một thám tử không thể thiếu trong Hoàng thành, lúc đó cả phủ toàn người với người, loạn lắm, ta còn chưa lo liệu ổn thỏa cho họ, chỉ sợ có ai đó rình mò nghe trộm, nghe dược chuyện gì đó không hay, cho nên ta mới dặn dò đám thị vệ ngăn nàng vào gặp. Giờ họ đã được an bài ở Quán Dịch Trung rồi, thì ta mới gặp nàng”.

Chiết Tử Du nghe Dương Hạo nói đến “chuyện không hay” với nàng, khóe miệng nở một nụ cười, Dương Hạo lại nói: “Ta biết nàng vì lẽ gì mà đến, nói ra Triệu Quan Gia rốt cuộc đối xử với ta thế nào, người bên cạnh không biết, chính bản thân ta còn không biết nữa là. Hắn tốt đẹp gì với ta chứ, vì ta chiếm được Ngân Châu mà niêm phong ta là Hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái? Hắc, đây chính là cho ta lên chảo lửa, Lý Quang Duệ là thế lực đệ nhất tây bắc có châm trước cho ta ngồi lên đầu hắn không đây? Coi như hắn vốn chỉ muốn bảo ta về Lô Châu, và đoạt lại thành Ngân Châu, dựa vào cờ hiệu hà Tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, hắn cũng nhất định phải giết ta.

Tống quốc từ hồi lập quốc đến nay, suy yếu mấy phương tiết độ, thu quyền về triều đình, giờ Quan Gia khẳng khái, Khiết Đan bên đó sau khi nghe nói sẽ cho rằng ta là một quân cờ quan trọng của triều đình đồ mưu tây vực, xem ra thì cũng ra tay trước khi chiếm được lợi thế. Còn về Chiết huynh và Dương huynh, ha ha, suy nghĩ của Triệu Quan Gia là có thể ly gián mối quan hệ của hai châu Lân phủ và ta là tốt nhất. Nếu như không thể, Lý Quang Duệ Hạ Châu cũng sẽ ra tay ngay, cứ tưởng thụ ta nhất cường địch, thêm nữa Khiết Đan có chuyện xấu, tây bắc sẽ có chiến loạn càng lớn.

Kế này, ỷ **** tản tây bắc các phương thế lực kéo vào hoàn cảnh càng thối nát, mãnh hổ tương tranh, ắt có tổn thất, đến lúc đó Triệu Quan Gia có thể ra quân, bình định tây vực, thò tay hắn vào, khống chế chặt chẽ toàn bộ tây vực, thực là một ván bài hay ho”. Chiết Tử Du nghe, khẽ thở dài một tiếng, liếc nhìn hắn nói: “Chàng đã hiểu được chữ ‘Không có’ trong đó”.

Chiết Tử Du giật mình ngẩn người, Dương Hạo nói: “Quan Gia dùng kế mượn đao giết người có tác dụng với thế cục tây bắc, vốn nó rất là tốt, tốt, có hai việc mà hắn không biết, cho nên chuyện này thành một hôn chiêu”.

“Hai chuyện gì?”

“Đúng, chuyện thứ nhất là…”. Dương Hạo chần chừ giây lát, lúc này mới nói rành rọt từng chữ: “Ta và Khiết Đan Tiêu Hậu sớm đã có mật ước, bà ta sẽ không vì điều này mà xuất binh với tây vực”. Chiết Tử Du lập tức cảnh giác hỏi: “Chàng đã là nước chư hầu với Khiết Đan?”

Dương Hạo bậm môi nói: “Sao thế được? Chẳng qua, Khiết Đan Tiêu Hậu cấu kết với tây vực, độc lập 1 góc vui vẻ cũng chẳng nói làm gì”.

Chiết Tử Du nghĩ tới tình hình trước mắt của Khiết Đan, rồi lại liên hệ với lời Dương Hạo nói, và đã tìm được lỗ hổng trong đó, mỉm cười khẽ gật đầu nói: “Vị Tiêu nương nương này thực khôn khéo, chuyện khác là chuyện gì?”

“Chuyện đó chính là, Đảng Hạng Thất Thị tuyệt đối sẽ không vì hai châu Lân Châu mà dao động mà bỏ ta đi, coi như Khiết Đan cắm một chân vào, họ cũng sẽ không trở mặt với ta, huống hồ Khiết Đan tuyệt đối sẽ không xuất binh”.

Chiết Tử Du chau mày nói: “Chàng tin tưởng người ta như thế sao? Đảng Hạng Thất Thị bằng mặt không bằng lòng với Hạ Châu, lúc chiến lúc hàng, có lúc thì quấy nhiễu Lân Phủ hai châu, lúc thì lại kết minh, hai điều đó, có gì là nghĩa tín, liệu có dễ dàng tin tưởng được không?”

Dương Hạo mỉm cười nói: “Các thế lực mạnh tranh giành nhau sự sinh tồn, nếu như không có thủ đoạn thì sớm sẽ bị người ta dìm cho chết, lúc thì ra tay, lúc thì cầu hòa, họ cũng bức bách theo thời gi­an, ta và họ không chỉ đơn giản là liên minh với nhau, họ nguyện trung thành với Bạch thạch đại thần tuyên quá thệ bổn quan, há lại dễ dàng quay lưng với họ, như thế chẳng há mất đi lòng tin?”

Chiết Tử Du mỉm cười nói: “Nguyện trung thành với người Đảng Hạng chí cao thần bạch thạch minh ước chàng? Chàng…Chàng là ai chứ?”

Dương Hạo chậm rãi nói: “Hơn ba mươi năm trước, định nan quân tiết độ sứ Lý di tốt cướp ngôi Lý Di Ân, Đường mạt đế Lý Tòng Kha thừa nhận thân phận của hắn, kỳ huynh Lý Di chi tử, thiếu chủ chân chính Lý Quang Sầm Hạ Châu lâm vào cảnh khó khắn thảo nguyên Thổ Phiên, ta…chính là con của Lý Quang Sầm”.

Chiết Tử Du há hốc mồm, một lúc sau mới định thần lại nhìn hắn, kinh ngạc nói: “Lý Quang Sầm còn sống sao? Chàng…là con của Lý Quang Sầm? Chàng cũng chính là hậu duệ của Tiên Bi Thác Bạt Thị?”

Chiết Tử Du là hậu duệ của Tiên Bi Chiết Lan Vương, Dương Hạo là hậu duệ của Tiên Bi Thác Bạt Thị, Chiết Tử Du không thể ngờ rằng hắn lại có một thân thế to lớn như vậy, Dương Hạo cười nói: “Cũng không hẳn, ta là người Hán, Lý Quang Sầm là nghĩa phụ của ta, cũng chính là Mộc Sầm Mộc phó sứ của quân trung Lô Châu hiện giờ. Chiết Tử Du thở dài, không chớp mắt nói: “Chàng có thể nói cụ thể hơn chút được không?”

Dương Hạo kể lại mọi chuyện tường tận một lượt cho Chiết Tử Du nghe, lúc này Chiết Tử Du mới hiểu ra được, không khỏi vừa mừng vừa ngạc nhiên, Dương Hạo lại nói: “Sáng tỏ cái thân phận này, các bộ tộc tây vực nhất định sẽ tin tưởng và nương tựa càng nhiều, hơn nữa, dù thế lực của ta càng mạnh bao nhiêu, lại được Chiết huynh và Dương huynh giúp đỡ thì kẻ thù Lý Thị đệ nhất thế lực tây bắc, thắng bại cái nào cũng được, nhưng mà ta có cái thân phận này, lợi dụng được sự bất mãn của nội bộ Lý Thị với Lý Quang Duệ, làm tan rã thế lực của hắn, chỉ cần thuyết phục được họ, trong ngoài kết hợp với nhau, thì người của bộ tộc Thác Bạt Thị sẽ rời bỏ Lý Quang Duệ mà đến với Dương Hạo ta”.

Chiết Tử Du một hồi lâu mới tiêu hóa được thông tin mà hắn vừa đưa ra, lúc này nàng mới bình tĩnh lại, phản bác nói: “Chàng dù có thân phận này càng không cần cái gọi là “hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, dệt hoa trên gấm làm gì. Giờ chàng đang gặp thời, tích góp lương thực, dựa vào uy vọng cùng địa vị của chàng hiện giờ, thì có thể chiêu nạp được rất nhiều chiến công, đối đầu với bụi cỏ um tùm tây vực, có gì mà phải vội vã ngồi lên đầu họ?”

Dương Hạo thản nhiên nói: “Bởi vì…ta với thân phận là con của nghĩa phụ ta, cũng không biết có thể trụ được bao lâu. Giờ thân phận không rõ ràng, được sự tín nhiệm của mọi người ở Thác Bạt Thị, về sau…sợ sẽ không có cơ hội nữa”.

Hai người nói chuyện một hồi lâu trong soái đường, thì bỗng ngoài cửa có một thị vệ cao giọng nói với: “Tiểu nhân bái kiến Mộc Ân đại nhân, Mộc Khôi đại nhân”.

Dương Hạo vỗ vào trán mình một cái nói: “Ta tự nhiên lại quên béng mất bọn họ chứ, tân binh mới vừa rồi chiêu mộ đang được họ lôi đi luyện tập, ta ra ngoài thăm họ một lát”.

Chiết Tử Du hơi nhướn mày, Dương Hạo đứng dậy đi ra ngoài. Chiết Tử Du ngồi lặng yên trong soái đường, nghĩ về thân phận bí mật của Dương Hạo, sự phục tùng mà đh tt đối với hắn thực sự là khó mà giải thích được. Từ giờ trở đi, chỉ cần Dương Hạo kinh doanh thích đáng thì kế hoạch lấy được từ Lý Quang Duệ sẽ thành công, Triệu Quan Gia có ý muốn hắn trở thành đối tượng bị đả kích, chỉ sợ ngược lại, ta phải nhanh chóng trở về, đem tin này nói cho đại ca biết, hắn hiểu được sự lợi hại bên trong, Dương Hạo lấy được Lý Quang Duệ, sợ là kết cục đã định, hắn làm thế lực đệ nhất tây bắc đã là nghĩa phải có, chẳng có gì kém cỏi, đại ca chắc chắn sẽ không đổi lớn lấy nhỏ, mất đi một cường minh này. Hơn nữa, Đông Nhi, Diễm Diễm bọn họ trong nay mai sẽ đến, ta cứ ở đây thực là xấu mặt”.

Chiết Tử Du đang nghĩ, không ngồi nữa, đứng dậy đi lại rồi đi ra ngoài soái đường, chỉ thấy Dương Hạo và Mộc Ân Mộc Khôi cười nói trước hòn giả sơn, không giống như bàn công sự, Chiết Tử Du vội rảo bước ra khỏi soái đường, men teo hành lang, ẩn mình vào đám cây cảnh đi đến phía sau hòn giả sơn, thì nghe thấy Dương Hạo cười nói: “Hai người các ngươi thực có triển vọng, biết rõ là hôm nay sẽ dẫn binh đi tập luyện lại hỗn láo như vậy, tặng cho các người mấy vũ nương Đại Thực quốc thực là lợi hại, ta thấy hai người các ngươi hai chân đã mềm nhũn đi rồi…”

Mộc Ân cười ha ha nói: “Lợi hại, lợi hại, ai cô nương ấy thực là lợi hại, chẳng lẽ ta với thân thể cường tráng thế này mà không đỡ nổi sao, suýt nữa thì bị hai người bọn họ hành hạ đến mức lết không nổi đấy”.

Chiết Tử Du nghe vậy xấu hổ mặt đỏ bừng, thầm mắng: “Thực là đồ không đứng đắn gì cả, nữ nhi người ta chung tình mà các người còn háo sắc hoang dâm”.

Mộc Khôi nói: “Đó có là gì chứ, hai người chúng tôi suýt còn không bò lên nổi giường mà nằm í, bọn họ…hic hic, song họ thực ra là không bò dậy được rồi, đến giờ vẫn còn nằm ở đó đấy”.

Dương Hạo ho khan một tiếng nói: “Các ngươi chinh chiến cả đời người, bên cạnh có biết bao nữ nhân hầu hạ chăm sóc, đến cái tuổi này cũng nên để lại hậu duệ đi là vừa, bổn quan ban cho các ngươi bọn họ chính là có ý này, song…chuyện này…dù sao đi nữa cũng nên hạn chế, chớ làm thương tổn cơ thể vì nữ sắc.

Mộc Ân vội nói: “Thiếu chủ yên tâm đi, chúng tôi sẽ nhớ lời thiếu chủ nói, đây dù sao cũng là nữ nhân mà, giống như một con ngựa hoang vậy, cứ thuần phục nó thì nó mới ngoan ngoãn nghe lời, về sau tha hồ an nhàn”.

Chiết Tử Du nghe vậy khẽ gật đầu, khen: “Lời nói của Dương Hạo làm người ta thức tỉnh, nam nhi làm đại sự thì sao có thể có nữ sắc bên cạnh được?”

Nàng vừa nghĩ đến đây thì Dương Hạo nháy mắt ra hiệu, hưng phấn hỏi han: “Thế nào rồi, mỹ nữ Đại Thực quốc có vị ra sao?”

Mộc Ân nói: “Dạ, làn da của mỹ nhân Đại Thực không nhẵn nhụi trơn tru như nữ tử trung thổ, mềm mại giống như sa tanh, song họ rất biết cách hầu hạ đàn ông, hành động cử chỉ khiến những kiều thiếp của ta đây không sánh nổi, họ vừa bốc lửa vừa ôn hòa”

Dương Hạo cười nói: “Có thật không, ha ha, các người cho họ thấy sự lợi hại của các người đi, như vậy cũng chính là làm sáng sủa cho nam nhân phương đông”.

Mộc Khôi cười đùa: “Thế thì, hic hic, nếu như luận bàn tới võ công mưu lược, thuộc hạ không bì kịp với thiếu chủ, song chuyện giường chiếu thì mạo muội so bì với thái úy vậy ^^”. Nhưng phàm là người đàn ông thì ai chẳng giống ai chứ, Dương Hạo lập tức phân bua, thổi phồng: “Nhân bất khả tướng mạo, ngươi thực quá là coi thường ta rồi, hừ hừ, ta được dị nhân truyền cho phòng trung mật thuật, đêm ngự thập nữ cũng không thành vấn đề”.

Chiết Tử Du nghe vậy mặt đỏ tía tai, thầm mắng: “Ba cái tên này cùng một giuộc, vô liêm sỉ như nhau, bên ngoài làm ra vẻ đạo mạo, đằng sau thì lại thích bàn đến mấy cái chuyện này…”

Mấy người cười nói vài câu, Dương Hạo lại quay lại chủ đề chính, nghiêm túc nói: “Chinh binh tây bắc ta có điều kiện vô cùng có lợi. Binh sĩ Trung Nguyên đặt cái cuốc làm binh, khổ tâm huấn luyện hồi lâu mà bách tính tây bắc phong nhanh nhẹn dũng mãnh, giỏi võ nghệ, dân chúng thì giỏi cưỡi ngựa bắn cung, người người võ nghệ đều không kém cỏi gì, có nền tảng tương đối tốt như vậy, xưa nay họ giỏi đi săn bắt, sớm hiểu được kỹ thuật phối hợp tác chiến, song lúc này nhiều nhất cũng chẳng qua là hành động của thiên nhân, mà giờ các ngươi huấn luyện họ, dù là một nghìn người, mười vạn người hay là mười vạn người đều cần phải có kỷ luật nghiêm minh, trước trận võ nghệ không bàn đến chính là sự phối hợp ăn khớp quân kỷ nghiêm minh thì mới có thể huy quân được”. Mộc Ân Mộc Khôi vội đáp: “Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi nhớ rồi”.

Dương Hạo gật đầu nói: “Được rồi, lần này chiếm được thành Ngân Châu, ta đã nhìn kỹ các phương xung quanh rồi, đợi nghĩa phụ đến Ngân Châu thì ta sẽ công khai thân phận của mình, đến lúc đó…bốn phương tám hướng nổi gió không biết sẽ thế nào đây, tân quân của các ngươi cần mau chóng thành hình, dù là Lý Quang Sầm hay là Triệu Quang Nghĩa cũng là một hạng với nhau…”

Trong Văn Đức điện, Triệu Quang Nghĩa đang luận bàn nghị sự với văn võ bá quan, đợi Tào Bân nói ra ý kiến của hắn thì Triệu Quang Nghĩa nói: “Tào ngự gia nói đều có lý cả, giờ dụng binh, đương nhiên sẽ có rất nhiều khó khăn, song cũng có rất nhiều cơ hội, mà cơ hội thì không thể bỏ lỡ, mà lỡ rồi thì không có lại nữa, Trẫm phê duyệt tháng hai năm sau dụng binh nắm chắc trong tay Hán quốc”. Văn võ bá quan đều khom người nói: “Chúng thần tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa vui vẻ giơ tay huơ tay, mỉm cười nói: “Trận chiến này Trẫm đích thân dẫn binh. Trẫm sẽ là chủ soái, để ngô vương kiêm Vĩnh hưng tiết độ sứ Đức Chiêu là tiên phong, tiên đế từng phái Hoàng tử Đức Chiêu lãnh binh phạt Hán, thì ta có gì mà không thể, lần này dụng binh chinh phạt để Ngô Vương là quân tiên phong cũng chính là làm trọn ý nguyện của tiên đế, chúng tướng sẽ được bảo vệ giúp đỡ cho sự thành công của Ngô Vương”.

/

Văn võ bá quan lại cung kính thi lễ, Triệu Quang Nghĩa mặt mũi bỗng nhiên méo mó, lại nói: “Hoàng nữ Quắc quốc công chúa, từ nhỏ đã sùng bái Phật giáo, sau khi tiên đế băng hà, Hoàng tẩu vì nhớ mong tiên đế mà lâm bệnh, Quắc quốc công chúa thấy như vậy, cảm sắc nhân sinh vô tường, hiểu rõ được ảo huyền của cuộc đời, lễ Phật tụng lạc, cầu phúc cho Hoàng tẩu. Trẫm khổ công không được đành trọn lễ với bà ấy, đổi thành Tây thất bảo am thành “Sùng hiếu am” và cho phép Quắc quốc công chúa tu hành. Ban cho Quắc quốc công chúa là “Báo từ phổ độ đại sư”, pháp hiệu là “Định Như”, để tỏ rõ lòng hiếu tâm của Quắc quốc công chúa. Vào ngày lễ, các khanh theo Trẫm đích thân đưa Quắc quốc công chúa nhập tự, ban thưởng…”

Hắn còn chưa nói xong thì thấy Cố Nhã Ly chạy khấp khởi vào trong điện, Triệu Quang Nghĩa chau mày, Cố Nhã Ly cũng bất chấp sắc mặt khó coi của hắn, vội vàng chạy ngay đến trước mặt nói vài câu to nhỏ, Triệu Quang Nghĩa nghe xong biến ngay sắc mặt, thất thanh nói: “Sao lại như vậy? Hắn không sao chứ?”

Chương 33 (439): Tứ phường loạn.

Triệu Quang Nghĩa đứng há hốc mồm nhìn phủ Lũng tây quận công.

Tuy rằng hắn đứng trước phủ Lũng tây quận công, song giờ phủ ấy đã trở thành đống hoang tàn.

Lý Dục sau khi hàng Tống, triều đình đã ban thưởng nhà cửa cho hắn, ngôi nhà này cũng đã có ba năm mươi tuổi, vườn tược có ba lối vào, toàn bộ đều được làm bằng gỗ. Dân cư xung quanh đều là những ngôi nhà cũ kỹ, song những ngôi nhà ấy lại không ngừng vươn cao, mở rộng hết sức không gi­an hiện có, cho nên nhà cửa cao thấp không đều nhau, mái hiên nhà này đan vào mái hiên nhà khác, một khi bị cháy thì rất dễ lây lan, thêm nữa nhà cửa đều là gỗ lâu năm, khô nên càng dễ bén lửa, hơn nữa đường đi lối lại nhỏ hẹp, vận chuyển nước vào cứu hỏa khó khăn, kết quả là…

Giờ trước mắt hắn là đống hoang tàn, không biết là nhà nào bị cháy trước, vì tất cả nhà cửa đều bị đốt trụi rồi, nhưng có điểm không thể giải thích nổi đó là giữa ban ngày ban mặt, nếu lửa có cháy thì sẽ gây chết người, nhưng lại không có một nhà nào ở trong nhà cả, nhà người khác cháy sẽ đến giúp đỡ, song mọi người lại chạy hết đi, kêu khóc om sòm, nhưng nhà Lý Lũng tây quận công lại không có một ai.

Mộ Dung Cầu Túy dẫn theo một tên đi lại, tay tên này cứ sờ vào sau quần, dáng đi vô cùng khó coi.

“Đại nhân, tên này là hàng xóm của Lũng tây quận công, nhà hắn gần nhà Lũng tây quận công nhất”.

Triệu Quang Nghĩa lần này đích thân tới xem xét tình hình hỏa hoạn, không cần đến nghi thức hoàng đế, và cũng không mặc long bào, để tránh động tĩnh quá lớn, Mộ Dung Cầu Túy không dám gọi hắn là Quan Gia, để tránh làm lộ thân phận của hắn.

Triệu Quang Nghĩa nghe Mộ Dung Cầu Túy nói xong, quay người hỏi tên thư sinh đó: “Danh tính của ngươi là gì?”

Tên thư sinh đó vừa nghe trước mặt mình là một viên quan cầm đầu đám người này vội cúi đầu thi lễ: “Thảo dân Tiêu Thư Hữu bái kiến đại nhân”.

Triệu Quang Nghĩa gật đầu hỏi: “Ngươi là hàng xóm của Lũng tây quận công, khi hỏa hoạn ngươi nghe thấy gì, nhìn thấy gì, Lý gia có ai chạy ra ngoài không?”

Tiêu Thư Hữu nghe xong nhếch miệng, hóa ra tên thư sinh này muốn đề tên bảng vàng, nên cả ngày hắn ngồi trong nhà đọc sách, vì ngồi nhiều đâm ra bị trĩ, giờ mời lang trung đến chữa trị, ai biết trong quần hắn có cái gì, tên lang trung ấy phải cắm vào một cái ngân châm thì nó mới vào, hỏa hoạn bùng phát, lửa bốc cuồn cuộn, tên lang trung đó sợ hãi bỏ người bệnh lại thoát mạng, Tiêu Thư Hữu chẳng còn cách nào, đành vội vàng xách quần chạy ra ngoài, bên ngoài mới cảm giác được mình yếu vô cùng, nhưng đi khắp nơi đều là người, hắn đường đường là một thư sinh đọc sách xấu hổ không dám đưa tay vào nhổ ra, giờ mấy cái ngân châm vẫn dính ở hậu môn của hắn.

Tiêu Thư Hữu vẫn đứng ở đó, nhìn ngôi nhà chỉ còn trơ lại bức tường, chau mày cười méo mó nói: “Khởi bẩm đại nhân, lúc tiểu dân chạy ra ngoài thì khi ấy lửa đã cháy tứ phía, khói lửa mù mịt, làm sao còn thời giờ mà nhìn xem người khác thế nào nữa. song khi thảo dân giờ mời lang trung đến chữa trị bệnh cho mình thì lại nghe thấy bên Lũng tây quận công phủ có vài động tĩnh”.

Triệu Quang Nghĩa vội hỏi: “Có động tĩnh gì?”

Tiêu Thư Hữu nói: “Khi thảo dân mời lang trung về, nghe thấy bên nhà Lũng tây có tiếng hát ca, khá ồn ào, dường như là đang…tổ chức tiệc”.

Lý Dục thích ca hát tiệc tùng, khiến cả nước nhà của hắn bị rơi vào tay kẻ khác. Triệu Quang Nghĩa thường dặn dò người của Hoàng Thành ti qua lại nghe động tĩnh của Lý gia, đến mức mỗi lần hắn tổ chức tiệc tùng mời những ai, gặp những ai đều cần phải nghe ngóng rõ ràng, điều này thì không có gì lạ. Chuyện mà Tiêu Thư Hữu nói có thể đối chứng với người của Hoàng thành ti.

Hắn gật đầu hỏi: “Bên cạnh nhà ngươi…không còn gì nữa sao?”

“Hết rồi ạ, thảo dân chỉ biết có vậy”.

Triệu Quang Nghĩa xua tay, Tiêu Thư Hữu xách quần thối lui.

Triệu Quang Nghĩa quay đầu lại nhìn, đám tro tàn ấy vẫn nóng hừng hực, trầm giọng nói: “Sống phải thấy người, chết phải thấy thây, mau đi đào, đào lên cho ta, lật tung đám tro tàn này lên, tìm cho bằng được thi thể. Lý gia tổng cộng chủ tớ có bao nhiêu người, thì phải điều tra cho rõ ràng, một cái thây cũng không được thiếu”.

Mộ Dung Cầu Túy khom người: “Thần tuân chỉ, giờ đám tro ấy còn nóng, hãy toan…”

Triệu Quang Nghĩa đứng ở xa mà còn cảm thấy hơi nóng phả vào mặt, cũng biết rằng giờ phái thân binh đi đào xới đống tro tàn lửa ấy lên là không có khả năng, nếu như mà làm ngay lúc này không biết chừng sẽ bị thiêu thành tro mất, hắn gật đầu, nói: “Khai phong phủ”.

Triệu Quang Mỹ vội bước lên phía trước, chắp tay nói: “Có thần…”

Triệu Quang Nghĩa nói: “Dập tắt hắn ngọn lửa, cứu trị nạn dân, phát trợ cấp, dọn đống phế tích này đi, xây nhà cửa mới, còn nữa, mấy cái ngõ xung quanh kiểm tra cho kỹ, điều tra ra nguyên nhân cháy, đồng thời phải chú ý, xem xem có tên nào chạy ra khỏi nhà Lũng tây quận công không, ngoài ra…tìm vài tên ngang ngược được việc theo Mộ Dung Cầu Túy…”

“Thần tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa lại quay sang nói với Mộ Dung Cầu Túy: “Cử cấm quân bao vây quanh phủ Lũng tây quận công, trước khi được tin điều tra không cho phép bất cứ ai ra vào, tìm tất cả tin tức có thể”.

“Tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa nhìn đống hoang tàn một hồi lâu rồi mới quay người lên kiệu. Nội thị đô tri Cố Nhã Ly vén rèm kiệu lên cho hắn, Triệu Quang Nghĩa cúi người vào kiệu còn lẩm bẩm: “Tiểu Chu Hậu…Nữ Anh ơi…”

Vừa nghĩ đến người con gái đẹp ấy, Triệu Quang Nghĩa chua xót trong lòng, quốc sắc thiên hương làm hắn mê mẩn sớm đã bị vùi trong đống tro tàn rồi sao? Hắn lắc đầu, bỗng lẩm bẩm: “Việc này tất có điều gì mờ ám, Lý Dục phu nhân…thực đã chết rồi sao?”

Triệu Quang Nghĩa quay đầu nhìn lại đám tro tàn kia một lần nữa, rồi lại quay sang nhìn Cố Nhã Ly, Cố Nhã Ly lập tức khom người, bước lui ra xa, Triệu Quang Nghĩa lẩm bẩm thêm vài câu nữa, rồi mới vào trong kiệu…

******

Thành tây thất bảo am, Kim thân được đắp lại, cửa điện được quét sơn lại, đến từng viên ngói trong điện cũng được thay mới, tường được trang hoàng lại, bảo khố vô cùng trang nghiêm, Quan Gia ban thưởng Báo từ am, Cảng quốc công chúa xuất gia được Quan Gia phong là Báo từ phổ độ đại sư.

Trên đại điện, hương thơm lan tỏa, Cảng quốc công chúa đang cạo đầu, Triệu Quang Nghĩa dẫn theo văn võ bá quan đứng ở bên cạnh xem lễ. Triệu Quang Nghĩa có vẻ lo lắng, khiến Tống Kỳ, Mộ Dung Cầu Túy là bề tôi thân tín cũng phải đứng né xa xa, sợ Quan Gia nổi giận lôi đình bất cứ lúc nào.

Tâm trạng Triệu Quang Nghĩa không tốt, thời gi­an này làm việc gì cũng khó khăn, cái cảm giác vừa mới lên làm Hoàng đế đã tan biến hết, đau đầu về chuyện nỗi lòng hắn vui được mới là lạ.

Tây bắc lại truyền về một tin xác thực, Lô Châu tiết độ sứ báo sau khi Dương Hạo chiếm được Ngân Châu thì công khai thân phận của mình, hóa ra hắn chính là con của Lý Quang Sầm năm đó khốn khó định nan quân tiết độ sứ Lý di, Dương Hạo đã bái Lý Quang Sầm làm nghĩa phụ, trông nom Đảng Hạng Thất Thị, quy thuận chủ cũ. Đến lúc này, Triệu Quang Nghĩa có đời nào không biết thân phận của Dương Hạo là nghĩa tử của Lý Quang Sầm.

Trong lúc thương lượng với Dương Hạo, hắn chiếm được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, song hết lần này đến lần khác bị lừa, Triệu Quang Nghĩa không có não chăng? Bản thân giờ còn vội vàng tiễn hắn đi phong hiệu Hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, đây không phải là tạo thế danh vì hắn sao? Tự an ủi, chí ít như này, Hạ Châu Lý Quang Duệ càng sẽ không bỏ qua Dương Hạo, lưỡng hổ gi­ao tranh càng có khả năng xảy ra.

Dương Hạo còn giả vờ bảo Lý Quang Sầm đi nhờ vả Lô Châu, viết tấu chương mời triều đình xuất binh ra viện trợ cho hắn giữ Hạ Châu, thời điểm phụ thân của Lý Quang Duệ - Lý Di Đoản soái vị còn chưa có Đại Tống, lúc đó vẫn là Đường quốc Lý Tòng Hà cầm quyền, Lý Tòng Hà nhận thân phận Lý Di Đoạn, từ đó về sau trải qua Tấn quốc thạch kính đường, Thạch trọng quý, Hán quốc Lưu Tri Viễn, Chu quốc Quách Uy, Sài vinh và Tống quốc của đại ca hắn, năm quốc gia bảy vị Hoàng đế trên thực tế, dù Lý Quang Duệ đắc vị bất chính thành chủ nhân của Hạ Châu, Triệu Quang Nghĩa chắc chắn vì tây vực có lão nhân lưu lạc không quyền không thế và Lý Quang Duệ trên thực tế bá chủ phản bội mới là lạ.

Song vì để bên Khiết Đan làm thân tín của hắn, là người bày mưu đặt kế cho hắn, vì sai lầm phán đoán Tống ở tây vực có thể mở rộng thực lực, hắn không thể làm khó Dương Hạo nhất cử nhất động được, thậm chí không thể công khai làm ra thái độ ủng hộ Lý Quang Duệ Hạ Châu, Triệu Quang Nghĩa chỉ có duy nhất một khả năng làm đó là giữ lại tấu chương không phát và thông qua thủ đoạn xảo quyệt đưa phản ứng của mình tiết lộ cho người của Hạ Châu Lý Quang Duệ ở Biện Kinh biết. Sợ rằng Lý Quang Duệ biết tin này còn sớm hơn hắn, nhưng hắn nhất định phải tỏ thái độ bình tĩnh, để Lý Quang Duệ biết lập trường của hắn, từ đó mà kiêng dè dấy lửa chiến tranh, để khói báo động tràn ngập tây bắc.

Tình hình tây bắc thối nát đến bây giờ, đã có tí rời khỏi tay hắn, vốn đủ để hắn đau đầu nhức óc rồi, trong thành Biện Lương cũng không thể yên tâm được. Đứa con mà hắn yêu thương nhất cuối cùng lại nảy sinh suy nghĩ ngờ vực phụ thân của nó, đến giờ vẫn khăng khăng một mực hủ độc trung hiếu nhân nghĩa. Nghiệp chướng này, lão tử ngồi Gi­ang sơn, sớm muộn không phải là ngươi nữa? Lão tử của mình không đến giúp đỡ, cả ngày chỉ đố nhăng đố cuội quấy rầy đại bá hắn, ta sao có thể sinh ra một tên nghiệp chướng vậy chứ.

Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ mặt càng tối sầm lại, đúng lúc này “keng keng keng…” một hồi chuông vang lên ở đâu đó truyền vào tai hắn, Triệu Quang Nghĩa đang phiền não khẽ ngẩng đầu nghe ngóng, chỉ thấy cháu gái chắp tay thi lễ, mái tóc đen đã mất đâu, đỉnh đầu có sáu chấm trắng. Nàng khẽ đứng dậy, mặc bộ áo xám, đích thị tăng nhi, nhận vòng tràng hạt, cúi mặt, tiếng chuông vang lên trong làn khói, dường như là một thế giới khác, Triệu Quang Nghĩa càng cảm thấy ảm đạm.

Dù hắn mong được trở thành Hoàng đế, ra độc thủ với Hoàng huynh nhưng tình yêu thương của hắn đối với Vĩnh Khánh là thật đáy lòng, trong số những đứa con của Hoàng huynh, thì đứa nhỏ Vĩnh Khánh này là đứa mà nhị thúc yêu thương nhất. Bỏ qua sự đề phòng hậu nhân của Hoàng huynh, đồng thời cũng là vì quý đứa nhỏ này nhất, Triệu Quang Nghĩa có ý không muốn thân thiết với Tiểu Vĩnh Khánh nhưng từ ngày nàng còn dùng tã đến những tháng ngày nàng biết nói học chữ, và đến giờ trở thành một đại cô nương yêu kiều đáng yêu, hắn là thúc phụ, song luôn coi nàng là đứa con mình, tình cảm ấy sao có thể dễ dàng bỏ qua?

Giờ vì cái chết của phụ hoàng, mạng của nương nương, nàng nản lòng thoái chí, rời bỏ chốn hồng trần, Triệu Quang Nghĩa chưa bao giờ cảm thấy tất cả những điều này là do mình tạo nên, nhưng nhìn đứa cháu mà mình thương yêu nhất đi đến bước đường ngày hôm nay, hắn không khỏi xót xa.

Vĩnh Khánh công chúa giờ đã thành thiền sư, khẽ nhận ba que hương, tiến đến ngọn nến và châm, sau đó đem que hương cắm vào bát hương rồi lui về sau, hai đầu gối quỳ trên đệm cói, khẽ gõ mõ.

Triệu Quang Nghĩa nhìn thấy Vĩnh Khánh kính lễ Phật rồi lại nhìn lên ba que hương cắm ở trên bát, làn khói hương tỏa ra như ẩn như hiện, rồi bỗng nhiên hắn nhìn thấy đám phế tích ở Lũng tây quận công phủ.

Lý Dục chết rồi, chết trong hỏa hoạn rồi.

Hắn đã hạ chiếu ban cho Lý Dục chức thái sư, truy phong tước hiệu Việt vương, rồi lấy nghi lễ Vương tước mai táng về tới Lạc Dương, những người trên đường hộ táng cũng được ban thưởng, lễ tang Lý Dục để ba ngày. Một quân thần, đặc biệt là vong nước hàng quân, làm như vậy là trước nay chưa từng có, khắp thiên hạ đều biết tin: Lý Dục chết.

Nhưng trong lòng Triệu Quang Nghĩa biết sờ sờ rằng Lý Dục chưa chết, hài cốt Lũng tây quận công phủ, người trong nhà đều không thấy đâu. Không những là cả nhà Lý Dục không thấy, đến Từ Đãi, Tiêu Nghiễm và mấy thân tín của Lý Dục ở Nam đường cũ cũng không thấy đâu, gia quyến của họ cũng không tìm được một ai. Theo căn cứ báo tin thì hôm đó Lý Dục mở tiệc chiêu đãi cá vị quân thần và gia quyến, sau đó họ mất tích luôn theo làn khói hỏa hoạn.

Triệu Quang Nghĩa nào dám để cho thiên hạ biết rằng vua của vong quốc mang theo một đoàn bao nhiêu người biến mất ngay trước mặt hắn, hắn vừa báo tang với thiên hạ, làm tang sự, tung tin Lý Dục chết, vừa phái người phong tỏa khắp các đường gi­ao thông yếu đạo, ngầm hỏi điều tra, nắm được tung tích những người này, nhưng nửa tháng đã trôi qua, vẫn chẳng có tin gì.

Nếu như chỉ có một người chạy thoát thì cũng có thể coi như là mò kim đáy bể, nhưng hẳn một đoàn không biết bao nhiêu người bỏ trốn thì có thể trốn ở đâu, bỗng dưng mất tăm mất tích được thực vô lý, Lý Dục là quân vương của vong quốc làm sao có bản lĩnh đó được? Thành Khai Phong hắn bỏ bao công sức xây dựng mười năm, giờ đã có thể điều khiển được tất cả những nhân vật tiếng tăm, nhiều người như vậy ung dung chạy đi, trong ngoài thành, khắp các thành trì, những nơi hoang vu hẻo lánh cũng đã tìm đều không thấy tung tích của họ đâu, một hàng thần không thông thuộc Biện Lương mà trốn khỏi được, điều này thực vô lý.

Hoàng thành ti thống lĩnh bị mất chức điều tra và bị quăng vào đại lao, những tên có tội danh khó nói không biết bắt bao nhiêu nữa, nhà lao Biện Lương đều chật kín người vẫn không tìm ra manh mối gì, Triệu Quang Nghĩa lúc này mới điên lên, chửi: “Là tên chó nào thần thông quảng đại giúp chúng, Lý Dục…rốt cuộc ngươi ở đâu?”

*******

Trong ngự hoa viên Hoàng gia, Đới Luân đốc công cười hì hì nói: “Lưu công công, ngài đi nhé”.

Tên thái giám mặt dài như cái bơm ừ một tiếng, nhấc chân lên càng xe, tiểu thái giám bên cạnh vẫy tay ra hiệu, xe chuyển bánh lộc cộc trên đường đất trồng rau, phía sau có sau chiếc xe đi theo, đi về phía Hoàng cung đại nội.

Đới Luân nhìn theo xe tên thái giám rời đi xa, lúc này mới quay người đi về phía nhà ở của mình, được một lúc thì nhấc cái bọc đồ lớn ra, nhìn ngang nhìn dọc, không thấy ai ra vào, lúc này mới đi nhanh.

Ở đây là đất trồng rau của Hoàng gia, con đường phía trước chính là nơi mà Triệu Phổ xâm chiếm lấy viên lâm Hoàng gia rồi kiến tu, sau khi nhận được trọng trách của Quan Gia thì dừng khởi công, giờ vẫn chưa xây xong, vẫn để bỏ dở ở đó, trong tường viện rất yên tĩnh, người ngoài không dám vào, những tên trồng rau cũng đã chuẩn bị chuồn khỏi đây, cho nên rất lạnh lẽo. Làm một tên đốc công rau, Đới Luân nắm rất rõ tình hình ở đây, dù thế nào hắn vẫn cố tránh đi đường lớn, đi vào chỗ bờ ruộng trồng rau.

Sau đất sau là nơi sâu nhất, chính là đất sườn núi nghiêng nghiêng, Đốc Luân đi đến đó, quay đầu nhìn ngó, thấy không có ai đi theo, hắn vội đi nhanh hơn, vòng qua mấy cây đại thụ, đám cỏ um tùm có một cái cửa gỗ, nhấc cánh cửa lên, đất lộ ra. Đới Luân vác túi bao đi vào. Đây là cái hầm rau, mùa đông thường cất trữ rau, giờ mới có đầu tháng tám, thời tiết nóng nực cái hầm để đó không dùng.

Đới Luân thắp nến đi vào trong hầm, rồi quay sang bên cầm chiếc đèn lồng thắp sáng cho nó rồi đi vào bên trong, bên trong là một cái giá, góc tường có mấy cây tạp nham và mấy cây thang, có mùi mốc meo. Có thông với hầm trên, nên cũng có tí ánh mặt trời, song trong hầm thì đâu tránh khỏi u ám. Đi càng sâu vào bên trong, Đới Luân lại quay đầu lại nhìn, khẽ gõ nhẹ ba tiếng vào tường, hai dài một ngắn.

Nghe thấy động tĩnh, tiếng gõ của Đới Luân lên tường gỗ, cửa kêu kẹt một cái, bên trong có giọng của một tên hán tử: “Lão Đới”.

Đới Luân đưa cái bọc đó qua, khẽ nói: “Tất cả thái bình, bên trong còn cần gì…”

Hắn vừa nói đến đây, một người mặc áo xanh chui ra, tức giận nói: “Những ngày tháng thế này, người không ra người, ngợm không ra ngợm, ta không thể chịu nổi nữa, các ngươi khi nào thì đưa chúng ta đi đây?”

Một tên dáng người hơi béo, tóc rối bù, vận quần áo bình thường song khí phách lại bất phàm, chính là Lý Dục tên mà Triệu Quang Nghĩa săn tìm bấy lâu.

Đới Luân cười bồi nói: “Xin lỗi, bây giờ thì không, vì sự an toàn của ngài, ngài còn cần ở lại đây một tháng nữa, tin đồn đã dịu đi nhiều rồi, nhưng người của các người đông vậy, từng nhóm ra đi cũng không thể chốc lát được, qua tháng sau thì sẽ an toàn hết thảy”.

“Một tháng? Còn cần một tháng nữa?” Lý Dục tức giận mắng: “Cả ngày chỉ ăn gạo tẻ, dưa muối, chăn màn gối đệm thì bẩn tưởi, lại còn không có rượu mà uống, ngày qua ngày chẳng biết đến sáng tối thế nào, người sống ở đây cũng phát điên, ta không phải là phạm nhân của các người, sao có thể đối xử với ta vậy chứ?”

Đới Luân tính tình ôn hòa, cười hắc hắc nói: “Ngài cũng phải thông cảm, chúng ta chẳng có cách nào khác cả, nơi này là nơi an toàn nhất dành cho ngài rồi, vì để tránh lộ tin tức, tiểu nhân đành đi ra ngoài mua chút gạo tẻ dưa muối, muốn ăn những mỹ vị cao sang, giờ cũng không thể làm nổi”.

Lý Dục mắng: “Nơi này không phải chỗ cho người ở, ta không thể chịu nổi thêm giờ nào nữa, ta phải đi…”

“Quan nhân, nửa tháng nay chúng ta đã sống qua rồi, còn sợ chi một tháng nữa?” Tiểu Chu Hậu bỗng chui ra từ bên trong, váy vải, xinh đẹp như tranh, nơi này người đi vệ sinh, rửa mặt, chải đầu đều không tiện, nhưng dù hoàn cảnh thế nào, tóc nàng vẫn được chải gọn gàng không rối tung rối mù lên, vẫn bảo vệ nhan sắc của mình sạch sẽ, nàng nhìn Lý Dục, nhíu mày nói: “Lão mẫu của Từ đại nhân đã bảy mươi, cháu của Tiêu đại nhân mới lên bốn, họ chẳng bực tức lời nào, Từ đại nhân ốm cũng chịu đắng nuốt cay, đến vị Đường tráng sĩ dẫn chúng ta ra muốn cả ngày ở đây với chúng ta lắm sao? Họ đều có thể chịu đựng được vì ai, chẳng vì quan nhân sao, quan nhân không nhẹ nhàng với người ta một chút được sao? Không cần chàng phải nằm gai nếm mật, chỉ qua thời gi­an khốn khó này, có gì mà không chịu đựng được chứ?”

Lúc này Từ Đãi và Tiêu Nghiễm cũng chui ra, Từ Đãi ho khan một tiếng, rồi cùng với Tiêu Nghiễm khuyên giải Lý Dục đang nổi giận đi vào buồng, đợi yên trở lại, Đới Luân mới khẽ lạnh lùng nói: “Nhìn hắn cho cẩn thận, đừng có để hắn muốn làm gì thì làm, tên này…hừ hừ”.

Đại hán họ Đường cười ha ha nói: “Yên tâm đi, không sao hết, hắn ngày nào chả bực tức, chắc muốn ra ngoài cho người ta tóm gọn, đến cái mạng của hắn còn không đáng giá, lợi hại thế nào hắn cũng hiểu được, song cơm ngon áo gấm nó quen rồi, người ta là nhân vật cao quý cơ mà phải chịu những ngày tháng thế này, xổ ra vài câu bực tức, ngươi cũng chớ để bụng làm gì”.

Đới Luân kéo tên họ Đường đó, hai người đi xa một chút rồi lại thì thầm to nhỏ, Đới Luân mới nhấc đèn lồng đi qua cửa gỗ rồi ra ngoài, tên họ Đường đứng ở trong chỗ sáng trong hầm ngẩng đầu nhìn bầu trời, rồi bỗng xoay người, như một con báo trở về phòng, tất cả lại trở nên yên lặng…

Lại nửa tháng nữa trôi qua, nỗi phiền não của Triệu Quang Nghĩa đều chưa được giải quyết xong, điều khiến hắn đau đầu nhất chính là chưa tìm thấy dấu vết của Lý Dục, kết quả mà Hoàng thành ti nghe ngóng được, Đường quốc truyền tin đồn quốc chúa chưa chết, ngấm ngầm phản Gi­ang Nam, đông sơn tái khởi, Triệu Quang Nghĩa không thể yên tâm được, phái Phan Mỹ đi thành Kim Lăng tọa trấn khiến Ngô Việt vương Tiền Thích và bình hải quân tiết độ sứ Trần Hồng Tiến vừa mới hiến đất quy hàng điều một đạo nhân mã vào Gi­ang Nam, nghe theo sự điều khiển của Phan Mỹ, đồng thời để trấn an Trần Hồng Tiến, lại gia phong hắn là võ ninh quân tiết độ sứ, cùng đàm chương sự.

Cùng lúc đó phái rất nhiều mật thám vào Gi­ang Nam, truy tìm tung tích Lý Dục.

Hôm nay, hắn vừa mới kết thúc triều chính về đến điện Văn Đức, ăn chút điểm tâm, uống chén trà, cầm tấu chương đem ra phê duyệt, một tên Hoàng thành ti tiến đến nói: “Quan Gia, Hạ Châu có một tin gấp báo”.

Triệu Quang Nghĩa nghe thấy tiếng động, vội bỏ tấu chương xuống nói: “Mang đây xem xem”.

Vị quan kia vội mang mật thư dâng lên, Triệu Quang Nghĩa mở ra xem cẩn thận, cười ha ha, mấy ngày nay mặt mày hắn lúc nào cũng nhíu lại, giờ đã được giãn ra, trong mật thư nói, Hạ Châu Lý Quang Duệ được tin Dương Hạo chiếm thành Ngân Châu, muốn mau chóng dẫn binh đi phạt, chỉ là lúc này Thổ Phiên, Hồi Hột luôn chiếm món béo, cục diện tác chiến hai mặt, không có kẽ hở mở tác chiến ba mặt, nhưng Đường huynh của hắn Lý Quang Sầm vẫn còn sống, hơn nữa làm Hoành Sơn tiết độ phó sứ, nhận Dương Hạo làm nghĩa tử, tin Đảng Hạng Thất Thị phản bội Lô Châu truyền đến tai hắn, Lý Quang Duệ thì không giữ được bình tĩnh.

Uy hiếp của Thổ Phiên và Hồi Hột của Lý Quang Duệ lại không bì kịp Lô Châu Dương Hạo, Thổ Phiên và Hồi Hột đánh như vậy, rất khó dao động thống trị của hắn, mà Dương Hạo lại nhanh chóng từ bậc tám lên bậc bảy, đây là điều hắn không thể tha thứ được, Lý Quang Duệ đã quyết định không tiếc chi phí, dù cắt đất cầu hòa, cũng cần chiến đấu với Thổ Phiên và Hồi Hột, tập kết binh mã chiến với Lô Châu.

Có được tin này, Triệu Quang Nghĩa vui mừng vô cùng, vẻ mặt tươi cười nhìn mật thư, nhìn đi nhìn lại tính toán một hồi lâu, rồi gọi đương quan tới dặn dò: “Nghĩ cách lộ ra tin tức cho Lý Quang Duệ ở Biện Lương, nhớ lấy làm cho tốt tí, chớ để bọn họ biết được Trẫm có ý tiết lộ cho họ biết”.

“Quan Gia xin yên tâm”. Viên quan này được sùng ái, khi Quan Gia tinh thần không tốt, càng hận Hoàng thành ti ra đường rẽ, đến đại thống soái của họ đều khóa bỏ ngục, giờ thấy Hoàng đế tinh thần hòa hữu, mắt hắn như muốn rơi lệ xuống.

Triệu Quang Nghĩa nói: “Trẫm biết tháng hai cần phát binh, thảo phạt Bắc Hán, nghĩ cách tiết lộ cho người của hắn biết, nhớ lấy, nhất định cần để cho chúng biết, Trẫm đến lúc đó sẽ điều động binh mã Lân Châu, Phủ Châu, Lô Châu cùng phạt Hán quốc”.

“Thần tuân chỉ”. Viên quan đó vội đáp lời, thấy Triệu Quang Nghĩa mỉm cười vuốt râu, không có lời nào dặn dò nữa, vội thi lễ rút lui.

Viên quan ấy vừa mới đến cửa điện, thì gặp Tống Kỳ và Hồng Lư Tự ở đông các môn cùng với Tiêu Hải Đào đi cùng vào điện, vội tránh sang một bên, nhường cho họ vào điện, rồi mới luồn đi ra. Tống Kỳ vừa vào tới cửa điện đã hô to: “Quan Gia, Hồng Lư Tự nhận được báo tang Khiết Đan, Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Hiền băng hà rồi”.

“Cái gì?” Triệu Quang Nghĩa ngẩn người không ngờ vừa nghe được tin tốt giờ lại nghe tin tốt nữa, chẳng lẽ là vận đã đến? Hắn vui mừng lộ rõ trên nét mặt hắn nói: “Da Luật Hiền chết rồi ư? Giờ ai làm tân Hoàng đế?”

Tống Kỳ nói: “Cái này tạm thời chưa định, Hoàng Hậu Tiêu Xước nắm triều chính, tạm thời vẫn quản lý được, trừ phi bà ấy sinh hạ nữ nhi, nếu không thì, Hoàng tộc Khiết Đan nguyên khí đại thương, trước mắt không ai dám chiếm ngôi vị Hoàng đế cả”.

“Á”.

Triệu Quang Nghĩa thốt lên và hiểu ra nói: “Đúng vậy, Tiêu Xước đã có thai, nếu bà ta sinh nữ nhi, hắc hắc, cơ hội 50/50, ha ha…”

Nghĩ đến đây, Triệu Quang Nghĩa nhướn mày cười nói: “So sánh hai chuyện hỉ này, Lý Dục sống hay chết thì có là gì với hắn nữa, Lý Dục chả là gì, huống hồ bây giờ, Lý Dục hắn làm được Câu Tiễn Mộ Dung xông ngầm kiêu hùng?

Triệu Quang Nghĩa đi nhanh qua điện, chuyển hai vòng, rồi dừng bước nói: “Lệnh Lữ Từ Khánh, lệnh sứ đoàn phó phúng viến Bắc quốc”.

Tiêu Hải Đào nói: “Thần tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa lại nhìn sang chỗ Tống Kỳ, lạnh lùng nói: “Điều động người lanh lợi từ Hoàng thành ti, hành sự tùy hoàn cảnh”.

Tống Kỳ tay đúc vào tay áo, khom người nói: “Thần tuân chỉ”.

Đợi hai người ra khỏi điện, Triệu Quang Nghĩa mặt mày hớn hở, u buồn mấy ngày nay đều bị thổi bay, Da Luật Hiền khi vẫn còn giữ ngôi, người Khiết Đan vì tranh giành ngôi vị Hoàng đế mà chém giết nhau, giờ Da Luật Hiền chết rồi, Khiết Đan tất nhiên tái khởi nội loạn, loạn bên phía tây, loạn bên bắc, thiên hạ đại loạn, kế hoạch thống trị của hắn có khả thi rồi!

Quyển 11: Cung Giương Như Trăng Tròn

Chương 1 (440): Xuân sắc vô bờ.

Ở quê.

Đường to lối nhỏ ở Ngân Châu Dương Hạo đều thông thuộc, và điều khiến hắn đang khổ tâm nhất chính là khôi phục lại cái phồn vinh của thành ngày xưa.

Đêm đã khuya, tuyết rơi dày, Dương Hạo dẫn theo một đám than binh, tự mình đi tuần xung quanh thành một lượt rồi mới quay về phủ.

Trong nhà, những ngọn đèn lớn nhỏ đã tắt hết, chỉ còn leo lét ánh sáng từ căn phòng của phu nhân. Dương Hạo mỉm cười, cởi áo khoác đưa cho Mục Vũ, giũ giũ đống tuyết bám vào giày rồi tiến về phía có ánh đèn sáng.

Mấy phu nhân đã ngầm hiểu với nhau, trừ khi có ý chỉ đặc biệt của Dương Hạo, còn nếu không thì các nàng cứ thay nhau luân phiên mỗi người để đèn sáng một hôm chờ hắn về. Tuy họ chưa từng nói rõ với Dương Hạo điều này, nhưng Dương Hạo cũng phát hiện ra bí mật này nhanh chóng, chẳng qua là cái đèn lồng đỏ treo cao thôi mà, cái bí mật bé xíu này làm sao giấu nổi chàng.

Đội tuyết đi xuống tận phía cuối hành lang, nơi có căn phòng đang tỏa ra một hơi ấm khó tả. Trong phòng ấm như giữa mùa xuân, Diễm Diễm đang ngồi dưới đèn, một tay cầm bút, một tay cầm bàn tính, tính toán sổ sách, dê bò, lương thực, thuế má. Tiếng lách tách của bàn tính vang ra nghe rõ mồn một, cùng với tiếng tuyết đang rơi bên ngoài của đêm tĩnh mịch tạo thành một thứ cảm giác thú vị.

Vừa nhìn thấy Dương Hạo về, Diễm Diễm vội ghi lại mấy con số rồi hạ bút xuống chào đón hắn. Mùi thơm ấm quấn lấy người hắn, đôi tay ôm chặt vào cổ, Dương Hạo còn chưa kịp nói gì thì đôi môi mềm mại ấm áp của Diễm Diễm đã đặt trên môi hắn.

“Úi chà, cả người đầy tuyết rồi, tuyết rơi nhiều thế sao, cẩn thận kéo bị cảm lạnh, mau thay quần áo ra đi”.

Bên ngoài dù tuyết rơi dày, lạnh cắt da cắt thịt nhưng trong phòng lại hết sức ấm áp, lửa còn tỏa ra mùi thơm nhẹ ngây ngất lòng người. Đường Diễm Diễm mặc một bộ đồ màu đỏ hết sức nhã nhặn, bó sát nơi cánh tay, kéo dài sát đất, đúng là một bà chủ nhà. Chiếc áo mỏng không che nổi đường cong quyến rũ nơi người nàng, chiếc đai lưng quấn chặt vòng eo thon như ngọc như ngà.

Tấm thân nóng bỏng như vậy ôm ghì lấy người Dương Hạo đang lạnh như băng, nàng vội vã cuống quýt buông hắn ra xuýt xoa. Dương Hạo cười hà hà nói: “Ta vừa mới cởi áo khoác ra, hôm nay quả thật tuyết rơi dày quá”.

Diễm Diễm giúp hắn giũ tuyết ra khỏi đầu và vai, quay ngươi vào buồng lấy dép đi trong nhà cho hắn, thân thể nàng mềm mại trong suốt, cúi khom người như trăng tròn trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo nhìn ngắm mái tóc đen óng của nàng, ngắm cái cổ tròn trịa đầy đặn sau làn áo, dường như bên trong nàng không mặc áo lót. Cơ thể hắn như nóng rực lên, giơ tay ôm chặt lấy tấm eo thon mềm của nàng.

Diễm Diễm mềm nhũn trong tay hắn, hai tay đánh rơi đôi dép trong nhà xuống đất, nhẹ nhàng nói: “Dương ca ca, thay quần áo trước đã…”

Đôi tay to của Dương Hạo đã thò vào bên trong mân mê đôi nhũ hoa mềm mại, nắm chặt một bên vú. Diễm Diễm quay đầu lại nhìn như trách móc, rên rỉ nói: “Được rồi mà…”

Tuy giọng nói lạnh lùng, nhưng một tay của nàng lại đặt trên tay của Dương Hạo, khiến hắn càng nắm chặt hơn.

Dương Hạo ôm chặt eo nàng, đôi bàn tay to dịch xuống dần rồi nhẹ nhàng đặt nàng lên giường, tự mình cởi bỏ áo ngoài và nhẹ nhàng nằm lên trên người Diễm Diễm. Hắn hôn lên đôi môi đỏ như quả anh đào chin của nàng, Diễm Diễm mỉm cười hôn hắn, mặc cho hắn hôn lên mắt, lên cổ, hòa nhịp cùng những động tác của hắn.

Áo lót được cởi ra, lộ ra đôi gò bồng đảo mềm mại, trong suốt. Đôi vú đẫy đà dần cứng lại và dựng lên, hai đầu vú rất nhỏ giống như hai hạt đậu trong bánh màn thầu, đẹp động lòng người.

Đường Diễm Diễm một tay nhẹ nhàng vờn quanh cổ hắn, rồi trườn nhẹ xuống dưới bụng hắn, cầm nắm vuốt ve, hơi thở bắt đầu dồn dập hổn hển.

Căn phòng sau một hồi tràn ngập tiếng ê a và hơi thở dồn dập đã trở lại yên lặng. Dương Hạo vẫn đang nằm trên Diễm Diễm, tay đặt ở mông nàng, vuốt vuốt cái gối nằm mềm mại như lụa. Đường Diễm Diễm thì đôi mắt khép hờ, mặt vẫn còn hồng đỏ, mồ hôi rịn trên trán và trên cánh mũi. Nàng khẽ nhấc eo lên đẩy Dương Hạo nằm sang bên cạnh, thở nhẹ nhàng và ôm chặt lấy người đàn ông của nàng.

Nàng khẽ liếc hắn, chiếc gối hắn nằm đã ướt rịn hơn nửa, Đường Diễm Diễm càng đỏ mặt hơn, dúi mặt vào lòng Dương Hạo, ngón tay đặt nhẹ nhàng trên mắt hắn, xoa xoa nói: “Chàng ấy à, đúng là thân con lừa. Vừa mới quay về đã thế thì lấy sức đâu ra, “giày vò” người ta khiến người ta… vừa yêu vừa sợ…”

Dương Hạo cười ha hả nói: “Bản lĩnh của nàng vốn không thấp, lại có cao nhân truyền thụ cho, ha­ha, không chịu được nổi hả?”

Hắn vừa nói vừa nhẹ nhàng kéo Diễm Diễm vào lòng, kéo chăn đắp kín người cả hai. Diễm Diễm rất tự nhiên mà quay người, cúi xuống phía ngực hắn cắn nhẹ nhẹ. Rồi nàng rời khỏi ngực hắn, cặp mắt long lanh nói:” “Không thể chịu được đâu, đêm nay chàng chỉ thuộc về thiếp thôi, không cho đi đâu hết”.

Tuyên bố chủ quyền xong, Diễm Diễm lại dịu dàng cười quyến rũ: “Chàng có thói quen cái gì mà song tu công pháp, đến Oa Oa cũng chẳng thể chịu nổi, thiếp nào có phải là đối thủ của chàng? Có điều… song tu song tu, kể cả là song tu đi nữa thì sao chàng không dạy cho bọn thiếp? Chỉ lo vui sướng cho bản thân thôi”.

Dương Hạo tát yêu nàng ta một cái rồi cười đáp: “Nàng không sướng sao? Vừa nãy còn nói to nói nhỏ cái gì mà đòi chết với không chết?”

“Thôi đi nào”. Diễm Diễm xấu hổ vỗ ngực hắn một cái. Dương Hạo ôm chặt nàng, nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, nói: “Sư phụ đến rồi đi vội vàng, chỉ dạy được có một chút, dẫu sao cũng không phải là cái để cho các nàng luyện mà. Đợi có cơ hội ta sẽ đi thỉnh giáo sư phụ, nếu không sợ rằng sẽ làm hại đến cơ thể nàng thì không thể vui hết mình, đúng là…”

“Hừ! Nói đi nói lại cũng vẫn là vì bản thân chàng”. Diễm Diễm hờn dỗi cắn hắn một cái. Rồi nằm dịch lên trên cạnh hắn, hai chân quấn chặt lấy hắn, mặt áp lấy mặt hắn, nhẹ nhàng hưởng thụ giây phút của riêng hai người, ánh mắt như có nước chảy, cả hai nhẹ nhàng thở như muốn hòa vào nhau làm một.

Rất lâu sau, hắn mới nhẹ nhàng hỏi: “Mỗi ngày đều phải tính toán như thế có mệt không?”

Diễm Diễm ngái ngủ trong lòng hắn, mơ hồ đáp: “Oa Oa quản lý của hàng, gia súc, ruộng nương, hiệp thương, thiếp chỉ là trợ giúp thôi, chỉ là tính toán sổ sách, chẳng bận lắm”.

Nàng suy nghĩ một lát rồi ngẩng đầ lên, chần chừ nói: “Có điều…, chúng ta như thế này… có được không? Thực ra Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ, Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm bọn họ đều hết sức trách nhiệm với việc kinh doanh, thẩm tra từ trước đến nay vẫn không phát hiện ra sai sót nào. Tục ngữ nói nghi ngờ thì không dụng nhân, dụng nhân thì không nghi ngờ. Chàng cho bọn thiếp đích thân nhúng tay vào những chuyện này có phải là không tin tưởng bọn họ quá không? Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ bọn họ không có gì, nhưng thiếp thấy… Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm bọn họ có vẻ không bình thường lắm”.

Dương Hạo cười nói: “Quen rồi sẽ thành tự nhiên. Họ hiện giờ không thuận mắt, đợi bọn họ quen rồi sẽ tốt thôi. Không phải là ta không tin tưởng bọn họ, mà là muốn cho các nàng quản lý, thay đổi những thói quen mà bọn họ mang từ Gi­ang Nam đến đây”.

Dương Hạo ngửa mặt nhìn bức trướng rồi nói: “Phụ nữ Tây Bắc, kinh thương, làm công, chăn thả, thậm chí là cưỡi ngựa bắn tên trên chiến trường… tất cả mọi thứ đều làm được. So với phụ nữ Trung Nguyên thì vốn là giỏi hơn. Đất Tây Bắc vốn đã quen ba đời di cư đến bộ tộc người Hán, cũng thành thói quen rồi, nhìn không thuận mắt, nhưng cũng không nhiều. Cái này thành quy luật rồi, ta không thể nhân nhượng bọn họ, cho bọn họ cái thói quen cũ của vùng Tây Bắc. Diễm Diễm, Tây Bắc không bằng được với Trung Nguyên, ở đây dân số thưa thớt, nếu như điều này không để cho phụ nữ làm thì cũng không để cho phụ nữ làm. Trời sụp mất một nửa rồi, người nào mà chẳng phải động tay đến?”

Khi đó địa vị của phụ nữ Trung Nguyên không bằng Nam Tống đến tận Minh Thanh, kể cả ở Trung Nguyên thì địa vị của phụ nữ Trung Nguyên trong gia đình cũng rất thấp. Ở khu vực phía Tây và Bắc, lời nói của phụ nữ tuy không có trọng lượng bằng đàn ông, nhưng so với phụ nữ Trung Nguyên thì con cao hơn gấp bội. Diễm Diễm nghĩ vậy bèn gật đầu nói: “Uhm, những lời này quả thật có thể giải quyết một phần rộng lớn, vấn đề dân số không đủ, chàng nói xem phải làm sao, dẫu sao thì người ta cũng không phản đối đâu”.

Dương Hạo cười ha hả nói: “Đông Nhi bụng đã to rồi, ta không dám bắt nàng ta lao động. Có điều ta cũng đã xây dựng một đội nữ binh rồi, đợi Đông Nhi sinh xong, đội nữ binh cũng sẽ được thành lập, trừ những lúc khẩn cấp sinh tử nếu không ta cũng sẽ không để các nàng ấy ra chiến trường. Bọn họ chẳng qua chỉ là trông giữ thành trì, bảo vệ trật tự… Việc ấy nữ binh làm được, hơn nữa bọn họ cũng không ngang ngược như nam nhi, tâm tư cũng kín đáo hơn nhiều…”

Hắn còn chưa nói hết nhưng cái tên Đông Nhi được nhắc đến đã khiến Diễm Diễm phải suy nghĩ. Diễm Diễm bò lên người hắn, nũng nịu nói: “Chàng còn nói nữa, tỷ tỷ sắp sinh rồi, bụng người ta vẫn còn chưa có gì, chàng thiên vị”.

Dương Hạo không biết nên khóc hay nên cười: “Không phải thế sao? Cái đó cũng trách ta hay sao? Nàng không sinh thì ta có cách gì?”

“Thiếp không biết, chàng là người đàn ông của thiếp, thiếp không sinh được không tìm chàng thì tim ai? Thiếp cũng muốn sinh cho mình một cục cưng”.

Đường Diễm Diễm càng nói càng hưng phấn, hai mắt sáng lên ánh sáng của tình mẫu tử: “Thiếp muốn chàng cho thiếp”.

Dương Hạo giật mình nói: “Không phải chứ? Nàng…nàng không được…”

“Có gì là không được, chàng dám khinh thường bản cô nương”. Đường Diễm Diễm dùng sức đứng lên, lấy tay kéo Dương Hạo: “Đừng có giả ngơ nữa, mau lên đi”.

Dương Hạo lười nhác vòng tay ra gối đầu, nói: “Bản vương gia mới không bị mắc lừa, một lát nữa nàng lại đòi tha cho nàng, lão gia ta đây lại phải quấn chăn đi quấy nhiễu Oa Oa, Diệu Diệu, trời lạnh thế này ta không muốn ra ngoài đâu”

Diễm Diễm lấy lòng nói: “Vậy…người ta dùng cái mà chàng thích nhất…”

“Gì?”

Diễm Diễm ấp a ấp úng nói: “Là…là cái cách gì mà giống cẩu như chàng nói ấy…”

Dương Hạo nhẹ lắc đầu, Diễm Diễm lại cắn chặt môi nói: “Vậy… lần sau thiếp đồng ý với chàng…” Tiếng nàng trở nên nhẹ bẫng, nói như rót mật vào tai Dương Hạo khiến mắt Dương Hạo sáng lên: “Thật chứ?”

Diễm Diễm tức giận đánh hắn một cái: “Đúng là đồ tà đạo, vừa nói thế mắt chàng đã sáng cả lên rồi”.

Dương Hạo cười hà hà nói: “Vậy lần này…” Ánh mắt của hắn nhìn chăm chú vào đôi môi đỏ mọng của Diễm Diễm, Diễm Diễm đã hiểu, nàng đỏ mặt ngồi tại chỗ, hồi lâu sau mới khịt mũi một tiếng. Dương Hạo vui thú hoan hô lên một tiếng, mở tung chăn ra, trần như nhộng nhảy xuống, đi về phía góc tường.

Diễm Diễm mái tóc dài như thác nước, khẽ liếm môi, liếc nhìn thân hình đẹp đẽ cường tráng của hắn, ánh mắt long lanh, bước đến…

Trời đã sáng, Dương Hạo mở to mắt, tiếng tuyết rơi bên ngoài đã dừng. Cúi đầu nhìn xuống, Diễm Diễm vẫn đang say giấc, mặt ửng hồng, xinh đẹp như đóa hải đường, khóe môi còn nở một nụ cười ngọt ngào. Hắn nhẹ nhàng rời khỏi giường, đang muốn mặc quần áo đi vào trong sân luyện kiếm thì nghe thấy tiếng gõ cửa nhẹ bên ngoài, Mục Vũ hạ giọng nói: “Đại nhân, đại nhân…”

Dương Hạo vội vàng đứng lên, Diễm Diễm như có bản năng thò tay ôm chầm lấy cổ hắn, đột nhiên tỉnh dậy, thấy Dương Hạo đang mặc quần áo, không nén được liền hỏi: “Trời mới tờ mờ sáng, vẫn còn sớm mà”. Nàng thức dậy giúp Dương Hạo mặc quần áo, rồi chợt thấy người không còn chút sức lực nào, nàng vội năm trở lại, tức giận nói với Dương Hạo: “Đều là do chàng giày vò thiếp, đồ xấu xa”.

Dương Hạo vừa mặc quần áo vừa lắc đầu nói: “Tiểu nhân và nữ tử khó dạy, không phải ta ức hiếp”.

Diễm Diễm trừng mắt sẵng giọng: “Chàng nói cái gì? Được, ta sẽ đi nói với Đông Nhi tỷ tỷ, còn có cả Oa Oa, Diệu Diệu nữa”.

Dương Hạo đã mặc xong quần áo, đến bên giường cười khanh khách rồi hôn lên má Diễm Diễm: “Đi đi, nói cho bọn họ biết, tiểu nha đầu xấu hổ tự mình không biết lễ tiết, sáng sớm dậy không nổi giường, lại còn oán trách quan nhân, xem bọn họ có cười nàng không”.

Diễm Diễm tức giận, cắn chặt răng nói: “Ta muốn bỏ nhà ra đi, ta muốn đi Nhạn Môn quan tìm Lữ tổ, học được bản lãnh trở về trị tội chàng”.

“Nói là phải làm nhé, đừng có đãi tai” Dương Hạo đặt tay lên ngực nàng ở ngoài chăn, cười nói: “Ta phải ra ngoài có việc. Nếu như quả thực muốn đi thì nhớ chào nhé, ta sẽ cho người chuẩn bị xe”.

Dương Hạo ra khỏi cửa, chỉ thấy Mục Vũ đã ăn mặc chỉnh tề, đứng bên cạnh là Mẫu Y Khả, tay mang theo áo khoác cừu của hắn. Dương Hạo đón lấy mặc lên người, chỉ trông thấy tuyết ngoài sân đã dày đến cả tấc, đâu đâu cũng chỉ một màu trắng, không nén nổi hỏi: “Có chuyện gì khẩn cấp?”

Mục Vũ nói: “Đại nhân, tối qua xảy ra bão tuyết, đè chết rất nhiều cư dân, còn có nhiều người lưu lạc bên ngoài bị lạnh cóng ngoài đường. Mới sáng sớm Phạm đại nhân, Lâm đại nhân, Từ đại nhân, Tiêu đại nhân đã thay nhau đi tuần quanh thành, bảo tiểu nhân đến báo cáo với đại nhân, có nên nấu cháo cứu tế nạn dân không ạ?”

Dương Hạo thầm thấy xấu hổ, hắn chưa từng làm qua việc này bao giờ, những người này quả thực rất chu đáo. Dương Hạo vội nói: “Tất nhiên là cần. Lập tức mở kho nấu cháo cứu tế. Bản quan lập tức đi thăm dò một phen, xem xem tình hình như thế nào”.

Dương Hạo vội vàng dẫn theo thị vệ chạy ra khỏi phủ. Trên đường tuyết phủ dày, ngựa không đi nổi, hắn đành dắt thị vệ từng bước từng bước đi, trong lòng nghĩ: “Tuyết lớn thế này đối với dân du mục Trung Nguyên thì không có gì là đáng lo, nhưng đối với dân ở đây thì quả là đem lại nhiều hậu quả. Nạn dân trong thành cũng có hạn, nhưng những bộ lạc ở xung quanh bên ngoài thì e rằng khó mà sinh sống được, ta có nên…”

Hắn vừa đi vừa nghĩ, dùng giác quan thứ sáu của mình hắn có thể cảm giác được những ánh mắt của người dân bên đường trong bóng tối dõi theo hắn, hai người mặc áo da đang đứng từ xa nhìn hắn, đi về hướng đầu đường…

***************

Đêm nay tuyết rơi quả thực rất dày, cũng may thời này không còn phát đạt như thời trước nữa nên đa phần mọi người đều tích trữ lương thực, lương khô, không cần phải ra ngoài vận chuyển. Do vậy giá cả cũng không bị leo thang, cũng không tồn tại những vấn đề như tổ chức vận chuyển…, chỉ cần dọn sạch tuyết là có thể thông hành bình thường, chẩn tế cứu dân nghèo để tránh tái lập lại vụ việc nhiều người chết cóng ngoài đường.

Từ Đích cùng Tiêu Nghiễm đều là những người quản lý chính vụ của nhà nước, lại thêm Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ làm cộng sự, những việc này họ giải quyết trôi chảy. Chỉ có điều việc mở kho của phủ để cứu tế lương thực cần đích thân Dương Hạo hạ lệnh mới xong.

Dương Hạo đi tuần quanh thành một vòng, thấy công việc dọn tuyết, nấu cháo cứu tế đều đang được cấp tốc triển khai mới yên tâm quay về. Khi hắn quay về đến Đông Thành thì chỉ nhìn thấy Từ Lũ đang chỉ huy dân chúng gia cố nhà cửa, có vài nhà kiến trúc bằng gỗ đang tiến hành tu sửa lại.

Vừa thấy Dương Hạo đến Từ Lũ vội đến nghênh đón, chắp tay nói: “Thái úy”.

Dương Hạo gật gật đầu, hỏi: “Xem ra mấy gi­an phòng này sắp sập đến nơi hả? Trước nay chưa từng trùng tu bao giờ, bách tính không biết ở đâu? Có cơm ăn không? Đã chuẩn bị chăn và áo bông chưa?”

Từ Lũ nói: “Thái úy yên tâm, bách tính ở đây đã được chuyển tới Trường Khánh tự rồi, lương thực và chăn ấm cũng đã chuẩn bị đủ, không thể để dân chúng bị chết vì đói lạnh đâu ạ”.

Dương Hạo vui vẻ gật đầu, đi song hành bên cạnh hắn, mỉm cười nói: “Đại học sĩ có tài kinh thiên vĩ địa, điều ông đến cái Tây thành nhỏ bé này, làm những việc nhỏ nhặt này quả thực là bạc đãi đại nhân rồi”.

Từ Lũ nói: “Chuyện của bách tính không phải là chuyện nhỏ, có thể làm việc gì cho dân là chuyện đáng vui mừng. Nhưng thái úy bận rộn việc quân lại còn phải đi tuần toàn thành vẫn hỏi han tình hình dân chúng, Ngân Châu có được người như thái úy thương dân như con thật là có phúc”.

Nói đến đây, hắn đột nhiên nhớ đến năm ngoái có trận đại thủy ở Gi­ang Hoài, nhưng quốc vương lại chỉ chăm lo cầm kỳ thi họa, đánh cờ lễ phật, phải chờ đến lúc Triệu Khuông ra lệnh giúp nạn dân gặp thiên tai, hắn mới bắt đầu mở kho cứu dân, hơn nữa không nói bản thân thương con còn chưa đủ, còn mở kho của mình ra dâng cho Triệu Khuông. Trận đại nạn đó xảy ra khiến nước này bị trừng phạt nặng nề, kết quả là những người đó đều có tiền, mua chuộc thái giám, tăng nhân trong cung, rồi giở trò gi­an lận, khiến quốc vương hiểu nhầm là ý trời, đến khi phóng thích rồi, hai bên so với nhau không khỏi nhẹ thở dài một tiếng.

Từ Lũ và Tiêu Nghiễm từ trước đến nay tuy không đổi họ, nhưng đã đổi tên để tránh tai mắt của triều đình. Dương Hạo dành được Ngân Châu, đang lấy Ngân Châu và Lư Châu dùng núi nối liền liên tục, khi đó tiếng tăm của hắn đã vang lừng, bốn phương hào kiệt, những người lưu lạc ở khắp nơi đều lũ lượt kéo đến, các nhân thủ tụ tập về dưới trướng, nhưng những trưởng giả đều được đề bạt, sắp xếp phái sứ, do đó không có ai không có ai liên hệ bọn họ với Từ Khóa, Tiêu Nghiễm - những quận công đã chết ở Khai Phong.

Dương Hạo tự mình đến xem những nạn dân ở Trường Khánh Tự, thấy bọn họ quả nhiên đã được thu xếp ổn thỏa, cơm áo đầy đủ mới yên tâm ra ngoài, tiếp tục cuộc khảo sát của mình. Từ Lũ đứng bên ngoài Trường Khánh Tự, trong cơn gió nhè nhẹ thổi, dõi theo bóng Dương Hạo đang đi khuất dần, mãi cho đến khi bóng hắn khuất dần khuất dần…

Lý Dục muốn hắn theo bên mình củng rời khỏi Biện Kinh, Từ Lũ không chút do dự, hắn không có cái tính cách mãnh liệt như Trần Kiều, khi binh lính đến thành hắn thà lấy thân tuẫn quốc cũng không tố hàng thần, nhưng lòng trung thành của hắn với nước Đường đã bị nghi ngờ. Hắn không chủ động xin chết, nhưng n ếu như quốc vương muốn hắn thế nào hắn cũng không tiếc thân mình, nguyện lao vào bể lửa, do vậy, hắn không do dự mà chạy theo Lý

Dục.

Ở trong cung hoàng gia nửa tháng, hắn bắt buộc phải bỏ đi. Nơi đó không phải là nơi hắn có thể ở lâu dài, trong thời gi­an nửa tháng, sự đề phòng của Biện Lương đã lỏng lẻo rất nhiều, cũng có cơ hội rời khỏi. Cũng sắp đến mùa thu hoạch, vườn hoàng gia có rất nhiều rau cần người tích trữ, nếu tiếp tục trữ nữa e rằng sẽ bị phát hiện.

Bọn họ thuận lợi trốn ra khỏi thành Biện Lương, không ngờ khi vừa mới vào Tây Bắc lại mất cảnh giác để lộ ra chân tướng, bị người ta nghi ngờ là bọn lái thương buôn lậu và bị khám xét. Với thân phận của họ thì nào dám cho người khác kiểm tra kỹ càng, lúc đó chỉ còn mỗi cách đào tẩu. Dọc đường bị người ta truy đuổi theo sát, họ liền tìm chỗ trốn, quốc vương bị một mũi tên cắm vào sau lưng mà chết.

Lòng nhiệt tình của Từ Lũ tan như bong bóng xà phòng, nếu như quốc vương còn sống thì hắn cũng chưa chắc đã khôi phục lại được gi­ang sơn, huống chi Lý Dục giờ đã chết, với kinh nghiệm của Từ Lũ thì hắn biết chắc chắn một điều rằng Gi­ang Nam đã không thể khôi phục lại vị thế rồi. Mặc dù Lý Trọng Ngụ có thể phát huy được tác dụng hiệu triệu những bộ cũ của Gi­ang Nam, nhưng hắn làm gì có uy lực và thân phận như Lý Dục, một thái tử trước nay chưa từng nắm trong tay quyền vị của hoàng đế, cho dù có được sự giúp đỡ của Dương Hạo để phá vỡ sự thống trị của nhà Triệu thì hắn cũng chỉ nhận được một kết quả mà thôi.

Từ Lũ trong triều Đường là đại thần của Lý La lúc sắp lâm chung, cũng là trọng thần trong triều của Lý Dục, nếu như Lý Dục còn sống thì bất kể bất kể là vì danh tiếng sau lưng hay là giữ lễ tiết của một người như hắn thì hắn đều trung thành với Lý Dục, nhưng Lý Dục đã chết rồi, hắn căn bản không có chút gì gọi là trung thành với Lý Trọng Ngụ, hắn cũng cần phải suy nghĩ đến bản thân hắn và gia đình.

Không hề nghi ngờ, bất kể là đồng ý hay không đồng ý, từ nay về sau hắn đều phải trọng vọng Dương Hạo, nếu như muốn chọn giữa Dương Hạo và Lý Trọng Ngụ thì hắn sẽ nghiêng về phía người có binh có quyền, có khí phách như Dương Hạo làm chủ công. Những suy nghĩ này hắn đã từng nói với người bạn thân của hắn là Tiêu Nghiễm, nhưng trước sau hắn vẫn chưa hề nói quyết định của mình. Dương Hạo so với Lý Trọng Ngụ, thậm chí là so với quốc vương đều giống như những bậc minh quân, nhưng… hắn giờ chẳng qua là một người Tây Bắc, hắn có thật sự có cơ xây dựng một quốc gia hay không?

Đứng một lúc lâu, một trận gió lớn nổi lên làm áo hắn bay phấp phới, Từ Lũ run lên một chặp rồi buông tiếng thở dài, đi về phía đường hầm.

Chương 2 (441): Tân Sinh.

Dương Hạo đi một mình trên đường, phí trước mặt hắn chợt hiện ra một căn nhà to, phía trên có treo biển “Lý Phủ”, còn có vài tên lính canh đứng gác,

Dương Hạo bất giác chậm bước đứng lại xem.

Đây đích thị là nơi ở của Tiểu Chu hoàng hậu và Lý Trọng Trụ rồi, có điều thân phận của bọn họ là điều cơ mật, chỉ có vài trọng thần như Dương Hạo mới được biết, đến ngay cả bọn lính gác cửa cũng không biết thân phận thực sự của họ.

Tại Ngân Châu gia tộc họ Lý rất nhiều, Lý Nhất Đức chính là một gia đình lớn ở Ngân Châu, trên cửa còn treo một tấm bảng lớn, có vài lính canh cửa, điều này không hề khiến người khác chú ý.

Hiện Từ Lũ và Tiêu Nghiễm đã phát huy hết năng lực của bản thân, trở thành hai trợ thủ đắc lực của chủ quản, đối với cương lĩnh của Tây Bắc hai người cũng có cách giải thích rất độc đáo, với chủ trương của hắn cũng tiến hành hoàn thiện, Dương Hạo chỉ là người đưa ra khung, để cho bọn họ chế định lại, sau đó đưa vào thực thi, hiệu quả rõ rệt. Còn về phía Gi­ang Nam, hắn đã phái người lợi dụng tình hình hiện tại mà đi phao tin, hiện tạm thời Lý Trọng Ngụ cũng không thể dấy binh được.

Hắn không ngờ Lý Dục sẽ có thể chết trên đường, hắn biết Lý Dục có thể sẽ chết trong khoảng thời gi­an là hai năm, nghe đồn là hắn bị trúng tên độc, đau đớn kêu rên, toàn thân co quắp rồi chết. Dáng bộ lúc chết của hắn hết sức thảm hại, nhưng không ngờ mình đã cố hết sức cung chỉ có thể thay đổi được cách hắn phải chết chứ không thể cứu giúp cho cái mạng hắn.

Nhớ tới ngày đó Tiểu Chu hoàng hậu mặc áo tang trắng như tuyết, khóc lóc, Dương Hạo thầm nén một tiếng thở dài. Từ đó đến nay đã ba tháng trôi qua, nghĩ đến dáng điệu bi thảm của nàng, Dương Hạo lại có chút nổi giận, vốn muốn vào phủ để thăm nom cuối cùng lại đành dừng bước. Hắn nắm chặt tay áo, cúi đầu nói nhỏ với Mục Vũ: “Bọn họ đến từ Gi­ang Nam, không quen khí hậu lạnh của phương Bắc, quay về bảo người mang đến ít than củi đặt trước cửa, à, cả thủy sản nữa…”

Mục Vũ “dạ” một tiếng, Dương Hạo liền quay người đi. Vừa đi được vài bước, một chiếc xe chở than củi đột nhiên xuất hiện, phu xe trên xe hô to gọi nhỏ, hốt hoảng thất thố. Con đường này đã có binh sĩ và dân chúng hai bên đường, bọn tiểu nhị đang quét dọn tuyết, trên mặt đất chỉ còn một lớp tuyết mỏng, nhưng rất trơn, xem dáng ngựa đang kinh hãi, giờ muốn giết cũng không giết được rồi.

“Đại nhân mau tránh ra!” Mục Vũ nhảy ra đứng trước mặt Dương Hạo, tức giận nói: “Ngựa nhà ai dám làm hại đại nhân nhà chúng ta, các ngươi…”

Dương Hạo vội né sang một bên để tránh con ngựa đang phi đến. Bọn lính bảo vệ trước sau nhốn nháo cả lên, để lộ ra một khoảng trống, những người đang dọn tuyết bên đường cũng ngẩng đầu lên, mắt lộ ra vẻ dữ tợn, hướng về phía Dương Hạo. Lúc này đây tấm rèm trong xe đột nhiên vén ra, từ bên trong hai thanh đồng được vung ra, có người đang giơ thành sắt lên cao, còn người khác thì rút kiếm, tất cả bọn ọ đều đang liều mạng với mục tiêu trước mắt: Dương Hạo!

Sự việc xảy ra hết sức bất ngờ, thân thủ của thích khách rất cao siêu, cứ cho là đã kịp thời cảnh giác thì bọn thị vệ cũng không kịp nhảy lên phía trước phòng vệ, lại thêm mặt đường trơn ướt, bọn chúng lại đi giày da, tốc độ chậm, trong chốc lát những chiếc chổi đã vung lên trước mặt Dương Hạo, những thanh sắt sáng loáng cũng nhằm hướng cổ hắn mà lao tới, đồng thời một lưỡi kiếm đang tiến thẳng về phía bụng hắn.

Dương Hạo vội vàng né người, nhanh chóng rút kiếm ra khỏi vỏ, lưỡi kiếm sáng lóe lên, thanh sắt bị chém đứt ra làm đôi, thế kiếm không thể dừng được, thuận đà tuột xuống gi­ao với lưỡi kiếm một tiếng, hoa lửa bắn ra. Thanh kiếm trong tay Dương Hạo không hề gì, nhưng thanh kiếm trên tay thích khách đã bị xuyên cho một lỗ hổng to bằng hạt đậu.

Đồng thời, Dương Hạo vội ngửa người, một chiếc chổi quét qua mặt hắn, Dương Hạo phi một cước, đạp thẳng vào giữa bụng của tên thích khách, khiến hắn bay cả người ra, chặn đường tiến của những tên thích khách còn lại.

Thanh Sương kiếm của Dương Hạo sau khi bị vỡ đôi ở bên bờ sông Hoài giờ vẫn cứ sắc bén như thế, nhưng giờ phút này lưỡi kiếm lại chém sắc như chém bùn, nếu như không như thế thì hắn cũng không dám một nhát mà chém đứt thanh sắt, làm mẻ lưỡi gươm sắc của đối thủ, đồng thời hóa giải thế nguy nan.

Thanh kiếm này gọi là Tử Điện, Tử Điện Thanh Sương, thư hùng song kiếm. Hai thanh kiếm này phân định số phận của hai cô gái con nhà họ Chiết, Chiết Tử Du và Chiết Tử Duyệt. Tên hai người có nghĩa phân biệt rõ là sinh, tử rộng rãi, cùng tử tương nguyệt, cùng tử tiểu lão. Còn về cái tên Chiết Trại Hoa đấy là hậu nhân Đỗ Soạn, trên thực tế đó là tên trước khi xuất gia, sau khi xuất gia căn bản không giống như mọi người, trong phủ chỉ còn lưu giữ họ Chiết, không ghi nhớ tên của bọn họ nữa.

Ngay từ đầu khi Chiết Tử Duyệt thành thân, thanh Tử Điện này theo nàng đến nhà chồng, Chiết Tử Du mang Thanh Sương kiếm đến tặng cho Dương Hạo, lòng thành của nàng không nói ai cũng biết, không ngờ thanh kiếm đó lưu lạc đến tận Gi­ang Nam, từ nay về sau trên đời chỉ có Tử Điện mà không có Thanh Sương rồi. Chị cả nhà họ Chiết sau khi lấy Dương Kế Nghiệp, ở nhà giúp chồng dạy con, không còn thường xuyên ra ngoài như hồi con gái nữa, lại đem thanh kiếm Tử Điện sắc bén vô cùng đưa cho chồng, coi như bảo kiếm hộ thân cho hắn.

Dương Hạo cố tình khuyên Dương Kế Nghiệp đầu hàng, nhưng hắn hao tổn tâm cơ, quả nhiên không cách nào khuyên hắn đầu hàng. Dương Hạo bất đắc dĩ đành cố thả cho cha con hắn đi. Dương Kế Nghiệp tuy không chịu khí chủ cầu vinh, nhưng cũng cảm thấy Dương Hạo đối với mình có chút lễ ngộ và tôn trọng, thấy hắn khuyến hàng không được lại khảng khái thả cho mình đi, hắn đối với Dương Hạo cũng cảm thấy có chút khâm phục.

Hai người vốn là anh hùng, trọng anh hùng, tính tình tương thích, trong tình hình đó, Dương Kế Nghiệp liền đem bảo kiếm lúc nào cũng đem theo bên người tặng cho Dương Hạo, coi như bày tỏ lòng cảm ơn của mình với cử chỉ nghĩa hiệp của hắn vì đã thả hai cha con đi. Dương Hạo thực ra cũng không cam tâm, tự nhiên không muốn vì vậy mà cắt đứt liên hệ với hắn, lại được biết lai lịch của thanh bảo kiếm nên nghĩ có một ngày có thể dùng Tử Điện kiếm này để cho Tử Du kiêu hãnh ngoan ngoãn nghe lời, nên không từ chối mà nhận lấy, không nghĩ đến hôm nay lại có thể được việc như thế.

Mấy tên thích khách không ngờ rằng trong tay Dương Hạo lại có được món vũ khí lợi hại đó, vốn nhất loạt tập kích vào chỗ yếu, lập tức liên thủ tấn công, vòng ngoài là một tên võ sĩ cầm thanh sắt và mấy tên thích khách hai tay cầm vũ khí liều mạng ngăn cản vệ sĩ của Dương Hạo, ngoài ra còn có ba tên khác cầm binh đao, không để cho Dương Hạo có một giây phút nào lơ là.

Mục Vũ chém một nhát vào cổ của một tên thích khách đang cầm đao xông tới rồi chạy lại chỗ Dương Hạo vì lo Dương Hạo xảy ra việc gì. Cổ tay Dương Hạo run lên, thanh gươm trong tay lao vun vút về phía mấy tên thích khách, thanh gươm bay nhanh như chớp, đoạt lấy vũ khí trong tay bọn chúng. Hai tay hai gươm tấn công mạnh như vũ bão, trong phút chốc đánh cho bọn chúng tơi bời.

Người đi đường không đông, những người trên đường đều kinh ngạc đứng từ xa nhìn, trong đó có một lão già gù lưng râu bạc trắng đang muốn tiến đến phía trước, nhìn thấy Dương Hạo một tay giơ kiếm, tay kiếm còn lại thì đặt sau lưng, ánh mắt sáng, liền vội vã đứng tại chỗ, dáng người dúi về phía trước, lảo đảo cố đứng vững. Người bên cạnh trông thấy vậy cho rằng lão già bị đám đông xô đẩy nên mới bị trượt ngã chứ không có chút nghi ngờ gì.

Mục Vũ và bọn vệ sĩ như phát điên lên áp sát Dương Hạo, tay gươm như điên như cuồng lao vào tới tấp khiến vài tên thích khách bị chém, hai tên khác bị đứt tay phải, một tên khác thì bị chém đứt cổ. Tên thích khách bị chặt đứt tay ngã xuống đất, thân chưa chạm đất đã bị một tên thị vệ dùng đao đâm xuyên qua tim.

Tất cả chỉ diễn ra trong một thời gi­an ngắn, đám thích khách có sáu tên thì chết bốn, bọn thị vệ tuy người nhiều nhưng cũng bị gục bảy tám người, tuy tính mạng không nguy hiểm nhưng ai cũng bị thương. Lúc này đây bao quanh Dương Hạo còn có hai tên thích khách, chúng thấy tình hình không ổn nên hai tên vội nhảy lên, người hướng đông kẻ hướng tây, vội vàng tẩu thoát.

Dương Hạo nhấc một chân lên đá, thanh sắt nằm dưới đất bay lên, rít gió bay đến phía tên thích khách vừa nhảy về phía bên trái. Tên thích khách đó nghe sau lưng có tiếng động, không nghĩ ngợi gì vội vung kiếm ra cản, không ngờ vật bay đến đó không phải là một mũi tên sắc nhọn, cũng không phải là mũi lao mà là một mũi sắt, mũi nhọn xoay tròn rít gió lao tới, chỉ nghe thấy một tiếng “phực…”, kiếm đứt đôi và một tiếng “á” vang lên, đầu của tên thích khách bay khỏi đầu, cái xác không đầu bay trong không trung rồi rơi xuống đất ở cách đó hai trượng. Trên mặt đất, tuyết tung lên cao đến bảy tám mét.

Mục Vũ đem người đi truy đuổi tên thích khách còn lại, Dương Hạo thu lại kiếm, lạnh lùng bảo: “Công phu của thích khách rất tốt, không cần đuổi nữa, phong tỏa toàn thành, truy bắt hung thủ…”

Nói dứt lời, hắn quay đầu nhìn ra phía đám đông đằng xa, ông già râu bạc đã không còn đứng đấy nữa, Dương Hạo bất giác khẽ cười…

********************************************

“Hạo ca ca, huynh không bị thương chứ?”

Dương Hạo vừa quay về phủ đã thấy Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa và Diệu Diệu vội vàng chạy tới đón. Dương Hạo vừa thấy Đông Nhi bụng mang dạ chửa còn chạy đến còn thấy lo cho nàng hơn, bèn vội vàng tiến lên đỡ, lo lắng nói: “Ta làm sao có thể làm sao, chỉ là mấy tên tôm tép to gan thôi, làm sao nàng lại ra đây, sắp tối rồi đường lại trơn, cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến thai nhi”.

Đông Nhi nhìn hắn từ trên xuống dưới một lượt, thấy quả nhiên hắn không bị thương gì mới yên tâm, ngọt ngào nói với hắn: ” Thiếp nào có yếu ớt như vậy, hơn nữa đã có Oa Oa và Diệu Diệu hết sức cẩn thận, đã quét dọn sạch sẽ mặt đất rồi”.

Dương Hạo nói : ” Cẩn thận vẫn hơn, tóm lại, an toàn là trên hết, kể cả có không yếu ớt cũng không cho phép đi lại lung tung. Oa Oa, Diệu Diệu, các nàng trông chừng nàng ấy”.

Dương Hạo vừa nói vừa đỡ Đông Nhi quay lại hoa đình, mọi người cùng ngồi xuống, dẫu sao cũng không có người ngoài, Dương Hạo không khách khí mà vuốt ve bụng Đông Nhi.

“Xem này, xem này, ta đã nói mà, nàng không sợ nhưng con thì sợ đây này.

Trời lạnh thế này đừng có làm cóng nó, ôi da, nó đang biểu tình trong này đây này.”

Đông Nhi lộ ra cái bụng cao cao, Dương Hạo cẩn thận xoa bụng cho nàng, đứa trẻ trong bụng quả nhiên không an phận, đang đá đấm loạn xạ. Dương Hạo xoa bụng với một vẻ vui sướng, không nén nổi cười: “Tên nhóc này xem ra là một đứa nghịch lắm đây, không giống mẹ nó chút nào”.

Diễm Diễm và Oa Oa, Diệu Diệu thấy như vậy đều rất nóng mắt, chỉ mong được thay thế vị trí ngồi của Đông Nhi bây giờ, nhưng vẫn chỉ dám cúi đầu nhìn cái bụng phẳng lì của mình, không nén nổi tiếng thở dài. Ba mỹ nhân nhìn nhau, không nói mà cùng hiểu ngầm: tranh thủ lúc Đông Nhi đang mang bầu, mùa đông công việc cũng không bận rộn, mấy ngày này nhất định phải dốc sức để Dương Hạo đến phòng mình, cung cúc tận tụy với hắn để cho hắn gieo mầm trong mình mới an tâm.

“Sắp sang năm mới rồi, dặn dò bọn người làm, năm nay trong phủ không đốt pháo”

Dương Hạo vừa nói vừa cúi người xuống, dỏng tai áp sát vào bụng Đông Nhi, nghe thấy tiếng đập rộn ràng trong bụng nàng, không khỏi động lòng: “Đông Nhi và Tiêu hoàng hậu cùng có bầu một lúc, Đông Nhi còn phải hơn nửa tháng nữa mới sinh, vậy Tiêu Xước… giờ cũng phải sinh rồi chứ nhỉ?”

Chương 3 (442): Sinh ra là Thiên Tử.

Liêu Quốc Thượng Kinh, đại nội, cung Nguyệt Hoa.

Một nhóm thị vệ ra ra vào vào trong cung, dáng vẻ hết sức vội vàng. Những nữ binh trong tay cầm đao, mặc áo màu đỏ, cảnh giới hết sức nghiêm ngặt.

Trong sân tể tướng ở phía Bắc, lão già cao tuổi nhất trong gia tộc họ Tiêu - Tiêu Đỉnh đem theo mấy người thân tín của Tiêu Xước và vài lão vương gia đức cao vọng trọng của gia tộc Gia Luật đang đi đi lại lại như kiến bò trên chảo trước điện Nguyệt Hoa, ai nấy đều mang nặng tâm trạng.

Trong cung Nguyệt Hoa, một nữ nhi mười chín tuổi đang sắp sinh em bé, ở bên cạnh là người nhà. Dù đây là một chuyện thường tình vẫn hay xảy ra ở những gia đình bình thường, nhưng đối với hoàng gia thì đây lại là một chuyện lớn đáng quan tâm.

Tiên đế đã qua đời, Khiết Đan đã hơn nửa năm nay không có vua, nước không thể một ngày thiếu vua, theo lý mà nói thì phải chờ hoàng hậu hạ sinh ra hoàng tử, việc này biến thành chuyện lớn, để ổn định quyền lực gia tộc thì phải sớm lập vua mới. Nhưng với quyền lực thép trong tay mình, cộng thêm với sự ủng hộ của những trọng thần trong triều đình, sự ủng hộ của gia tộc nhà họ Tiêu mà cố trụ lại được đến hôm nay.

Hôm nay, đứa trẻ sắp khóc oe oe chào đời nếu như là nam thì sẽ là hoàng đế mới của Khiết Đan, hoàng hậu nương nương sẽ lên chức thái hậu, sẽ thay mặt quốc vương quản lý việc triều chính cho đến khi hoàng thượng trưởng thành. Nội bộ triều đình sẽ không có gì thay đổi, còn nếu như là gái thì sẽ lập tức mở hội nghị lập tân quân, phải tiến hành phân bố quyền lực lại một lần nữa.

Sự việc thế nào ai quan tâm? Các quan văn võ trong triều đình biết được tin tức này đã lập tức cử cấm vệ quân bao vây hoàng thành, đao ra khỏi vỏ, cung được giương, sẵn sàng đón nhận quân địch, mà chư vị hoàng tộc, đại tộc địa tộc trướng quân, ngũ kinh hương quân đều được bí mật điều động, để tránh xảy ra sơ xuất, cả Khiết Đan đều bắt đầu khởi động, chỉ có thường dân vẫn như bình thường, vẫn vui vẻ ra đường, mua sắm hàng hóa, chuẩn bị đón chào năm mới và tết Nguyên tiêu.

“Oa…Oa…Oa…”

Tiếng trẻ con khóc vang lên từng đợt khắp cung điện, lão gia tử Tiêu Định và vài lão già khác râu tóc bạc phơ trong gia tộc Gia Luật đang đứng tụ tập trước cửa cung điện, mắt chăm chú theo dõi, ai nấy đều không nén nổi mà hét lớn: “Mau, mau lên, là nam hay nữ?”

Trong cung điện nóng như thiêu như đốt, Tiêu Xước cả mặt và người đẫm mồ hôi nằm trên giường, xung quanh là những nữ y vội vội vàng vàng xung quanh, bà mo vẫn đang nhảy như điên như dại trước tấm trướng, cả người đầy mồ hôi. Nước nóng, khăn mặt sạch, dao kéo bạc, cùng với canh gà bồi bổ sức khỏe… các nữ quan trong cung thì bận rộn bưng đến hết đồ này đến đồ khác đến.

Tiêu Xước đã dốc toàn bộ sức lực ra, thần thái vẫn còn chút hoảng loạn, tiếng khóc của trẻ lúc xa lúc gần, nàng được dựng ngồi dậy, có người bưng một bát canh gà đến, Tiêu Xước dùng sức đẩy ra, miệng lắp bắp: “Con… Con ta… là trai, hay gái…?”

Một người mặt mày hớn hở chạy đến nói: “Nương nương đại hỉ, nương nương đã sinh hạ một vị tiểu long, là một vị tiểu long, quả không sai, rất mập mạp trắng trẻo…”

“Ôm… ôm đến đây cho ta xem”.

Trên người đứa trẻ vẫn chưa hoàn toàn sạch sẽ, bọc trong một chiếc khăn bông sạch và được đưa đến trước mặt Tiêu Xước. Tiêu Xước tận mắt trông thấy đứa bé là con trai mới thở phào nhẹ nhõm, trên khuôn mặt vui mừng rạng rỡ, nàng phẩy tay cho mọi người lui, các cung nữ trong cung tuân lệnh lặng lẽ đi ra ngoài.

Sau khi ăn một bát súp, hồi lâu sau đứa trẻ lại được đưa đến trước mặt nàng. Tiêu Xước cúi đầu, nhìn đứa trẻ đang ngủ say giấc, khuôn mặt nhỏ nhắn xinh đẹp, cái cằm mập mạp, đôi mắt nhắm chặt đang ngủ rất say, hai bàn tay nhỏ tí xíu thỉnh thoảng lại nắm chặt lại rồi mở ra, như đang muốn tóm chặt một cái gì đó. Nàng nhẹ nhàng đặt nó lại bên mình, hai tay ôm đầu, ngủ một cách đáng yêu.

Trên khóe môi Tiêu hoàng hậu nở ra một nụ cười hết sức ngọt ngào, nhìn đứa trẻ xinh xắn trong suốt như pha lê đang say ngủ, nàng không dám động vào nó, sợ thức giấc. Hồi lâu sau nàng mới thử chạm nhẹ vào người nó, nhẹ nhàng chạm vào đôi tay nhỏ như búp bê của nó, ngay lập tức đứa trẻ nắm chặt tay lấy tay nàng không chịu buông.

“Tiểu oan gia, hôm nay nhà ngươi quấy mẹ quá nhé…”

Tiêu Xước thì thào nói, nhẹ nhàng sờ vào làn da còn mỏng hơn trứng gà bóc, mềm mại non tơ như một miếng đậu phụ, ngọt ngào, ấm áp, thật khiến người ta nhìn mà thích thú. Duy chỉ có một điều là cha của đứa bé không có ở đây. Nàng ôm chặt con trong lòng, trong lòng mơ hồ hy vọng giá như người đàn ông của đời mình cũng có mặt ở đây ôm lấy nàng, để cho nàng có thể nhẹ nhàng nức nở…

**************************************

Nha môn Đường Bạch Hổ Ngân Châu.

Một lão già tóc trắng chắp tay nói: “Thái úy, lão Hán trên đường theo đuổi tung tích đã điều tra ra rõ ràng, tên thích khách đó đến từ bộ lạc Minh Đường, đến ám sát theo lệnh của Lý Kế Bổng”.

“Minh Đường Xuyên Lý Kế Bổng?”

Dương Hạo lập tức đi tới chỗ sa bàn trước mặt, tấm sa bàn này là bản đồ địa lý của cả khu vực Lũng Hữu bên bờ sông phía Tây. Trong đó vẽ tỉ mỉ lưu vực sông, thảo nguyên, sa mạc, thành trì… ở mỗi vùng địa hình khác nhau được đánh dấu bằng những lá cờ nhỏ màu sắc khác nhau, trên lá cờ có đánh dấu người ngựa, tộc trướng của họ, là tấm địa đồ khu vực phía Tây đầy đủ và chính xác nhất, phải dùng đủ gián điệp trên cả ba phương diện “phi vũ”, “theo gió” và “kế tự đường” mới có thể hoàn thành, có tấm bản đồ này thì rất nhiều tướng lĩnh không biết tí gì về địa hình ở đây cũng có thể giành được thắng lợi.

Đinh Thừa Tông cũng nhanh chân đi lại về phía sa bàn, nhìn lá cờ màu vàng cắm trên mảnh đất Ngân Châu, hắn từ từ nói: “Lý Kế Bổng là cháu ruột của Lý Quang Nghiêm, năm nay hai mươi tám. Sau khi Lý Kế Bổng chết, Ngân Châu chư hùng tranh vị, Hạ châu Lý Quang Duệ lập Lý Quang Vụ phòng ngự Ngân Châu, Lý Kế Bổng bị thất sủng, không có chút oán hận gì với Hạ Châu nữa.

Chúng ta vốn cho rằng, Lý Kế Bổng sẽ vì thế mà sẽ không trung thành với Lý Quang Duệ, hơn nữa dựa vào thế lực của hắn ở Minh Đường Xuyên cũng không thể trở thành nỗi uy hiếp của Ngân Châu chúng ta. Thêm nữa trước mắt thái úy đang muốn đánh Khánh Vương, còn cần nước Tống canh giữ cửa, Lý Kế Bổng trên danh nghĩa là Tống thần, do đó không cần phải chú ý đến hắn. Không được thì hắn đã muốn hành thích thái úy rồi”.

Nói đến tình thế xung quanh, Đinh Thừa Tông như tính đến cả Gia Trân, Dương Hạo thì cần phải nắm toàn bộ cục diện, đối với rất nhiều tình tiết đều gi­ao cho thuộc hạ đi làm, khi mới bắt đầu cũng không có dự tính làm việc gì cũng tự mình làm chủ soái, đối với những việc tình báo thì Đinh Thừa Tông cũng hiểu rõ, bèn hỏi: ” Minh Đường Xuyên có ít người ngựa không? Nếu như chúng ta tấn công, lại đi sai nước cờ thì làm sao có thể công phá được?”

Đinh Thừa Tông nói: “Nơi này lệch về hướng Bắc, nông canh ít người, súc mục nhiều, tộc trướng có hơn một vạn bốn nghìn hộ, hơn bảy vạn nhân khẩu, có điều đa số đều sinh sống bằng nghề chăn thả, họ không có đủ lương thảo để sống, do vậy thường tập trung ở khu song long thành, đội binh tinh nhuệ thường trú không đủ năm nghìn, tòa thành đó được xây dựng ở đỉnh núi song long, nhưng lại dễ tàn phá, không đáng giá phòng thủ.

Nếu như chúng ta có thể xuất binh đánh thì Lý Kế Bổng ắt bại.

Có điều có hai điều phiền phức, thứ nhất gia sản của Lý Kế Bổng có hạn, kẻ địch chẳng qua là kẻ địch, đánh không lại thì địch sẽ bỏ thành mà chạy, hắn vốn coi du mục là việc chính, một khi bỏ chạy thì tám phương bốn hướng đều có thể chạy được, kể cả có bị truy đuổi thì bọn họ đã chạy sẽ không cần quay lại. Nếu như không thể giết được thì nhiều lắm cũng là bị thương ở bên ngoài, ủy lao viễn chinh cái được không bù nổi cái mất, mặt khác, Lý Thị cũng không từng chủ động dụng binh với chúng ta. Chúng ta cũng không có căn cứ Lý Kế Bổng đã giết thái úy, nếu như tùy tiện khơi mào sự tình thì e rằng sẽ rơi vào mặt bất lợi.”

Dương Hạo cười lạnh, gật gật đầu trên sa bàn, thản nhiên nói: “Có một vài người thuộc Lư tử, vội không đi, đánh lại thoái lui, ngươi nghĩ muốn làm việc thiện cũng không được, đây là nơi kẻ mạnh xưng vương, có ân cũng phải có uy, như vậy mới là thủ đoạn khiến lòng người tâm phục khẩu phục. Bảo đảm nếu như có cơ hội thì người có dã tâm sẽ phản lại rất nhanh. Ở Tây Bắc, phải làm lang Vương, mà đã là lang Vương thì chẳng lẽ không để lộ nanh vuốt của ngươi?”

Đinh Thừa Tông mỉm cười, nhìn người huynh đệ của mình rồi nói: “Tốt, nếu như thái úy đã có ý định đánh thì ta sẽ lập tức đi triệu tập Mạc Liêu, nghiên cứu xem sẽ do ai xuất trận, điều động bao nhiêu binh mã, ra trận thế nào, sẽ có kế hoạch cụ thể rồi sẽ cho thái úy phê chuẩn sau”.

Thuộc hạ của Lý Kế Bổng có một đại tướng, tên là Trương Phố, người này là người Hán, có dũng có mưu, người Ngân Châu, rất được Lý Quang Nghiễm coi trọng. Sau khi Lý Quang Nghiễm chết, Lý Quang vụ kế vị, trắng trợn lợi dụng tình riêng. Trương Phố ở dưới trướng hắn không được trọng, liền chạy theo Lý Kế Bổng. Lý Kế Bổng là người thô lỗ, không cần suy nghĩ nhiều, nhưng kẻ này có mưu đồ, muốn đi nước cờ tiêu diệt Minh Đường Xuyên, cần phải cẩn thận trù tính một phen”.

Dương Hạo gật gật đầu, nói: “Còn nữa, bộ lạc nào gặp thiên tai, không còn lương thực thì phải sớm phái người vận chuyển lương thực đến, không phục thì đánh cho một trận, buộc phải quy thuận. Chúng ta cũng phải đối xử như nhau để còn chiếu cố”.

Đinh Thừa Tông gật đầu: “Thần biết rồi ạ, thần xin cáo lui”.

Những việc này, Dương Hạo vẫn cảm thấy không giấu nổi lão già đó. Lão già đó là cha của Trúc Vận, họ Cổ tên Đại Cát, cũng được coi là một dị nhân gi­ang hồ. Hắn tuy là người của Kế Tự Đường nhưng hiện giờ Dương Hạo và Kế Tự Đường vẫn đang trong thời kỳ trăng mật, có một chút cơ mật hạn chế, cũng không cần thiết phải giấu diếm người của Kế Tự Đường.

Sau khi Đinh Thừa Tông rời đi, Dương Hạo mới quay người qua phía Cổ Đại Cát, mỉm cười nói: ” Làm phiền Lão rồi, lần này bôn ba quả thực là rất gi­an khổ, xin lão trượng nghỉ ngơi ở Ngân Châu ít hôm, đợi kế nghị đã định thì nói không chừng cũng phải nhờ đến lão trượng ra tay”.

Cổ Đại Cát thấy hắn đường đường là Tể tướng mà lại khom người hành lễ với lão như vậy cũng không nén được cảm giác sợ hãi, vội vàng nói: “Thái úy khách khí quá, khách khí quá, lão hán không nhận nổi cái vái này của thái úy đâu, có việc gì thái úy cứ dặn dò”.

Dương Hạo cười hà hà nói: “Được rồi, lão trượng cứ đi nghỉ trước đi”.

Cổ Đại Cát dạ vâng rồi quay người đi, do dự một lát hắn ngượng ngùng cười nói: ” Có thể vất vả vì thái úy, lão hán cũng không có gì oán thán. Lão không nề hà mất công sức, lão hiện giờ đã yếu kém hơn nhiều so với thời trai trẻ, lão chẳng sợ gì cả, chỉ sợ ngộ nhỡ có gì sơ xuất sẽ làm hỏng việc lớn của thái úy. Tiểu nữ Trúc Vận là chân truyền của lão, cũng là người ngoan ngoãn lanh lợi, nếu như thái úy không chê thì có thể đem theo bên mình để dùng, nhất định sẽ trợ giúp được nhiều cho thái úy”.

Dương Hạo ngẩn người, rồi chậm chạp nở nụ cười nói: “Ừm… Trúc Vận cô nương lanh lợi thông minh, võ công phi phàm, bản quan vẫn luôn coi trọng.

Hiện cô nương đó vẫn còn đang phải tu luyện ở Lô Châu, chờ cho có thời gi­an rảnh rỗi bản quan sẽ cho mời cô ta về”.

Cổ Đại Cát nghe thấy vậy mặt mũi vui mừng phấn khởi, các nếp nhăn trên mặt đều giãn ra, liên tục nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt,… vậy lão xin cáo từ, xin cáo từ”.

Cổ Đại Cát bước nhanh ra cửa, vui mừng phấn khởi, Dương Hạo nhìn theo bóng hắn cười cười.

Cổ Đại Cát là một cao thủ võ thuật, nói hắn là dị nhân gi­ang hồ cũng không có gì là quá đáng, có điều về mặt võ nghệ mà nói, hắn quả nhiên là một tay cao thủ trong giới gi­ang hồ, nhưng thực chất, hắn chỉ là một tên coi ngựa cho Kế Tự Đường mà thôi. Một người thực sự thoát khỏi trần thế thì là người có chí khí, nếu như ở điểm này đi ra ngoài biên giới thì dẫu cho hắn có trói gà không chặt thì cũng có thể mỉm cười tự hào. Ngược lại, một người trần tục, có gia đình, có con cái, phải lo nghĩ về những cái phức tạp hồng trần của cõi tục thì dù võ công của hắn có cao siêu thế nào thì vẫn cứ là một người phàm trần, vẫn phải cúi đầu trước quyền lực và của cải.

Thân làm cha, ai mà hy vọng con gái mình cả ngày mang theo gươm giáo, làm mấy cái việc đổ máu thương vong? Trong lòng Cổ Đại Cát, nếu như con gái có thể trở thành thê thiếp của một anh hùng như mình hồi trai trẻ đã gọi là cao rồi, còn cần đòi hỏi xuất thân làm chi?

Dương Hạo không hề có ý khinh Cổ Đại Cát hèn mọn mà ngược lại trong lòng còn có nhiều cảm khái. Đưa Trúc Vận quay trở lại Lô Châu cố nhiên là hy vọng nàng có thể luyện tập trợ giúp cho mình, hy vọng có ngày hóa thân biến thành phượng hoàng. Trên thực tế hắn cũng có những điều khổ tâm trong lòng. Trúc Vận có tình cảm với Bích Túc, điều đó hắn biết, hắn cũng hy vọng một cô nương tốt như Trúc Vận có thể cảm hóa được trái tim của Bích Túc, không để hắn cứ mãi mãi đóng chặt cánh cửa tâm hồn mà ôm nỗi thù hận.

Thế nhưng giữa hai người không hề có tiến triển gì, cái chết của Tĩnh Thủy Nguyệt là một đón quá nặng nề đối với Bích Túc, tình cảm của hắn với Thủy Nguyệt sâu nặng như vậy, có lẽ… chỉ đến khi Triệu Quang Nghĩa chết đi thì mới giải thoát được cõi lòng hắn chăng?

**********************************************

Băng tuyết thổi trắng trên mặt đất, đại đội người ngựa đi tới đi lui, người hô ngựa hí, tiếng động ầm ầm, nghe theo hiệu lệnh chỉ huy của ngọn cờ, trông thì loạn mà thực chất vẫn theo trật tự.

Hiện dân nước Châu đã không thể so sánh với Hung Nô của thời Hán, vào thời đó mũi tên mà quân Hung Nô sử dụng đại đa số là được làm từ xương thú, còn hiện thì ở một số dân tộc thiểu số đã nắm được kỹ thuật luyện sắt cao siêu, đặc biệt là kỹ thuật được truyền từ dân tộc Ả Rập thì càng tiên tiến và hiện đại hơn nữa, thậm chí còn vượt qua cả dân tộc Hán của Trung Nguyên. Như vậy muốn tận lực giảm bớt số lượng thương vong thì nhất định phải khổ công trên chiến trường.

Dương Hạo đã có sẵn mỏ quặng, mỏ sắt của mình, hai mỏ kết hợp, lại có tài lực của Kế Tự Đường trợ giúp, thêm kỹ thuật lyện sắt của thương gia Ả RẬp, không chỉ tạo ra những binh khí tuyệt vời cho đội quân tinh nhuệ mà còn làm ra những bộ áo giáp tuyệt vời, khắp nơi xa gần không ai là không biết đến.

Về phần động lực, Dương Hạo không tính toán so đo nhiều với những đối thủ cao siêu, lương thực vận chuyển đến đây cũng có hạn, chỉ có thể cung cấp một lượng nhất định cho đoàn người ngựa, hơn nữa tốc độ công kích của họ cũng cao hơn nhiều so với ngựa ở Mông Cổ, nhưng khi viễn chinh đường dài thì yếu kém hơn một chút, cũng không cần chuẩn bị quá nhiều, có điều dưới sự khống chế chỉ huy của Dương Hạo thì có được đủ ngựa cũng không phải là điều khó khăn.

Từ khi phát minh ra bàn đạp, kỵ binh có thể giành ưu thế trong chiến đấu, động cơ của họ là số lượng bộ binh lớn gấp 10 lần, mặc dù chính diện chiến đấu nếu như bộ binh có thể chỉ huy thích hợp thì sẽ không bị thiệt, thậm chí thương vong của kỵ binh còn hơn bộ binh, nhưng tốc độ của kỵ binh lại hơn bộ binh 10 lần, kỵ binh thất bại có thể tháo chạy để tránh bị tổn thất, còn bộ binh nếu như bị bại trận nhất định sẽ bị thương vong, hai bên căn bản không ở cùng vạch xuất phát.

Vốn bộ binh Trung Nguyên so với kỵ binh có vũ khí đắc lực nhất là cung tên, đây cũng là nguyên nhân tại sao nhà Tống trang bị thứ vũ khí nhiều nhất chính là cung tên. Nhưng cung tên mà Dương Hạo chuẩn bị là loại cung đặc biệt, loại cung cũ là loại tầm bắn ngắn, không dễ nhắm, bắn mười mấy lần ắt cảm thấy mệt mỏi vô cùng, loại cung tên mới này vượt xa những loại cung cũ.

Dương Hạo đã từng kinh ngạc khi xem bộ phim “Anh hùng”, có cảnh hàng vạn mũi tên cùng nhất loạt phóng ra, nhưng khi chính hắn là người nhận ra được uy lực của những mũi tên này thì hắn mới bắt đầu ý thức được cảnh tượng đó không phải là không thể thành hiện thực, hắn cũng có thể làm được.

Thuộc hạ của hắn vốn có sở trường là cưỡi ngựa bắn cung, thậm chí không cần chuyên tâm luyện tập, những kỵ sĩ này cũng tự nhiên mà ý thức được sự lợi hại của những cánh cung, khi họ lần đầu cầm cung tên luyện tập, họ đã ý thức được bản thân mình là một chiến binh ngoan cường, tinh nhuệ, không gì có thể so sánh được.

Trận diễn tập tác chiến này là trận công kích theo kiểu truyền thống của Tây Tạng, phá trận, phá chiến thuật của địch… Dương Hạo còn đề xuất thêm một chiến thuật mới: chiến thuật Napoleon. Dương Hạo đương nhiên không tự mình đặt ra tên của chiến thuật đó, nhưng hắn dùng chiến thuật của Napoleon, trong tình huống phải quyết chiến thì đội kỵ binh tinh nhuệ sẽ tiến hành đè ép đối phương, khiến chúng phải thu hẹp vòng vây, sau đó nhất loạt giương cung, từng đoàn ngựa được buộc pháo sẽ thần tốc tấn công, tạo thành một cảnh hỗn loạn để binh lính tiến vào càn quét, bộ binh sẽ chủ động quét sạch trận địa.

Đám người như Mộc Ân, Mộc Khôi tuy không hiểu gì lắm, nhưng khi được Dương Hạo giảng giải và đích thân diễn tập cụ thể chiến thuật đã không khỏi thán phục, đối với chiến thuật này cũng ra sức phát huy uy lực. Bọn họ phục tùng Dương Hạo chỉ là do thân là thiếu chủ của Dương Hạo mà vẫn đối xử nhân nghĩa với họ. Từ lúc đó trở đi, họ đã thực sự cảm thấy kính sợ trong lòng.

Dương Hạo đứng trước trận địa, tận mắt trông thấy tướng sĩ phối hợp diễn tập, chiến thuật được thực hiện vô cùng ăn ý chuẩn xác, trong lòng không khỏi khấp khởi vui mừng. Có điều hắn lại không biết rằng hắn học lóm chiến thuật này của Napoleon, trên thực tế chính Napoleon lại là người học của Vĩnh Lạc đại đế. Vĩnh Lạc đại đế chính là người lập nên thế trận dùng ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ đè ép kỵ binh Mông Cổ, sau đó dùng chiến thuật đánh trực diện ba gi­ai đoạn, dùng lửa để tấn công mà thắng.

Kỵ binh đã rút lui khỏi võ trường, hiện đang phối hợp tác chiến với bộ binh, bọn họ còn nghĩ ra trò mới là đánh mõ chân, có thể tăng tốc lên rất nhiều.

Trong khi hành quân đường dài cơ chân sẽ không dễ bị kéo thương. Dương Hạo ngồi trên ngựa, đội bộ binh cũng lui khỏi trận diễn tập, quay người cười với Mộc Ân: “Tốt lắm, ta vốn cho rằng vài người các ngươi có tác chiến dù dũng mãnh nhưng cũng không rõ mục đích, trên chiến trường khó tránh khỏi thương vong. Không ngờ hôm nay nhìn thấy các ngươi luyện tập, không chỉ dũng mãnh mà còn thuần thục, ha­ha, đội quân của các ngươi luyện tập hết sức xuất sắc. Tiểu Lục và Thiết Đầu đang luyện binh ở Lô Châu, khi về sẽ phái vài quân tinh nhuệ đem chiến thuật này về dạy cho bọn họ”.

Mộc Ân và Mộc Khôi nghe khen mặt đỏ lên, hai người luôn mồm dạ vâng. Dương Hạo đang thúc ngựa về thành, từ đằng xa đã nghe thấy có kỵ tiễn đến. Người đó mặc một bộ quần áo trắng, cưỡi trên lưng một con hồng mã, đăng sau lưng là một chiếc áo choàng màu đỏ, giục ngựa phi như bay giống như một đám mây hồng bay tới, Dương Hạo không nén được bèn ghìm cương ngựa, kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc.

Chỉ một lát, con ngựa đó đã phi tới trước mặt Dương Hạo, tên kỵ sĩ vội ghìm dây cương, chiến mã lập tức dừng lại, hý vang một tiếng thật dài. Hơi thở trắng như sương trắng của nó phà vào cả mặt của Dương Hạo.

“Ngọc Lạc, làm sao muội lại ở đây?” Dương Hạo trông rõ người kỵ sĩ, không nén nổi cười hỏi.

Người ngồi trên ngựa mặc bộ y phục màu trắng, chiếc eo nhỏ nhắn được quấn chặt, sau lưng đeo một thanh bảo kiếm, chiếc áo choàng màu đỏ bay phơ phất, tư thế oai hùng, xinh đẹp hơn người, đúng là Đinh Ngọc Lạc.

Đinh Ngọc Lạc vẫn không rời yên ngựa gọi đại ca, nàng ngồi trên ngựa, mặt hướng về phía Dương Hạo hành lễ, rồi tức khí nói: “Đại nguyên soái hôm nay dẫn ba quân đi diễn tập, tại sao không cho nữ binh đi diễn tập một phen? Mạt tướng không phục”.

Dương Hạo cùng Mộc Ân, Mộc Khôi nhìn nhau ngạc nhiên rồi cùng cười ha hả nói: “Không sai, không sai, ta quên mất là ta còn có một nữ binh, ừm… là lỗi của ta, hôm nay lại đi mời nữ binh đến e rằng không kịp nữa rồi, thế này đi, lần sau…”

Đinh Ngọc Lạc cười đắc ý, nhướn mày nói: “Biết ngay đại nguyên soái sẽ nói thế mà, đại nguyên soái vô ý không kiểm binh nữ là tốt rồi, chúng ta dẫu sao cũng đã tới rồi, đại nguyên soái có thể kiểm binh chứ?”

Dương Hạo ngẩn người một chút rồi ngẩn người nói: “Thôi được, đã đến rồi thì bản soái xem thế nào, người ngựa của muội ở đâu?”

Đinh Ngọc Lạc mừng rỡ, trở tay lấy cung, bắn ra một mũi, trúng mục tiêu là một chỗ cao trên sườn núi. Tiếng mũi tên xé gió lao vun vút, từ chỗ mục tiêu bắn đột nhiên xuất hiện một sợi dây màu đỏ, sợi dây đỏ nhanh chóng biến thành một làn sóng lớn màu đỏ, tiếng kèn vang lên, người như hổ, ngựa như rồng, từng đoàn từng đoàn nữ binh mãnh liệt lao ra.

Dương Hạo vốn không để cho đội nữ binh ra trận chém giết, chỉ hy vọng họ có thể ổn định canh giữ thành trì, do vậy không trang bị cho họ áo giáp và khiên. Trang phục họ mặc đều là áo giáp da bò, bên ngoài mặc áo choàng màu đỏ, đám tua dài trên dải mũ bay phấp phới như một làn sóng màu đỏ đổ xuống, nổi bật và hào hùng trên nền tuyết trắng xóa.

Đông Nhi đã sắp đến kỳ sinh nở vẫn còn đích thân dẫn quân đến, cùng với Mục Thanh Tuyền, Đinh Ngọc Lạc, Điềm Tửu là ba phó thống lĩnh đến, xem tình hình thì có lẽ đội quân của bọn họ đã luyện tập không xoàng. Do đoàn người ngựa của bọn họ đông như vậy lại được giấu trên núi cao, đột nhiên xuất hiện không một tiếng động nào khiến Dương Hạo phải chú ý.

“Ôi, nữ binh!”

” Ôi xem cô kia, cô kia xinh kìa”

“Đâu, ai cơ?”

” Ai da ai da, cô nương kia mới gọi là đẹp…”

Tiếng kinh ngạc nổi lên không dứt. Dương Hạo ngồi ngay ngắn bất động, mặt không biến sắc, chỉ khẽ nheo mắt nhìn đoàn người ngựa đang tạo thế trận.

Mới vừa rồi còn là một tướng quân nghiêm sắc mặt, lạnh như đá, nay đúng là … trông thật đẹp mắt. Cả một đám nữ binh đông như vậy cùng nhất loạt giảm sát, thanh âm nghe cũng thật vui tai, đôi mắt Dương Hạo cũng nhẹ cong lên.

Đinh Ngọc Lạc thúc ngựa quay về đội, ba nhánh quân kỵ binh tổng cộng ba nghìn người nhanh chóng tạo thành hình, do ba vị phó tướng chỉ huy.

Con gái phương Bắc và phía Tây tuy giỏi cưỡi ngựa bắn cung, nhưng rất ít người ra chiến trường, được trông thấy họ mặc áo giáp ngay ngắn cùng đội nữ binh thì càng khó hơn, do vậy đội nữ binh vừa xuất hiện thì ngay lập tức những tiếng hô hào cũng nổi lên như trông thấy một kỳ quan.

Tiếng kèn hiệu lệnh nổi lên, đội nữ binh mặc áo choàng đỏ đứng ngay ngắn, phải có đến khoảng hai ba trăm người cùng nhau diễn tập công kích, phá trận,… ai nấy đều dáng người kiêu hùng, tư thế oai phong lẫm liệt. Tiếp đó là một đội khác khoảng ba trăm người xuất hiện, diễn tập tấn công rồi nhanh chóng bứt ra tiến về phía trước, giương cung thử cưỡi ngựa bắn cung.

Công bằng mà nói, công sức luyện tập của các nàng quả cũng khôn phải là ít. Có điều so với cánh đàn ông thì nhất định là có phần yếu kém hơn. Có điều, thân thể họ tuy yếu đuối, nếu như tác chiến trên lưng ngựa thì sự chênh lệch cũng không phải lớn lắm, nếu như binh lực quả thực đến lúc thiếu kém thì họ vẫn có thể phát huy được năng lực. Thế nhưng điều này Dương Hạo vẫn chưa thực sự để họ được luyện tập, trang bị vũ khí cũng còn kém, thế mà họ vẫn đạt đến kết quả này quả thật là điều đáng quý.

Dương Hạo thì thào lẩm bẩm: “Đúng thật là không nhận ra, những nữ binh này quả thật không tệ chút nào”.

Kha Trấn cười ác ý nói: “Bọn họ mười sáu tuổi trở lên, bốn mươi tuổi trở xuống tập hợp với nhau tự nguyện thành lập đội binh, mỗi tháng chỉ luyện tập mười ngày, lương thực cho quân được phát với số lượng có hạn, rất nhiều nữ binh đều hăng hái báo danh, con gái phía Tây vốn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, gia tăng luyện tập nữa gì mà không thành”.

“Mỗi tháng chỉ luyện tập mười ngày thôi?”

Dương Hạo nghe xong lẳng lặng gật đầu, trang bị không bằng người khác, lại không được chỉ đạo chiến thuật đặc biệt, mỗi tháng luyện tập thời gi­an ít ỏi, các vị nữ binh của chúng ta quả thật không tầm thường, chẳng trách năm đó Công chúa Đại Đường Lý Ngọc Ninh dẫn một đội nữ quân đi mà có thể rong ruổi Quan Trung, danh tiếng lẫy lừng.

Kha Trấn lại ác ý nói: “Hiện tin tức truyền đi rằng, đã có rất nhiều nữ binh muốn nhập ngũ, chỉ có điều hiện giờ thời tiết lạnh lẽo, e rằng đến mùa xuân họ mới đến được. Những vị nữ binh này là do tự luyện tập từ nhỏ, chỉ cần cho bọn họ tiến hành luyện tập theo quân pháp họ sẽ rõ ý nghĩa của cờ hiệu và pháo hiệu, có thể lệnh cấm, tiến công có trình tự, chiến lực mới khả quan được”.

Dương Hạo gật đầu nói: “Đúng, có điều nữ binh bắt buộc phải do họ tự nguyện, không được miễn cưỡng. Cha mẹ bọn họ cũng nhất định phải đồng ý mới được, rất nhiều người muốn đi nhưng cha mẹ không đồng ý, cũng cho họ về, tránh xảy ra rắc rối sau này”.

Kha Trấn cười nói: “Thái úy yên tâm, tiểu thư Thanh Tuyền và Điềm Tửu gia nhập đội nữ binh vừa được phát lương thực, thuế trong nhà cũng được giảm nhiều, những gia đình nghèo khổ phần lớn đều đồng ý ạ…”

Bên này nói chuyện xong thì bên kia ba đội nữ binh cũng đã dẫn hết quân ra chiến đấu, tinh kỳ bay vù vù, ngựa hý vang trời. Trên nền tuyết trắng, chiếc áo choàng đỏ của họ trông giống như những ngọn đuốc cháy sáng, kết hợp với nhau hết sức ăn ý. Đợi cho đến khi có tiếng gà gáy, ba quân đồng loạt rút về như thủy triều rút xuống, trật tự có trình tự, luân phiên, hoàn toàn dựa theo tiêu chuẩn chiến đấu, chiến pháp cũng khá, Dương Hạo không thể không gật đầu.

Ba nhánh quân tụ họp thành hàng lối phòng vệ ngay ngắn, ngựa hý lên từng hồi, những nữ binh vẫn ngồi trên lưng ngựa, nổi bật vẻ xinh đẹp trên nền tuyết trắng. Chỉ trong chốc lát, Mục Thanh Tuyền, Đinh Ngọc Lạc và Điềm Tửu cùng quất ngựa đi tới, đến trước mặt Dương Hạo thì xuống ngựa thi lễ, đồng thanh nói: “Ba quân thao diễn đã xong, mời đại soái cho biết ý kiến”.

Dương Hạo cười nói: “Làm khó cho các nàng rồi, thời gi­an luyện tập ngắn ngủi, quân đội trang bị cũng còn yếu kém, nhưng lại có thể có được kết quả thế này. Nói với binh lính của các nàng rằng, bản soái ta rất… hài lòng”.

Điềm Tửu mừng rỡ nhảy cẫng lên, phi thân lên ngựa quất roi đi, đi qua đi lại trước mặt ba nghìn nữ binh, lớn tiếng truyền lại câu nói vừa rồi của Dương Hạo. Giọng nói của nàng to sang sảng, lại thêm lời của Dương Hạo nghe rất lọt tai nên ai nấy đều nghe rõ ràng. Nàng lúc thì nói tiếng Hán, khi nói tiếng Khương, lúc lại nói tiếng Khiết Đan… suy cho cùng cũng chỉ là nói lại nội dung câu nói đó mà thôi. Nghĩ ra những nữ binh đó xuất thân không cùng một bộ tộc, nên nếu nói bằng một thứ tiếng sợ rằng có người nghe không hiểu.

Mỗi lần Điềm Tửu nói, trong đội nữ binh lại vang dội tiếng hoan hô, Dương Hạo mỉm cười nói: “Ngôn ngữ bất đồng, nhưng họ vẫn có thể gi­ao lưu với nhau. Thông dịch quán ở Lô Châu phải nhanh chóng xây dựng, ra lệnh triệu tập đủ mọi bác học của các dân tộc, các văn hóa ở khắp dân tộc, cùng phiên dịch điển tích, thơ ca và Phật giáo. Lấy tiếng Hán và Tây Tạng làm chủ, có thể trở thành tiếng phổ thông, đồng thời trong quá trình truyền dạy Phật giáo kinh điển thì cho họ làm quen với tiếng Hán, dùng tiếng Hán làm công cụ gi­ao lưu”.

Chương 4 (443): Lại đến ngày trộm.

Hôm nay lại là ngày ăn cắp.

Ngày này năm ngoái, Gi­ang Nam Tống sứ gặp chuyện, Tái Bắc Khánh chủ mưu phản, một năm đã qua đi, Tái Bắc Gi­ang Nam đã đổi nhân gi­an, mà ngày ăn trộm này, Ngân Châu cũng đổi vị chủ nhân mới: Dương Hạo.

Hôm nay dân chúng thành Ngân Châu hò reo ầm ĩ khắp đầu làng ngõ xóm, câu đối, ảo thuật, khắp nơi vui tươi hoan lạc, dân chúng tươi cười chúc nhau, hiếm khi thấy họ vui vẻ như vậy.

Còn Dương Hạo thì không mang gia quyến và dân đồng lạc, vì hắn quyết định xuất binh tấn công đánh Minh Đường Xuyên Lý Kế Bổng. Ngày thịnh đại là phòng vệ vui vẻ nhất, cho nên cũng là ngày binh gia thích chọn làm ngày đánh lén, Lý Kế Bổng tuy không biết hắn lộ sơ hở nhưng trong lòng như có ma vậy, thành Song Long cũng cần tăng đề phòng cho nên Dương Hạo dùng cách trái ngược, hắn không chọn một ngày đánh lén mà là chọn ra một ngày xuất binh. Ngày hội Nguyên Tiêu vui vẻ trong ba ngày, trong ba ngày này là khi Minh Đường Xuyên Song Long thành đề phòng nghiêm mật nhất. Sau ba ngày, Lý Kế Bổng sẽ thở phào nhẹ nhõm hơn, còn đại quân Dương Hạo hoàn toàn đuổi tới được.

Trong bạch hổ tiết đường, Dương Hạo mặc đồ nhung, Tiêu Nghiễm đứng dưới bức tranh bạch hổ hạ sơn, tay vịn vào bàn, lớn giọng nói: “Mộc Ân, Mộc Khôi”.

“Có mạt tướng”.

Dương Hạo nắm vào cung tiễn, lớn giọng nói: “Bổn soái có thân tín là hai người, kỵ binh ba nghìn, tối lên đường, bay nhanh Minh Đường Xuyên, ta không cần các người công thành đoạt trại, chỉ cần các người bảo vệ được các đạo hướng tây, hướng bắc, hướng đông thành Song Long, tránh Lý Kế Bổng hướng đại hoành thủy, địa cân trạch, hoàng dương bình, đó chính là điều kiện đại công, bọn người chỉ cần y lệnh hành sự, nhiều cạm bẫy, nhiều bố bụi gai, chỉ thủ không công, chớ tham tấn công, dư địch thừa cơ hội, cứ theo quân pháp mà làm, nghe rõ chưa?”

“Mạt tướng tuân lệnh”.

Hai người chắp tay thi lễ rồi lui về sau ba bước.

Dương Hạo quay sang nhìn Tiêu Nghiễm, rồi nghiêm nghị nói: “Ngải Nghĩa Hải”.

“Có mạt tướng”.

Một viên tướng khác bước ra, dáng người này khá khôi ngô không kém gì Mộc Ân, Mộc Khôi, một hán tử râu quai nón xoăn xoăn, đỉnh đầu trơn tru, mày rậm, mũi thẳng, một vết đao kéo dài đến trấu cám, xem ra uy phong lẫm liệt.

Khu tây bắc không có chính quyền thống nhất nên đồ đệ bỏ mạng nguyện ý chạy đến đây hoặc khu biên giới Khiết Đan và Tống quốc kết bè kết đảng, làm loạn nhất phương. Tây bắc dễ qua lại hơn khu biên giới Tống quốc và Khiết Đan, coi là chốn yên vui của khổ dịch tử tù tội phạm thổ phỉ. Năm nay Lư Nhất Sinh làm đạo tặc ở khu biên giới Tống quốc và Khiết Đan, không phải hắn không muốn đến chỗ tây bắc mà là vì một núi không thể có hai hổ, tây bắc đã có Ngải Nghĩa Hải, Ngải Nghĩa Hải chính là đại thủ lĩnh của mã tặc tây bắc.

Tên này dũng mãnh thiện chiến, thế lực mạnh hơn Lô Nhất Sinh nhiều lần, Lô Nhất Sinh không phải là đối thủ của hắn, mới dẫn thuộc hạ tránh sang phía bắc, Ngải Nghĩa Hải tung hoành tây bắc, giết người cướp của, chẳng thể đề phòng cho dù là Chiết phiên, Dương phiên, Lý phiên, hay là thế lực Thổ phiên, Hồi Hột giả dối như hồ li, hung ác như sói.

Dương Hạo sau khi đoạt được Ngân Châu, tuyệt đối không cho phép trong phạm vi kế hoạch của mình có đám mã tặc làm xằng làm bậy, thế là tỉ mỉ bố trí, quyết tâm tiêu diệt đám mã phỉ. Dương Hạo giờ danh vọng sáng chói ở tây bắc, người Khương Hoành Sơn, Đảng Hạng Thất Thị nghe theo mệnh lệnh hắn, rất nhiều tiểu bộ lạc Thổ Phiên và Hồi Hột nương tựa vào hắn.

Còn về bộ lạc tương đối lớn tuy còn giữ khoảng cách nhất định, nhưng dựa vào tên tuổi của hắn, thì dân chúng của bộ lạc này cũng chính là thần linh đối với người của hắn, muốn nghe ngóng tin gì, cần phối hợp với họ dễ như trở bàn tay, cầm rất nhiều điểm tốt của mã tặc, thành dân chăn nuôi ám mã tặc, đều không dám bất kính với thần minh, ngầm có tin tức gì đều không giấu diếm nói cho người của Dương Hạo.

Đến lúc này Ngải Nghĩa Hải trở thành người mù cưỡi ngựa mù trong phạm vi thế lực Ngân Châu, hắn vốn cho rằng Dương Hạo mới được Ngân Châu, khó khống chế, nhưng không ngờ mình bị rất nhiều tên tình báo nói dối, cuối cùng lại rơi vào cái bẫy của Dương Hạo, bị vây ở một nơi không thể chạy được, bị kỵ binh nhẹ của Dương Hạo vây, nặng kỵ tấn công, đao binh càn quét, thế binh vừa triển khai, đại đội lớn mạnh ăn tươi luôn được Ngải Nghĩa Hải, Ngải Nghĩa Hải biết năm nghìn huynh đệ hắn hôm nay không có cơ hội sống mà trốn chạy, thế là lập tức xuống ngựa vứt đao, hung hăng lấn đến, hai tay giơ lên trước trận xin hàng.

Mộc Ân áp tải đoàn người Ngải Nghĩa Hải Ngân Châu nói với Dương Hạo, Dương Hạo lại có khâm phục tên hán tử này có dũng khí và nghĩa khí, thế là chiêu hàng hắn, tên này tuy là cường đạo kiêu ngạo, nhưng tác chiến dũng cảm, vô cùng nghĩa khí, thực là một hán tử quang minh lỗi lạc.

“Ngải Nghĩa Hải, dẫn theo nhân mã của bộ lạc ngươi, lần này sẽ đi tập kết đánh úp thành Song Long, giết Lý Kế Bổng, đây chính là nhiệm vụ mà ngươi cần phụ trách”.

Dương Hạo cúi người về phía trước, hai mắt hơi nhíu lại, trầm giọng nói: “Thành Song Long chỉ có năm nghìn binh, phân ra trấn giữ bốn thành, trong tay ngươi cũng có năm nghìn binh, hơn nữa thành trì Song Long lĩnh rách mướp, mang tiếng là thành trì song cùng lắm cũng chỉ có tường xây bao quanh, thậm chí còn không có cửa ải để bảo vệ, dù bộ binh của ngươi có đi đánh lén mai phục, đánh úp tường thành quanh, thì thế tấn công này, bổn soái dùng sở trường của ngươi, hy vọng ngươi không phụ lòng của bổn sư.

Nếu ngươi có thể giét chết Lý Kế Bổng thì tốt nhất, nếu như không thể thì tự có Mộc Ân Mộc Khôi sẵn sàng chào đón quân địch. Nếu như vẫn không được, ngươi cần phải phòng thủ kiên cố, ngăn chặn hắn trốn con đường Hạ Châu, đoạt trọng trách Mộc Ân Mộc Khôi, tiếp nhận”.

Ngải Nghĩa Hải vừa nghe giận tím mặt, cười ngạo nghễ nói: “Tiết soái xin cứ yên tâm, ngoài Lý Kế Bổng là đám chuột nhắt, thấy mỗ gia lập tức rời đi, nếu không thì, toàn Song Long lĩnh, mạt tướng phút chốc có thể hạ chiếm, quyết không để cho hắn chạy thoát, Mộc Ân Mộc Khôi, hai vị tướng quân này, hắc hắc, phen này sợ một công toi, để hai vị tướng quân cùng mạt tướng hợp trận cho quân địch một trận”.

Mộc Ân và Mộc Khôi không nghĩ đến, hai người nhìn nhau, thầm nghĩ: “Thỉnh tướng quả nhiên không như kích tướng”.

Ngải Nghĩa Hải lần này cuồng ngôn đương nhiên là căm phẫn Dương Hạo không tín nhiệm với bộ đội sở thuộc chiến lực, nhưng hắn kiêu ngạo, hắn năm nghìn huynh đệ, căn bản là quần mạng đồ, trong hoàn cảnh tây bắc ác liệt chiếm sinh tồn, năm nghìn nhân mã này đều là những chiến sĩ dũng mãnh thiện chiến. Song chiến mã của hắn tốt xấu lẫn lộn, vũ khí trang bị thì không đâu vào đâu, mục đích chỉ là cướp giật, cho nên gây xung đột chính diện quân đội chính quy.

Giờ hắn nhờ vả Dương Hạo, không thể so sánh được với ngày xưa. Hơn nữa sau khi nhờ vả Dương Hạo, thuộc hạ của hắn đã qua sự tập luyện quân kỷ quân pháp, bộ lặc tiến thối cũng biết Mộc Ân áp tải đoàn người Ngải Nghĩa Hải về Ngân Châu nói với Dương Hạo, Dương Hạo là một hán tử có nghĩa khí khiến nhiều người bội phục, thế là bèn đầu hàng hắn, tên này tuy hơi kiêu ngạo theo tính bọn thổ phỉ, nhưng tác chiến thì dũng cảm, nghĩa khí hán tử sáng chói.

“Ngải Nghĩa Hải, lênh cho nhân mã bổn bộ, lần này đi đánh úp Song Long lĩnh, giết Lý Kế Bổng do ngươi phụ trách”.

Ngải Nghĩa Hải vừa nghe trọng trách này gi­ao cho hắn, vui mừng đắc ý vô cùng, chắp tay thi lễ Dương Hạo, lớn giọng đáp “Mạt tướng quân lệnh”.

Nhóm người này một khi thành quân nhân quân kỷ nghiêm minh, lúc đó là sư hổ lang chân chính, niềm tin của Ngải Nghĩa Hải không ai địch nổi.

Hơn nữa từ khi hắn đầu nhập vào quân Dương Hạo đến nay, luôn chẳng đấm đá gì, bộ đội sở thuộc xuất thân từ mã tặc, nhận được nhiều sự kỳ thị với các binh sĩ khác, Ngải Nghĩa Hải sợ rằng lập được công lớn trở về hãnh diện, đương nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội này.

Dương Hạo gật đầu, vui vẻ nói: “Tốt rồi, lần này công thành, ngươi có thể đi với Mộc Ân Mộc Khôi, bộ thự tùy theo hoàn cảnh. Ngươi chỉ cần nhớ một điểm này, lần này công thành không phải mã tặc công thành phá trại, mà là quan binh tiêu diệt phản nghịch, quân dân có người phản kháng thì giết, nhớ để chúng đầu hàng, chớ làm tổn thương.

Ngải Nghĩa Hải hô dõng dạc: “Tuân lệnh”.

Dương Hạo lại nói: “Minh Đường Xuyên phái người ám sát bổn soái, ý đồ bất chính, nhất định phải bị loại bỏ. Ngươi nhớ kỹ, thành này một khi đoạt được, chính là công lớn của ngươi, khắp thành tài vật nhận ngươi dụng, dân chúng đều phát bán làm nô”.

Ngải Nghĩa Hải nghe vậy mừng rỡ, lập tức ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân lệnh”.

Trước đây chúng là thổ phỉ, cướp bóc chung quanh, dễ dàng chính là không dám đi theo với số tài sản cồng kềnh không tiện chiếm đoạt được đám dân cư, thực không giống nhau, dân chúng đều đi làm nô dịch, đó chính là vốn lớn, dựa vào điểm này, không cần Dương Hạo thêm nhiều điều đốc thúc, không cần nói tìm dân chúng, coi là binh sĩ quân địch chỉ cần bắt được, người của hắn cũng không thể tùy tiện giết được.

Ngải Nghĩa Hải nắm lệnh tiễn thối ba bước, sóng vai đứng với Mộc Ân Mộc Khôi, Dương Hạo nói với ba người hắn: “Các ngươi lập tức xuất bộ đội ra khỏi thành, chỉ mang theo lương thực đủ dùng trong ba ngày mà lên đường, ban ngày thì phục ban đêm thì hành, tập kết Song Long thành Minh Đường Xuyên. Đến khi lương thực không đủ dùng có thể lấy số lương thực ở chỗ dân chúng Minh Đường Xuyên, giờ có tin tức đặc biệt, cổ lão trượng sẽ liên lạc với mọi người kịp thời.

Một lão cổ đại cát râu tóc bạc phơ chắp tay thi lễ với ba vị tướng quân, ba người đáp lễ nhau, Dương Hạo vung tay nói: “Lập tức xuất binh”.

” Mạt tướng xin cáo lui”. Ba viên đại tướng thối lui, đến trước cửa xoay người đi ra, trong chốc lát nghe thấy tiếng vó ngựa đã đi xa, bước chân như mưa, ba người suất lĩnh đích thân dẫn quân nghênh ngang đi.

Dương Hạo đứng ở phía sau, mãi đến khi tiếng ngựa đã đi xa, vỗ tay nói lớn: “Bãi đường”.

Đám văn võ thối lui, Dương Hạo đưa mắt nhìn theo bóng họ đã đi xa. Viên tướng đi ra sau chính là Phạm Tư Kỳ, Phạm thư sinh vốn chậm, làm gì đều chậm hơn người bên cạnh, hắn lo lắng đi về phía sau, nghĩ đến ngày trộm hôm nay, làm xong công sự, nếu không cùng với nương tử đổi y phục đi về phía đầu đường, nhìn hoa đăng, nếu không đi Lâm Bằng Vũ trộm ít đồ đạc.

Kế hoạch này, một cước ra cửa, vô ý nhìn lại, thấy lúc nãy một đại mã kim đao còn đứng đó, một Dương đại soái khí khái bất phàm cầm chiến bào, một tay nhấc áo giáp, oai hùng nhằm phía sau bức họa bạch hổ đi tới.

Phạm tú tài giật mình, vội dụi dụi mắt, nhìn chăm chú, ở đại sảnh trống không, kỳ tì và thị vệ bên cạnh còn tứ bình bát ổn đứng ở đằng kia, giống như chưa hề xảy ra chuyện gì, Phạm tú tài không khỏi lẩm bẩm: “Ồ, thức đêm bố trí lương thực, cứu tế tai họa cho các bộ tộc lân cận, thực mệt chết đi, mắt đã hoa lên, thôi xong, đêm nay dù thế nào đi nữa, cũng phải được nghỉ ngơi.

Bạch hổ tiết đường cạnh soái phủ tây, Dương Hạo trực tiếp chạy về trạch viện mình từ bên tiết đường.

Vừa nãy hắn ở tiết đường triệu tập văn võ bộ thự xuất binh hành sự, không muốn một thân binh lên soái đường, chỉ lặng lẽ nói với hắn một câu: “Đại phu nhân sắp sinh rồi”.

Dương Hạo vừa nghe thấy vậy lòng như lửa đốt, hắn sao có thể ngờ con của mình sớm không sinh, muộn không sinh, lại chọn đúng thời điểm then chốt này, đổ thêm dầu vào lửa cho cha nó, nhưng lúc này hắn lại không thể có biểu hiện gì, mãi đến khi thu xếp xong xuôi cho Ngải Nghĩa Hải và Mộc Ân, Mộc Khôi, thống binh xuất chinh, bãi văn võ, lúc này mới chạy như điên về hậu trạch.

Đám nha hoàn thị tỳ của phủ đi ra đi vào, mặt mày vui vẻ, thấy lão gia vẫn mặc áo giáp, chạy đến trạch thở hồng hộc, từ xa đã cười khanh khách nói: “Chúc mừng lão gia”.

Câu nói vừa dứt, đám thân tín của Dương Hạo đã chạy đến: “Chúc mừng, chúc mừng”.

Dương Hạo đến cửa phòng Đông Nhi, bỗng nhiên dừng chân, hắn đứng ngoài cửa hít một hơi dài, một thiếu nữ yểu điệu đi đến, khẽ nói với hắn vài câu, Dương Hạo cũng không biết là ai, ở hậu trạch của nàh mình, hắn cũng không thể nhớ nổi đó có phải là người của nhà mình hay không, lên trước tóm lấy tay bạch y nữ tử hỏi: “Đông Nhi sinh hạ là trai hay gái vậy? Mẹ tròn con vuông chứ? À…không phải, giờ đã sinh hạ chưa?”

“Á?” Nữ tử đó trợn tròn mắt, há hốc mồm nhìn hắn. Dương Hạo bình tĩnh lại, mới nhận ra bạch y nữ tử có má lúm đồng tiền, hai hàng mi đậm, ánh mắt long lanh, tuy hơi ngạc nhiên, nhưng trong lúc ngạc nhiên vẫn tỏ vẻ ung dung, dưới ánh đèn là da trắng nõn hơi ửng hồng, rõ ràng là thanh lệ tuyệt tục, là sức hấp dẫn từ bên trong toát ra, dĩ nhiên là Tiểu Chu Hậu đã lâu không gặp.

Dương Hạo bất thình lình nhận ra buông vội tay nói: “Hóa ra là …Chu…”

Ôi, tại hạ vô cùng thất lễ, phu nhân chớ trách”.

Tiểu Chu Hậu xinh đẹp má hơi ửng hồng xấu hổ, cúi người nói: “Thần thiếp bái kiến thái úy”.

Dương Hạo vội khoanh tay lại nói: “Tại hạ….phu nhân của ta…nàng…sao rồi?”

Người phụ nữ đứng đối diện Tiểu Chu Hậu chính là Mậu Nương khiến hắn thất thố, Mậu Nương không khỏi cười thầm, lúc này mới bước ra hòa giải nói: “Đông Nhi tỷ tỷ đã sinh một nữ oa nhi, mẹ tròn con vuông, thái úy đại nhân xin cứ yên tâm ạ”.

Dương Hạo thở phào nhẹ nhõm, gật đầu, toan xoay người bước vào phòng, Tiểu Chu Hậu và Mậu Nương nhìn nhau, cả hai cùng đi theo vào.

Từ khi Tiểu Chu Hậu đến Ngân Châu, Mậu Nương thường đi lại với chúa cũ, làm bạn chuyện trò cùng nàng, gi­ao tình giữa hai người ngày càng thêm thân mật. Hôm nay là ngày trộm, là ngày vui của thành, Mậu Nương vốn muốn giải sầu cho Tiểu Chu Hậu, đồng thời cũng hẹn với Diễm Diễm, Oa Oa, Diệu Diệu, muốn đi ngắm đèn du ngoạn với mọi người, không ngờ vừa hẹn Tiểu Chu Hậu ra, Đông Nhi lại có biểu hiện sinh nở, họ nào còn dám ra cửa chơi, tất cả mọi người đều đến phòng Đông Nhi chăm sóc.

Đông Nhi sinh ra một bé gái vô cùng thuận lợi, đứa bé vô cùng đáng yêu, mấy người phụ nữ thấy vậy đều vây quanh giường, ôm nựng bé, Đông Nhi cũng muốn ôm lấy bé, nến bà đỡ đẻ phải nói một câu: “Đại phu nhân vừa mới hạ sinh cần yên tĩnh để nghỉ ngơi”.

Lúc này Tiểu Chu Hậu và Mậu Nương, Hạnh Nhi đều lưu luyến đi ra, còn về Diễm Diễm, Oa Oa và Diệu Diệu thì vẫn vây lấy quanh đứa bé, mở to mắt nhìn nó, bà đỡ không đám đuổi họ đi.

Tiểu Chu Hậu không có con, trẻ thì không nói làm gì, nhưng giờ đã 26 tuổi, bình thường chưa được nhìn thấy trẻ con thì thôi, giờ nhìn tháy đứa bé mới ính, làm sao mà không động lòng, nàng không nỡ rời mắt khỏi nó, thấy Dương Hạo vào trong phòng, nàng liền nhân cơ hội đi cùng với hắn và Mậu Nương vào, cố níu kéo nhìn đứa bé thêm chút nữa.

Trong phòng chỉ có mẹ con Đông Nhi và một người hầu, Dương Hạo vào phòng, đứng cạnh giường, Đông Nhi nhìn thấy trượng phu khẽ ho một tiếng: “Hạo ca ca!”

Tiếng vừa nói, nước mắt không nén được vội tuôn rơi, nàng cũng không biết tại sao mình lại khóc, chỉ biết nhìn thấy Dương Hạo nước mắt không nén được trào ra.

“Mẹ con khỏe là tốt rồi, còn khóc gì nữa, phải vui mới đúng chứ”. Dương Hạo cũng biết cơ thể của đàn bà mới sinh vô cùng yếu, vội nói vài câu an ủi, đứa bé nhắm mắt chìm vào giấc ngủ.

Đông Nhi nghe thấy câu “Mẹ tròn con vuông”, trong lòng càng thêm sợ, nước mắt lăn dài, Dương Hạo không biết mình có lời nào sai, Đường Diễm Diễm đứng cạnh ôm đứa bé, khen: “Hạo ca ca, mau lại đây xem, đứa bé của chàng có đáng yêu không nào”.

Oa Oa vội sang ẵm đứa bé nói: “Trẻ không thể bồng bế như vậy, cổ bé rất mềm, cẩn thận chút chứ, đưa cho ta bế nào, mau mau”.

Đông Nhi lo lắng nhìn họ lóng ngóng, lo họ không cẩn thận làm thương tổn đứa bé song lại ngại không dám nói. Dương Hạo vui ra mặt, bộ dạng khiển trách: “Tranh giành nhau gì vậy, đứa bé mà, không cần phải ôm khư khư, được ôm nhiều quen đi, sau này nàng không ôm nó, nó sao tự ngủ được, mau lại đây, đưa ta bế cho”.

Hắn vừa nói, Diệu Diệu lo lắng nói: “Lão…lão gia, đại nam nhân chân tay thô kệch, chàng sẽ làm đau bé”.

Thời đó người cha rất ít bế trẻ nhỏ, ai biết được là phải bế thế nào, nhưng không ngờ Dương Hạo lại rất biết cách ẵm trẻ nhro, tay đỡ đầu đứa bé, đồng thời tay làm điểm tựa lưng cho bé, tay kia khẽ ôm.

Đứa bé dường như rất thích cách bế đó, được hắn ôm vào lòng, mắt nhắm lim dim mở miệng ngáp.

Mấy nữ nhân trẻ trung còn không biết cách bế trẻ, nhìn Dương Hạo bế rất thành thục, đều đổ dồn ánh mắt vào hắn. Dương Hạo bất giác thấy mọi người nhìn cách mình bế trẻ, liền cúi xuống nhìn đứa bé nhắm mắt chìm vào giấc ngủ.

Đứa bé là cốt nhục của hắn, được bế chính đứa con mình, tình cảm trào dâng, Dương Hạo khẽ nựng nó, càng nhìn càng yêu, tình cảm phụ tử trào dâng trong lòng.

Đông Nhi lo lắng quan nhân ghét bỏ bé gái, nhưng không ngờ, nhìn cách cư xử của hắn, nàng cảm thấy yên tâm vạn phần.

Đám người đứng bên trừng mắt nhìn bé, Dương Hạo sợ sẽ làm nó sợ, không dám nói, quay người bế bé, đứa bé mở mắt nhìn người đang bế nó, nhưng không nhìn được lâu, nó lại bị hấp dẫn bởi ngọn đèn bên cạnh, quay sang nhìn nó.

Dương Hạo thì cứ nghĩ là bé vẫn đang nhìn mình, bật cười nói: “Nữ nhi của ta, nhận ra cha không?”

Đám người bên cạnh cảm kích, Dương Hạo vừa mới nói xong câu ấy, đứa bé bỗng ngoác miệng khóc, Đông Nhi vội nói: “Quan nhân, đưa con cho thiếp”.

Dương Hạo vội đưa bé đến bên cạnh Đông Nhi, đứa bé áp mặt vào ngực mẹ, nghe thấy tiếng tim đập quen thuộc, nín không khóc nữa.

“Con gái yêu của ta, sau này lớn nhất định sẽ là một công chúa nhỏ xinh đẹp, đáng yêu”. Dương Hạo quỳ bên giường đắc ý nói.

Câu này vô cùng bình thường với hắn, đứa bé được cha cưng chiều được ví với tiểu công chúa, nhưng mấy người đứng bên băn khoăn:

“Công chúa nhỏ? Ý là…là…làm Hoàng đế ư?”

Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Diệu Diệu sợ hãi vội bịt miệng mình lại, tuy biết Dương Hạo không hề có dã tâm làm Hoàng đế, nhưng Dương Hạo đã chiếm được Ngân Châu, chiêu binh mãi mã, tọa trấn tây bắc, khoảng cách tạo phản làm Hoàng đế còn là một bước ngắn, khác biệt chỉ là dã tâm tuy chỉ kém một bước, thực lực cách biệt một trời một vực mà thôi.

Nhưng Tiểu Chu Hậu và Mậu Nương mặt trắng bệch ra, quản nương không biết dã tâm của Dương Hạo, thậm chí không biết hắn chiếm cứ tây bắc, Tiểu Chu Hậu tuy hiểu chút dã tâm của hắn, nhưng việc này không thể nói hết ra được, dù hành vi của hắn đã tâm lộ nhân của Ti Mã Chiêu, đích tai ngươi nghe thấy, thế thì tai họa của thiên đại. Giờ hai người họ nghe thấy thời cơ của Dương Hạo hí hửng Thổ Phiên, sẽ có kết cục sao đây?

Hắn có dã tâm giết người diệt khẩu được không đây?

Nghĩ đến điều này, ngón tay quản nương lạnh run lên, ngẩng đầu nhìn Tiểu Chu Hậu, Tiểu Chu Hậu mặt mũi trắng bệch, hai người cùng nghĩ: “Nếu như vừa rồi ta không vào cùng có phải tốt không?”

Tiếc rằng trên đời không có thuốc chữa bệnh hối hận…

Chương 5 (444): Bốn mươi đạo tặc.

Minh Đường xuyên, Song Long lĩnh, Song Long thành.

Cái tên Song Long thành này nghe thì rất uy phong, nhưng đó chẳng qua là Lý Kế Pháp tự dát vàng lên mặt mình mà thôi, tòa thành Song Long này chỉ là một sơn trại dùng hàng rào vây lại, cùng lắm có thể gọi là mô hình thu nhỏ thành trì. Trong sơn trại, hai con đường rộng rãi một ngang một dọc cắt cả thành trì này ra thành bốn bộ phận, một bộ phận là phủ đệ của Lý Kế Pháp, một bộ phận là nơi ở của gia quyến tướng sĩ trong quân, một bộ phận nữa là nơi tụ cư của bách tính trong thành, bộ phần cuối cùng và cõi yên vui của bọn lưu manh vô lại và những người bán dạo.

Địa phương Minh Đường Xuyên này là một địa vực hẹp dài nổi bật nhất của thế lực Ngân châu hướng về phía bắc, bởi vậy phía đông hay phía bắc đều là phạm vi thế lực của Khiết Đan, phía tây thì là địa phương của bộ lạc du mục Thổ Phiên và Hồi Hột, Lý Kế Pháp bị đuổi tới địa phương này, chủ ý của Lý Quang Duệ là để mặc hắn tự sinh tự diệt, nhưng Lý Kế Pháp không ngờ lại đứng vững ở nơi này, đây tất nhiên là công của Trương Phổ, đệ nhất đại tướng dưới tay hắn và đồng thời cũng là túi khôn của hắn.

Trương Phổ không hề nổi danh, dù là ở Tây Bắc cũng không nhiều người biết đến hắn, nhưng điều này không có nghĩa là người này không có chân tài thực học, mà không phải người cứ có chân tài thực học là nhất định có thể có thành tựu nổi bật. Rất nhiều nhân sĩ tài trí trác tuyệt, bởi vì không có võ đài cho hắn thi triển sở trường, kết quả sau cùng là tiêu thanh nặc tích, chôn vùi trong dòng sông lịch sử, nếu như cho họ một cơ hội, bọn họ chắc chắc có thể tung cánh bay lên trời, sáng lập một sự nghiệp còn huy hoàng hơn cả danh thần trong lịch sử.

Trương Phổ năm nay hơn ba mươi tuổi, vẫn chưa tới tuổi biết thiên mệnh, tất nhiên cũng không chịu nhận mệnh, cho nên hắn vẫn hùng tâm bừng bừng muốn lợi dụng lúc sinh thời, làm ra một phen sự nghiệp oanh oanh liệt liệt. Nhưng người duy nhất hắn có thể đỡ lên chỉ có Lý Kế Pháp. Tuy Lý Kế Pháp vô luận là địa bàn, binh lực, tài phú, thậm chí là trí tuệ, lòng dạ của y đều không được tính là nhân tài có thể bồi dưỡng, nhưng Lý Kế Pháp có thể tin hắn, dùng hắn, luôn nghe theo lời của hắn, khiến hắn có thể thi triển sở trường, vậy là đủ rồi. Bọn người Lý Quang Nghiễm, Lý Quang Tế này tuy đã mang Lý Kế Pháp ra làm điều kiện để đối lấy thành công, nhưng bọn họ quá trọng thị gia thế xuất thân, một bạch đinh như Trương Phổ, nếu ở dưới trướng của bọn họ thì không bao giờ có ngày mở mày mở mặt.

Ám sát Dương Hạo chính là một nước cờ hiểm mà Trương Phổ đã đi, thế lực của các bộ tộc cường phiên ở Tây Vực đều đã thành hình, cơ cấu quyền lực gia tộc đã vô cùng ổn định, một hai nhân vật hạch tâm chết đi sẽ không khiến cả tập đoàn thế lực bị tan rã, giống như Ngân châu Lý Quang Nghiễm, tuy bị người ta phục kích mà chết thảm, nhưng con cháu trong gia tộc chờ kế thừa quyền vị của hắn lại nhiều không đếm xuể. Song Dương Hạo thì khác, Dương Hạo là lực lượng mới xuất hiện, tuy trong chư hùng Tây Bắc quật khởi cực nhanh, nhưng căn cơ của hắn vẫn quá mỏng manh, cả thế lực Lô châu cơ hồ là hoàn toàn vận tác xoay quanh một mình hắn, nếu Dương Hạo chết đi, tập đoàn thế lực của hắn sẽ lập tức sụp đổ tan vỡ, như vậy Lý Kế Pháp cũng có thể thủ thắng trong hỗn loạn.

Tình hình trước mắt là Lý Quang Tế sau khi trở thành Ngân châu phòng ngự, trắng trợn bổ nhiệm người thân, hoặc đoạt thực quyền của những tướng lĩnh trọng yếu thời kỳ Lý Quang Nghiễm còn thượng nhiệm, hoặc phái họ tới những nơi không có ai giúp và Thổ Phiên, Hồi Hột để khổ chiến, hòng tiêu hao thực lực của bọn họ giống như đã làm với Lý Kế Pháp, thành viên nòng cốt có quyền lực ở Ngân châu đã bị quét sạch.

Lý Quang Nghiễm thống trị Ngân châu hơn chục năm, thế lực của hắn sau khi bị diệt trừ, Lý Quang Tế ít nhất phải cần mấy năm mới có thể xây dựng lại một bộ máy chính quyền ổn định, song lúc trước Khánh vương Da Luật Thịnh lừa gạt đoạt thành Ngân châu, cơ hồ là đồ sát hoàn toàn tộc nhân của nhất mạch Hạ châu Lý thị, nhưng hắn vẫn chưa đứng vững đã lập tức bị Dương Hạo giết chết, nếu Dương Hạo lần này lại bị ám sát, Lý Kế Pháp có thể giành quyền sau hỗn loạn.

Lý do của hắn có những điểm sau:

Thứ nhất, những bộ lạc, thành trì lớn nhỏ ở lân cận Ngân châu đã bị Ngân châu Lý thị thống trị hơn trăm năm, nếu như có một người của Ngân châu Lý thị đứng ra thu thập tàn cục, rất dễ nhận được sự chấp nhận và ủng hộ của thủ lĩnh các bộ tộc.

Thứ hai, tộc nhân của Ngân châu Lý thị cơ hộ bị Khánh vương của Khiết Đan đồ sát sạch sẽ rồi, hiện giờ trong những tộc nhân của Ngân châu Lý thị đã không còn tìm ra được người có tư cách hơn Lý Kế Pháp để kế thừa chức vị phòng ngự sử này. Lý Quang Duệ chỉ có thể dùng hắn, chức vị này ngoài hắn ra thì không còn ai xứng hơn cả, sự ủng hộ của Hạ châu chính là sự đảm bảo lớn nhất cho hắn thượng vị.

Xét thấy vậy, Trương Phổ mới quyết định kế hoạch nhắm vào Dương Hạo, Lý Kế Pháp tuy không phải là một kiêu hùng có tâm cơ và khí phách, nhưng dã tâm thượng vị lại có thừa. Sau khi Trương Phổ đem tất cả một phen được mất này phân tích rõ cho hắn, Lý Kế Pháp vui vẻ đồng ý, lập tức thừ trong đám tử sĩ tâm phúc của mình chọn ra mấy người có võ nghệ cao thâm nhất đi chấp hành nhiệm vụ này.

Sau khi hành thích thất bại, Lý Kế Pháp quả thức là sợ hãi một trận, sợ sự cơ bại lộ, dẫn tới việc Dương Hạo sẽ báo thù, lúc nào cũng chuẩn bị chạy trốn. Qua một đoạn thời gi­an thấy phía Ngân châu tựa hồ như hoàn toàn không hề hoài nghi tới hắn thì mới thở phào nhẹ nhõm. Trương Phổ lại không dễ dàng buông bỏ lòng cảnh giác như vậy, qua mấy ngày nữa là đến Tết Nguyên Tiêu, bách tính thành Song Long cũng rất thích chơi hội. Trương Phổ lại thuyết phục Lý Kế Pháp, ước thúc binh đinh không được tụ tập với người nhà khác, tất cả nhân mã ăn không cởi yên, ngủ không cởi giáp, nghiêm trận ứng biến, đồng thời phái ra một lượng lớn thám mã trinh sát, cảnh giới những tin tức tới từ phía Ngân châu.

Hiện giờ ba ngày Tết Nguyên Tiêu đã qua đi, thành Song Long không phải nghênh đón địch nhân, sự bất mãn phải nén nhịn đã lâu của các tướng sĩ cuối cùng cũng bạo phát rồi, trước phủ của Lý Kế Pháp, mấy doanh chỉ huy đang ở đó càu nhàu.

“Tướng quân, Song Long lĩnh chúng ta là địa phương chim chẳng buồn ỉa, ai lại dở hơi tới công đánh chứ? Tên Trương Phổ đó cứ tưởng mình là hay, luôn cho rằng mình thần cơ diệu toán, hắn nói một câu thối như như rắm, hại chúng ta mấy ngày mấy đêm không được an bình, địch nhân ở đâu? Làm gì có địch nhân nào? Ba ngày Tết Nguyên Tiêu để ăn chơi phè phỡn, những binh sĩ chịu khổ cực mãi cũng chỉ có được mấy ngày này để mặc sức vui vẻ, thế mà con mẹ nó phải ôm thương lớn lãng phí thời giờ trong binh doanh.”

“Tướng quân, thuộc hạ của ta oán thán rầm trời lên rồi, nếu cứ tiếp tục như thế này, không cần người nào có chủ ý đánh chúng ta đâu, tự các binh sĩ sẽ tạo phản đấy, thuộc hạ bất lực rồi, đại nhân ngài cứ xem thế nào mà làm.”

“Tướng quân, thuộc hạ của ta có mấy binh sĩ đêm qua lén lút lẻn ra khỏi binh doanh đi gặp nữ nhân của mình, cái tên khốn Trương Phổ chó cậy gần nhà đó bắt bọn họ lại rồi xử phạt, phạt đánh bằng roi một trận thì không nói, lại còn cởi hết quần áo của họ rồi trói chôn xuống tuyết, nếu như hắn nói có lý, đó là thuộc hạ quản lý người dưới không nghiêm, ta cũng nhẫn nhịn. Nhưng địch nhân ở đâu chứ? Ta là một người thô lỗ, không bằng hắn đầy một bụng văn chương thối hoắm, hắn có học vấn, cái này ta thừa nhận, nhưng có học vấn không có nghĩa là hắn có thể đánh trận, tướng quân nếu cứ thiên vị dung túng Trương Phổ, thuộc hạ không đàn áp được rối loạn do binh sĩ bên dưới tạo ra đâu.”

Các binh sĩ tiếng oán thân dậy đất trời, tướng lĩnh các bộ đều chạy tới chỗ Lý Kế Pháp kêu khổ. Lý Kế Pháp có chút không chịu được, chỉ đành nói: “Ài, Trương tướng quân cũng chỉ là có ý tốt thôi mà, bên trong nhất định có chút nguyên do, là các ngươi không hiểu đó thôi, chuyện này thực sự là không oán Trương Phổ được. Thế này đi, lệnh cho quan binh các doanh giải trừ giới bị, mọi người đều khổ cực rồi, nghỉ ngơi một chút đi.”

Chúng tướng tuân lệnh, lúc này mới hùng hùng hổ hổ bỏ đi. Lý Kế Pháp đứng trước phủ đệ vắng vẻ đến phát ngốc, một lúc sau mới đi lên sườn núi.

Trên sườn núi có mấy cây mai, bóng hoa yểu điệu, bước tới gần mới thấy dưới cây mai có một người đang đứng, người này thân hình cao gầy, một thân trường bào, tay cầm bình rượu, khi thì lại ngẩng đầu lên nhìn sao trên trời đến xuất thần, khi thì uống một ngụm rượu, nhìn những đốm lửa ở dưới sườn núi rồi thở dài. Lý Kế Pháp lẹp bẹp giẫm lên mặt tuyết bước tới bên cạnh hắn, thở dài một tiếng, nói: “Trương Phổ.”

Trương Phổ cười nhạt một tiếng, chậm rãi nói: “Đám quan binh thô lỗ đã giải tán rồi ư?”

Lý Kế Pháp lặng yên một lát rồi ngượng ngùng nói: “Chúng ta giới bị ba ngày rồi, lại chưng thừng nghe thấy phong thanh gì, tướng lĩnh các bộ đều đầy một bụng oán thán, Tết Nguyên Tiêu mà không được đoàn tụ với người nhà, các binh sĩ lớn tiếng kêu than, cho nên…”

Trương Phổ cười khổ một tiếng, ngẩng đầu lên uống một ngụm rồi thở dài, nói: “Con nhà giàu thì khó sai, con yêu thì khó bảo, con loạn khó trị, con cưng thì không thể dùng. Cũng như là người hiền lành thì không nên nắm binh, phải có hình phạt mạnh thì mới có thể dẹp yên ba quân, huống chi Song Long lĩnh chúng ta là nơi bốn phía có hổ lang rình rập, tướng quân cũng quá dung túng cho bọn họ rồi.”

Lý Kế Pháp thở dài một hơi, đứng sánh vai với Trương Phổ, cũng ngẩng đầu lên trời nhìn sao sáng trên trời, lẩm bẩm: “Ta đây cũng là vì không có biện pháp­mà thôi, vốn tới Ngân châu còn có thể nhận được một chút tiền lương, nhưng từ lúc Ngân châu bị chiếm đóng, lương hướng (lương là lương thực, hướng là tiền lương) đều bị cắt. Hiện giờ chỉ huy sứ ta đây muốn lương mà không có lương, muốn hướng mà chẳng có hương, sự cung phục của các bộ tộc ở Minh Đường Xuyên cũng có hạn, nhưng đối với bọn họ lại không thể bức quá găng, nếu không bọn họ sẽ bỏ đi, chỉ mất một ngày thôi là có thể di chuyển tới cảnh nội Khiết Đan, Tổ Phiên rồi. Ài! Hoàng đế còn không động đến binh đói, ta sao lại ra roi quá mạnh được?”

Những lời của lời nói này của Lý Kế Pháp cũng có tình có lý, Trương Phổ không khỏi nhíu mày. Lý Kế Pháp quay đầu lại hỏi: “Đang nghĩ gì vậy? Hiện giờ xem ra là chúng ta quá khẩn trương rồi, ngươi còn lo lắng phía Ngân châu uy hiếp ư?”

Trương Phổ lắc đầu, nói khẽ: “Thuộc hạ đang nghĩ tới…lối thoát sau này của chúng ta.”

Lý Kế Pháp hỏi: “Lối thoát? Lối thoát gì?”

Trương Phổ quay người lại, chắp tay nói: “Tướng quân, mời vào trong phòng ngồi.”

Hai người quay người đi tới chỗ ở của Trương Phổ, Trương Phổ hiện giờ vẫn chỉ một mình, vẫn chưa cưới vợ, trong phòng vô cùng đơn giản, chỉ có một bếp đang rực lửa, bên bếp đặt một âm nước, đang chầm chậm bốc hơi nóng. Trương Phổ lại cho thêm mấy khúc củi, hai người liền ngồi xuống quanh bếp.

Trương Phổ trầm ngâm một lát rồi nói: “Tướng quân, thích sát Dương Hạo không thành cũng không quan trọng, chỉ cần thích khách mà chúng ta phái ra không để lộ thân phận, nhất thời bán hội Ngân châu sẽ không tìm tới chúng ta gây phiền phức đâu, hiện tại nan giải nhất là lối thoát của Song Long lĩnh chúng ta, tướng quân có từng nghĩ tới không?”

Lý Kế Pháp nhíu mày nói: “Ngươi rốt cuộc là muốn nói tới đường thoát nào?”

Trương Phổ lắc đầu: “Tướng quân điều binh khiển tướng một cách thiếu tự tin như vậy là do đâu? Bởi vì lương hướng không đủ mà thôi. Binh có quyền lợi được ăn lương cầm hướng, nếu lương hướng bị đoạn tuyệt quá lâu, những binh mã này của chúng ta không cầm bị ai tấn công mà ắt sẽ tự tan vỡ. Hiện giờ Ngân châu đã bị Dương Hạo chiếm cứ rồi, Hạ châu nước xa không cứu được lửa gần, mùa đông năm nay trời đổ tuyết lớn, bộ lạc các phương còn chẳng lo nổi cho mình, chính là cái gọi là thiên tai nhân họa, một chút lương tồn của chúng ta căn bản là không trụ nổi tới mùa xuân, tới lúc đó… tướng quân sẽ làm gì?”

Lý Kế Pháp vừa nghe thấy vậy liền trở nên khẩn trương, vẻ mặt ngưng trọng nói: “Điểm này mỗ chưa từng suy nghẫm một cách nghiêm túc, ngươi có nghĩ ra được biện pháp gì không?”

Trương Phổ chăm chú nhìn hắn một hồi lâu mới nói một cách thành thật: “Vốn là, nếu có thể giết chết Dương Hạo, tất cả nan đề này để tự động được giải quyết dễ dàng, đáng tiếc là Dương Hạo mạng lớn, chúng ta thất bại trong gang tấc. Minh Đường Xuyên vốn chính là nơi mà Lý Quang Tế lưu đày đại nhân, là một nơi để ngài tự sinh tự diệt, hoàn cảnh nơi này rất ác liệt, không phải là nơi nên ở lâu, càng khó mà lấy nơi này làm căn cơ cho được. Hiện giờ đã không giết được Dương Hạo, nhánh cô quân này của chúng ta thế ắt phải tìm một lối thoát khác.”

Lý Kế Pháp rướn lên trước, giục: “Không sai, ta cũng cảm thấy địa phương này không phải là nơi nên ở lâu, ngươi có tính toán gì, mau mau nói ra đi.”

Trương Phổ nói: “Năm ngàn binh này của chúng ta đơn độc ở nơi xung quanh có chiến tranh, tình cảnh rất gay go. Hiện giờ, Dương Hạo tạm thời vẫn không bận tâm được tới nơi này, nhưng đợi tới khi băng tuyết tan hết rồi, hắn sẽ không dung thứ cho một nhánh cô quân của chúng ta tiếp tục thủ ở đây. Cho dù chúng ta không gặp vấn đề lương hướng thì địa phương này cũng không thể ở lâu được.”

“Ừ, ừ… nói rất có lý, vậy bản tướng quân nên làm thế nào?”

Lúc này ấm nước đã sôi, hơi nóng húc cho nắp ấm rơi xuống, Trương Phổ đặt ấm xuống đất, rồi mới nói tiếp: “Tướng quân, chút binh mã này của chúng ta cho dù đối đầu với một bộ tộc hơi lớn một chút cũng chẳng thắng nổi, lại thêm lương hướng thiếu hụt, Song Long lĩnh này không thể thủ được, hiện giờ… chúng ta phải nương tựa vào hào cường một phương.”

Lý Kế Pháp ngây người, sắc mặt dần dần có chút khó coi, hắn nhớ mãi không quên mình nên làm chủ Ngân châu, cái này gọi là thà ngọc vỡ chứ không muốn làm ngói lành, nương nhờ vào người khác, làm sao mà bằng xưng bá một phương, tiêu diêu tự tại. Hiện giờ thì hay rồi, hi vọng tan vỡ hết, phải nương nhờ người khác, loại tâm lý đang từ trên cao tụt xuống thấp này nhất thời khiến hắn không thể tiếp nhận được.

Trương Phổ nhìn sắc mặt của hắn, không khỏi mỉm cười: “Năm đó Lưu Bị binh không quá một ngàn, tướng không qua ba người, bị người ta đuổi cho chạy như chó nhà có tang, phải đầu nhập Lưu Yên, rồi Công Tôn Toản, rồi Đào Khiêm, Lữ Bố, Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Biểu, Tôn Quyền, Lưu Chương… chẳng phải là còn thảm hại hơn cả tướng quân ư? Nhưng vậy thì sao chứ? Chỉ cần một khi có cơ hội thì sẽ giương cánh bay cao như bình thường. Chúng ta hiện giờ lâm vào cảnh quẫn bách như vậy, cớ sao không nương nhờ vào hào cường một phương để bảo tồn thực lực? Còn về sau, chúng ta có thể nhận định tình hình, nếu như không thể như vậy thì triệt để quy thuận hắn, còn nếu như còn có cơ hội để nắm lấy, vậy thì sẽ lật ngược trở lại. Nương tựa cũng chỉ là tạm thời thôi, ngày sau sẽ ngóc đầu trở lại, đông sơn tái khởi mà.”

Sắc mặt của Lý Kế Pháp lúc này mới hòa hoãn hơn một chút, nói: “Ừ, nếu tính toán như vậy thì cũng là một lối thoát, vậy ngươi nói xem chúng ta nên nương tựa người nào?”

Trương Phổ nói: “Mạt tướng đã tính toán tử tế rồi, lối thoát tối nhất đương nhiên là nương tựa vào Hạ châu. Chúng ta vốn là nhân mã của Hạ châu mà, một khi như vậy, chúng ta có thể bảo toàn bản thân, đợi ngày sau Hạ châu bình định loạn Thổ Phiên, Hồi Hột, khi giành lại được Ngân châu, tướng quân cũng là người có hi vọng trở thành Ngân châu phòng ngự sử nhất, có điều trong đây có một chỗ khó rất lớn. Đó chính là con đường tây hành của chúng ta đã bị chặn, dọc đường đều phải đi qua khu vực nằm trong tay Đảng Hạng thất thị, mà bọn họ hiện giờ đã quy thuận Dương Hạo, bằng vào chút binh mã của chúng ta, có thể yên bình xuyên qua nơi chiếm đóng của chúng mà an lành tới được Hạ Xuyên hay không thì cũng là vấn đề rất lớn.”

Lý Kế Pháp lắc đầu lia lịa, nói: “Không phải là vấn đề lớn, mà là tuyệt đối không có khả năng, nếu chúng ta gắng gượng xông qua, nhân mã đều sẽ chết hết, chỉ một một mình bản tướng quân, cho dù chạy tới Hạ châu thì còn tác dụng rắm chó gì nữa, trong tay không có binh thì chính là một phế vật, từ giờ về sau ta làm sao còn ngày cất đầu lên được.”

Trương Phổ nói: “Còn con đường thứ hai chính là nương tựa Khiết Đan, nước Khiết Đan do mấy chục dân tộc tổ thành, tất cả đều thu nhận hết, không kiêng kỵ ngươi là người Đảng Hạng hay là người Nữ Chân, người Cao Lệ hay là người Bộ Hải, như vậy có thể bảo toàn một nhánh binh mã của tướng quân. Khiết Đan có thể nâng đỡ Hán quốc để khiên chế Tống quốc, tất nhiên cũng có thể nâng đỡ tướng quân để khiên chế Tây Vực, nhưng con đường này có hung hiểm nhất định, nếu Khiết Đan vô ý tây tiến, chúng ta sẽ bị ràng buộc vào họ, vậy thì không còn là người tự do nữa rồi. Thống thuộc (thống lĩnh và thuộc hạ) của quân đội Khiết Đan vô cùng hỗn loạn, trừ Hán binh của U Vân thập lục châu ra, tất cả đều không có quân lương, thời bình thì làm dân, lúc chiến thì làm quân, toàn là dựa vào bổ cấp của bộ tộc mình, nếu tới lúc đó chúng ta không tìm được một khoảng đất để chăn nuôi, vậy thì…”

Lý Kế Pháp run lẩy bẩy, liên tục nói: “Không thể được, không thể được, nếu nương tựa Khiết Đan thì chẳng tha liều chết quay về Hạ châu còn hơn, không đi đâu, không đi đâu. Trừ hai con đường này ra thì còn con đường nào khác nữa không?”

Trương Phổ mắt lóe sáng, lại nói: “Vậy con đường cuối cùng chính là nương tựa Dương Hạo.”

“Cái gì?” Lý Kế Pháp thất thanh nói: “Nương tựa vào Dương Hạo ư?”

Trương Phổ vội vàng trấn an: “Tướng quân chớ kinh sợ, cứ bình tĩnh nghe thuộc hạ nói rõ ràng đã.”

Lý Kế Pháp nghe thấy ngôn luận hoang đường như vậy, cơ hồ là nhảy cẫng lên, nghe thấy hắn còn chưa nói hết mới cố gắng ngồi xuống, thở hổn hển nói: “Vậy ngươi nói đi, tới nương tựa Dương Hạo là đạo lý gì?”

Trương Phổ nói: “Nghe nói… con trai của Lý Di đại nhân, nguyên thiếu chủ của Hạ châu ta Lý Quang Sầm đại nhân vẫn còn sống, hiện giờ đang ở Lô châu, Đảng Hạng thất thị bởi vì Dương Hạo là nghĩa tử của Lý Quang Sầm đại nhân cho nên mới đầu phục Dương Hạo.”

Lý Kế Pháp kinh nghi bất định nói: “Vậy thì sao? Nếu đầu hàng Khiết Đan, đối với Lý Quang Duệ đại nhân vẫn có thể nói là vì bảo toàn thực lực, từ từ tính toán hậu kế, nếu là đầu hàng Dương Hạo, vậy… chúng ta sẽ không có đường lui nữa, ngươi cho rằng… Dương Hạo sẽ là đối thủ của Lý Quang Duệ đại nhân ư?”

Trương Phổ mắt chớp động, chậm rãi nói: “Rất khó nói, có điều Dương Hạo chưa chắc đã không có lực tranh đấu. Hắn đã kết minh với Phủ châu, Lân châu rồi…”

Lý Kế Pháp cướp lời: “Cho dù có kết minh với hai châu Lân, Phủ, bọn chúng cũng không phải là đối thủ của Hạ châu.”

Trương Phổ hỏi ngược lại: “Vậy nếu thêm Đảng Hạng thất thị nưa thì sao?”

Lý Kế Pháp hơi ngây ra, Trương Phổ lại nói: “Còn có Thổ Phiên, Hồi Hột. Hiện tại trong dân gi­an có lời đồn, Dương Hạo là Cương kim cống bảo chuyển thế linh thân, tướng quân chớ có coi thường lực lượng của tôn giáo, tín ngưỡng đủ để khiến bọn họ xóa mờ đi sự bất đồng của tộc quần và xuất thân giữa hai bên, cho dù bọn họ sẽ không nương nhờ Dương Hạo, ít nhất thì cũng sẽ thân cận với Dương Hạo hơn một chút, trước đây không có ai có thể làm lung lay địa vị của Lý Quang Duệ đại nhân, hiện tại thì rất khó nói.

Đại nhân là người của gia tộc Lý thị, Dương Hạo đã là nghĩa tử của Lý Quang Sầm đại nhân, vậy đại nhân cũng không tính là nương tựa người ngoài, nếu Dương Hạo thật sự có thể lấy được Hạ châu, chiếm Hà Tây mà nhìn về Lũng Thục, trở thành cường phiên số một Tây Bắc, tới lúc đó thảo nguyên bát ngát, sa mạc mênh mông, bình nguyên rộng lớn, bóng người thưa thớt, hắn mặc dù lấy một châu làm phủ đệ, tai mắt cũng khó mà trải khắp được bốn phương, tất phải sai phái người tâm phúc đáng tin thay hắn đi chủ trì công việc thì mới có thể khống chể được cả Tây Vực. Tới lúc đó tướng quân đã có công phù bảo, lại là tông thân của Lý thị, chẳng lẽ hắn lại không dùng? Muốn thành kiêu hùng một phương, đó là chuyện tất nhiên.”

Lý Kế Pháp do dự một lúc rồi cười lạnh, nói: “Hắn? Một thằng nhóc con mà có thể trở thành đối thủ của Lý Quang Duệ đại nhân ư? Nước đi này, ngàn vận lần không đi được đâu.”

Hắn đứng dậy, đi đi lại lại ở trong phòng một lúc rồi quay đầu lại nói: “Chúng ta nếu đi qua núi đất, sông ngòi, vượt qua sa mạc Mao Ô Tố để tới Hoài châu, rồi lại từ Hoài châu tới Hạ chậu, đi vòng qua chỗ cư trú của bộ lạc Đảng Hạng thất thị, người thấy thế nào?”

Trương Phổ giật nảy mình nói: “Đại nhân, hiện giờ trời lạnh tuyết lớn, nếu như đi con đường này thì các binh sĩ còn đỡ, nhưng gia quyến của bọn họ thì sao? Cứ đi con đường này, cho dù không gặp phải địch nhân, đợi tới được Hạ châu, người chết cóng chết đói cũng nhiều không đếm xuể, bảo bọn họ cực khổ phòng thủ ba ngày mà còn oán thán như vậy, đi đường đó, bọn họ có chịu không?”

Lý Kế Pháp nghe thấy vậy liền giống như một quả bóng xì hơi, đặt mông ngồi xuống ghế, chán nản lắc đầu: “Bất kể là như thế nào thì cũng không thể tới nương tựa Dương Hạo được. Một khi hắn biết chuyện chúng ta từng phái người ám sát hắn, hậu quả khó có thể dự liệu, nếu đề nghị tây phản Hạ châu không thành, vậy… chúng ta để sau hẵng nói đi.”

Trương Phổ lặng im không nói gì, cùng Lý Kế Pháp quay về phủ đệ của hắn.

Nói là phủ đệ, nhưng chính xác hơn là một viện lạc có ba căn nhà một tầng, Trương Phổ không hề thất vọng đối với hành động của Lý Kế Pháp, trong tình hình này, chủ soái một phương phải có tính toán tốt nhất, nhưng Lý Kế Pháp đối với khốn cảnh sắp tới thiếu hụt nhận thức cơ bản nhất, loại tâm thái sống được ngày nào hay ngày ấy này làm sao mà thành được đại sự được, nhưng Lý Kế Pháp không đưa ra quyết định, hắn cũng đành chịu thôi, trên đường đi không ngừng trình bày rõ lợi hại, hi vọng Lý Kế Pháp có thể sớm đưa ra quyết định.

Nếu Lý Kế Pháp đưa ra quyết định thì cũng chưa chắc có thể thống nhất được những ý kiến bất đồng của thuộc hạ, có điều lúc đó thì dễ hơn, vào thời khắc sinh tử tồn vong, còn ai mà bận tâm đến nhiều việc như vậy nữa, chỉ cần Lý Kế Pháp ủng hộ, hắn sẽ không ngại gì mà trước tiên thanh tẩy nội bộ một lần, diệt trừ những tên tướng lĩnh cứng đầu, rồi sẽ tới nương tựa thế lực một phương, cho nên trên đường đi, hắn không ngừng tiến hành khuyên nhủ, Lý Kế Pháp thì chỉ ậm à ậm ừ cho qua chuyện.

Tới Lý phủ, đẩy cửa viện ra, Lý Kế Pháp quay người lại nói: “Trương tướng quân cứ quay về nghỉ ngơi đi đã, chuyện ta ta sẽ suy nghĩ thật kỹ…”

“Hả?” Trương Phổ đột nhiên mặt mày cảnh giác, nhanh chóng nhìn sang hai bên, Lý Kế Pháp cũng như phát giác ra gì đó, lập tức đặt tay lên chuôi đao.

Trương Phổ mặc một thân trường bào, không mặc quân trang, cũng không đeo bội kiếm, hắn nắm chặt song quyền, nhảy vọt tới trước mặt Lý Kế Pháp, cảnh giác nhìn bốn góc tường trong viện, nói khẽ: “Tương quân có cảm giác được có gì đó lạ thường không?”

Lý Kế Pháp chậm rãi rút đao ra, hạ thấp giọng, nói: “Quả thật là có gì đó không đúng, thị vệ canh gác cửa sao không thấy một người nào?”

Hai người lòng sinh cảnh giác, nhất thời vẫn đắc đo bất ổn, không biết có phải thật sự đã xảy ra chuyện hay không, dẫu sao thì loại khả năng này là rất nhỏ, nếu như là bởi vì thị vệ tản đi, hoặc chạy về đi nghỉ ngơi mà hai người hô to gọi nhỏ một hồi, kinh động thuộc hạ chạy tới, ngày mai sẽ trở thành trò cười cho ba quân mất, thế là nhất thời cũng không dám làm ầm lên, hai người chỉ đành lưng tựa lưng, chậm rãi di động vào trong viện. Lý Kế Pháp trầm giọng gọi: “Nhị Bảo, Mã Tam Thành, hai thằng chó các ngươi đi dâu rồi?”

Hai người này là thân binh thị vệ của hắn, thủ ở góc phòng hai bên, nếu nghe thấy bọn họ trả lời thì sẽ biết đây chỉ là một hồi sợ bóng sợ gió mà thôi, Có điều Lý Kế Pháp gọi xong, trong viện vẫn không hề có một chút tiếng động nào. Trương Phổ nói: “Tình hình có điều khác thường, mau mau rời khỏi trạch viện.”

Hai người vừa nhấc chân chạy thì nghe thấy mất tiếng “vụt vụt vụt”, ở chỗ cách dưới chân hai người không xa đột nhiên cắm một loạt tên, đuôi tên không ngừng phát ra tiếng ong ong.

“Quả nhiên là xảy ra chuyện rồi!” Trương Phổ trong lòng kinh hãi, nhưng vẫn không rõ là quân sĩ bất ngờ làm phản hay là địch nhân lẻn vào, đối phương đã bắn tên cảnh cáo chứ không đả thương người, vậy thì vẫn còn có dư địa, thế là đề khí đan điền, muốn quát hỏi thân phận của đối phương đã rồi quyết định, nhưng Lý Kế Pháp là một người thô lỗ, tâm tư làm sao mà cẩn mật bằng hắn, vừa thấy mưa tên bắn ra, Lý Kế Pháp trong lòng thất kinh, theo bản năng liền muốn tránh vào chỗ tối để thoát khỏi nguy hiểm.

Vị trí của hắn lúc này cách gầm hành lang chỉ có hơn một trượng, với thân thủ của hai người chỉ cầm sải bước là có thể chui vào được, chỉ cần là tránh được tới gầm hành lang, mượn vào sự yểm hộ của cột trụ, sự uy hiếp của cung tên sẽ giảm đi nhiều, ở viện lạc này mỗi một cành cây ngọn cỏ hắn đều quen thuộc, chỉ cần tránh được thì sẽ có sinh cơ.

Lúc khẩn yếu quan đầu, hắn thậm chí còn không thông tri cho Trương Phổ lấy một tiếng, đột nhiên đầu vai nhoáng lên, bước dài tới chỗ cửa viện, giả vờ muốn chay ra khỏi đây, rồi lập tức tung chân về phía dưới mái hiến, một bước, hai bước, nửa người đã tránh vào dưới bóng của hiên nhà, chỉ nghe thấy “phập phập phập” mấy tiếng cung vang lên.

“A!” Lý Kế Pháp trên lưng trúng liền bốn tên, cả người ngã sấp xuống đất, đầu rầm một cái đụng mạnh vào bậc thang, thân thể co giật mấy cái rồi nằm yên không động đậy nữa.

Trương Phổ cả người cứng đờ, không dám động đậy, lòng bàn tay toàn là mồ hôi lạnh, Lý Kế Pháp từ lúc một mình chạy trối chết cho đến lúc trúng tên ngã xuống đất, chỉ trong một cái nháy mắt, hắn ngay cả hô lên một tiếng ngăn cản cũng không kịp.

“Là ai vậy? Sĩ tốt làm phản ư?” Trương Phổ lòng bàn tay thấm đẫm mồ ôi, ngay cả động tác quay cổ cũng không dám làm nhanh, chỉ sợ địch nhân tiềm phục trong bóng tối hiểu lầm rằng hắn muốn chạy trốn, hắn dù có nhanh đến mức nào đi chăng nữa cũng không bằng được tốc độ của cung tên, huống chi cung nỗ thủ nấp ở chỗ nào hắn còn không phân biệt được.

Lúc này cửa phủ mở ra, sau đó “phụp” một tiếng, hai bó đuốc bùng lên, ba bóng người xuất hiện ở cửa.

Trương Phổ trợn trừng mắt, nhìn chằm chằm vào ba người ở cửa, hai đại hán đi ở hai bên một tay cầm đao một tay cầm đuốc, hán tử ở giữa thì chậm rãi bước tới, chỉ thấy người đó thân hình cao to, đầu trọc, mặt đầy râu quái nón, lông mày rộng miệng lớn, trông cực kỳ uy phong.

Hắn nghênh ngang đi tới trước mặt Trương Phổ, đắc ý dương dương cười nói: “Lý chỉ huy, hạnh hội, hạnh hội.”

Trương Phổ cổ họng như tắc nghẹn, hắn nuốt nước bọt, rồi lắp bắp hỏi lại: “Lý… Lý chỉ huy?”

Đại hán trọc đầu sờ sờ đầu, cười hi hi nói: “Lý chỉ huy, trước mặt Phật thật không đốt hương giả. Hắc hắc, ở trước mặt Ngả Nghĩa Hải ta, lão huynh ngươi đừng có mặc áo lông giả vờ làm cừu nữa được không?”

Trương Phổ nói: “Ngả Nghĩa Hải? Ngươi là Tây Bắc Lang Ngả Nghĩa Hải?”

“Không sai.”

Ngả Nghĩa Hải dương dương đắc ý cười to: “Lý chỉ huy không ngờ lại có một ngày thổ phỉ lại làm quan đúng không, ngươi cũng có một ngày rơi vào tay ta. Ha ha ha, ha ha ha…”

Trương Phổ chỉ vào thi thể đang nằm bất động trước hiên nhà, trầm giọng nói: “Vị đó mới là chỉ huy sứ Lý Kế Pháp.”

“Cái gì?”

Ngả Nghĩa Hải giật nảy mình, bước nhanh tới đi lòng vòng hai vòng quay cổ thi thể đó rồi đá một cái lên người hắn, thấy người đó không có chút phản ứng gì, không khỏi há miệng chửi to: “Còn bà nó, ngươi là đại đương gia của Minh Đường Xuyên, sao lại cầm bội kiếm ăn mặc giống như một thị vệ vậy, lần này giết nhầm người rồi, phải làm sao đây?”

Hắn quay đầu lại nhìn Trương Phổ, gãi gãi đầu rồi bước tới, quan sát gã từ trên xuống dưới một hồi rồi lộ ra nụ cười xấu hổ, nói: “Ha ha ha, nhìn cử chỉ của ngươi, so với tên quỷ chết đó còn ra dáng người hơn, ngươi là ai?”

Trương Phổ vẫn không biết Ngả Nghĩa Hải đã đầu hàng Dương Hạo, ở trước mặt một tên mã phỉ, hắn cho dù chết cũng không muốn tỏ ra vẻ yếu kém, liền ưỡn thẳng ngực lên, cao giọng nói: “Bản quan là Song Long lĩnh phó đô chỉ huy sứ Trương Phổ, đám mã phỉ gan to tày trời các ngươi muốn gì hả?”

“Phố đô chỉ huy sứ à?”

Ngả Nghĩa Hải nghê vậy liền mừng rơn, kéo Trương Phổ cứ như là gặp được huynh đệ nhà mình vậy, ríu rít nói: “Vậy đô chỉ huy sứ chết rồi thì ngươi là đương gia phải không? Ha ha ha, tốt quá, tốt quả, bản quan và ngươi làm một cuộc gi­ao dịch, thế nào?”



Buồng lò sưởi, than cháy rừng rực.

Trong phòng ấm áp dễ hịu, Dương Hạo nằm trên giường, cười khúc khích chơi đùa nữ nhi. Con nhóc này vừa tỉnh ngủ, người vốn bị buộc chặt được Dương Hạo cởi ra, chơi rất hăng. Nó trừng mắt lên ra sức nhấc hai cái chân nhỏ xíu đá đá vào cằm Dương Hạo, miệng môi lẹp bẹp ra một đống nước bọt. Dương Hạo mỉm cười đưa tay ra lau nước bọt cho nữ nhi thì nghe thấy phòng bên cạnh truyền tới một trận cười, không khỏi nhíu mày.

Nghe động tĩnh, người đang nói là tiểu Chu hậu, nội dung câu chuyện không gì ngoài phối hợp quần áo, sử dụng phấn son. À, thỉnh thoảng còn đối đáp mấy câu thi từ với Oa Oa, Diễm Diễm nữa.

Từ sau ngày sinh con gái, tiểu Chu hậu trở thành khách quen của Dương phủ, tiểu Chu hậu tựa hồ cực kỳ hợp ý với tiểu nha đầu này, ngày đó không ngờ còn chủ động đề xuất muốn nhận con gái mình là con gái nuôi, đứa con gái này của hắn vừa sinh ra đã có một thân nương (mẹ ruột), ba di nương (dì), lại còn có thêm môt can nương (mẹ nuôi). Dương Hạo vốn có lòng đáp ứng, huống chi lúc tiểu Chu hậu đề xuất yêu cầu này, vẻ mặt rất lo lắng, giống như sợ hắn không chịu đáp ứng vậy, ngày trước đường đường là Đế hậu một nước, giờ rơi vào quẫn cảnh phải nhìn sắc mặt của người khác, thực sự là đáng thương quá, Dương Hạo liền đáp ứng ngay.

Đợi tới khi tất cả chuyện của Đông Nhi và nữ nhi được xử lý xong thì trời đã tối, mọi ngời đều ai về phòng nấy nghĩ ngơi, Dương Hạo thấy sắc trời đã muộn, liền mời tiểu Chu hậu nghỉ lai ở trong phủ, ngày mai sẽ đưa nàng ta về phủ đệ. Đây vốn là lời nói khách khí thôi, tiếp sau đó sẽ là những lời từ chối, nhưng không biết tiểu Chu hậu nghĩ gì, bộ dạng lại hết sức lo sợ. Dương Hạo thấy mà chẳng hiểu gì, đang muốn phân phó Mục Vũ đưa nàng ta về, vừa mới mở miệng thì nàng ta lại đáp ứng.

Dương Hạo không biết tối hôm đó tiểu Chu hậu và Mậu nương đã chịu bao đau khổ. Hai nữ tử mệnh khổ ngủ cùng một giường, cả đêm đều không chợp mắt, hai người áo không cởi thắt lưng, một mực mong chờ hắn, đợi hắn khăn đen che mặt, tay cầm đồ đao, dữ tợn xông vào giết người diệt khẩu. Tối hôm đó Dương Hạo lại ngủ bên cạnh mẹ con Đông Nhi, ngủ rất là ngon.

Đợi tới sáng ngày hôm sau, Dương Hạo liền phái người đưa tiểu Chu hậu về phủ, nhưng ai ngờ từ sau hôm đó, tiểu Chu hậu ngày nào cũng tới, so với văn võ quan viên dưới tay hắn tới soái đường điểm danh thì còn đúng giờ hơn. Dương Hạo không biết tiểu Chu hậu đây chỉ là vì để hắn được yên lòng, mỗi ngày đều tới báo cáo, để hắn hiểu rằng mình rất an phận. Người ta như vậy, Dương Hạo cũng rất khách khí, âm thầm phân phó mấy phu nhân đối đãi với nàng ta nhiệt tình một chút.

Kỳ thực hắn không nói thì đám người Đông Nhi, Diễm Diễm cũng cực kỳ hoan nghênh tiểu Chu hậu, đồ chơi mà nữ nhi gia thích, tiểu Chu hậu đều là chuyên gia. Bọn Diễm Diễm, Oa Oa tuy vì chuyện Dương Hạo chịu trách nhiệm châu phủ, nhưng dẫu sao vẫn là nữ tử trẻ tuổi, phàm là với đề tài quần áo, đồ trang sức, đồ trang điểm đều luôn cảm thấy rất hứng thú, thường xuyên qua lại nên càng ngày càng thân thiết với tiểu Chu hậu.

Thân phận của tiểu Chu hậu cực kỳ thần bí, qua lại với soái phủ cũng không sợ bị người ta đồn đại không hay, nhưng người biết nội tình khó tránh khỏi có rất nhiều phỏng đoán. Đám người già quái dị như Lâm Bằng Vũ, Lô Vũ HIên đoán già đoán non thì cũng thôi đi, hôm qua ngay cả Đinh Thừa Tông cũng ấp a ấp úng, nói bóng nói gió nhắc nhở hắn phải lấy đại cục làm trọng, chớ có vì cái nhỏ mà mất cái lớn, để bị truyền ra ngoài là hoang dâm háo sắc.

“Thật đúng là con mẹ nó mà, không ăn cá cũng sợ cả người tanh lòm, Dương Hạo ta là hạng háo sắc vô đức như vậy ư? Người ta hảo tâm tới thăm con gái ta, ta chẳng lẽ lại kiên quyết không ch người tao vào à.”

Dương Hạo nghĩ tới những chuyện này lại bất lực thở dài một hơi, lúc này Mục Vũ từ sau bùng phong lấm la lấm lét thò đầu vào, nhỏ giọng gọi: “Đại nhân,tin tức tới rồi, Minh Đường Xuyên đại thắng.”

“Hả?” Dương Hạo nghe thấy vậy liền mừng rỡ ra mặt, hắn nói với nha đầu tiểu Quyên đang ngồi ở cạnh bàn xếp tã cho nữ nhi, nói: “Tiểu Nguyên, ngươi trông nó nhé, ta đi ra ngoài.”

Dương Hạo rón rén bước ra ngoài, vội vàng hỏi: “Tình hình thế nào, có bắt được Lý Kế Pháp không? Thương vong ra sao?”

Mục Vũ cười nói: “Tiền phương truyền tin tức về, chúng ta không mất một người nào, Song Long lĩnh toàn quân bị người của chúng ta bắt hết, hiện giờ đang áp giải về, vì có rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ em, lại thêm nhều truy trọng, cho nên hành trình hơi chậm.”

Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Không mất một người nào ư? Tên Ngả Nghĩa Hải này đánh kiểu gì vậy, hắn chiêu hàng Lý Kế Pháp à?”

Hai người vừa nói vừa đi ra ngoài, tới phòng khách ở tiền viện thì thấy một tín sự đang đợi ở trong sảnh. Hắn thấy Dương Hạo liền vội vàng thi lễ, Dương Hạo nói: “Không cần phải đa lễ, ngươi là bộ hạ của Ngả tướng quân à? Mau nói đi, tình hình trận chiến này thế nào?”

Người đó cũng là một tên hãn phỉ, bên mình xuất quân lần này giành được toàn thắng, hắn cũng cảm thấy rất hãnh diện, liền chắp tay nói: “Hồi bẩm thái úy, lộ quân này của chúng ta vốn là mã phỉ, cướp bóc tài vật luôn phải đổi thành tiền bạc, cho nên trong thành trì ở tứ phương đều có có một số thương nhân hám lợi, âm thầm tiếp nhận tài vật của chúng ta để đi tiêu thụ. Lần này phụng lệnh thái úy đi công đánh Song Long lĩnh, chúng ta cũng không dám làm qua loa, đặc biệt phái một số huynh đệ cơ cảnh giả trang làm thương nhân đi trước dò xét tình hình. Hắc hắc, rất trùng hợp, gặp được mấy người bán dạo có quan hệ với chúng ta đang ở thành Song Long.

Lão đại của chúng ta bụng đầy đại kế, liền nói dối bọn họ là mấy ngày trước có cướp được hai nhà giàu, kiếm được rất nhiều vải vóc, lá trà, vàng bạc, đồ gồm sứ, bằng lòng bán cho họ với giá rẻ. Mấy thương nhân đó thèm thuồng không thôi, liền thương lượng trao đổi hàng hàng với lão đại của chúng ta. Lão đại dẫn theo bốn mươi người, góm gém kỹ binh khí rồi bảo là tiền tài, được mấy thương nhân đó làm nội ứng, trà trộn vào trong chỗ ở của bọn họ, kẻ ra cũng khéo, buổi đêm hôm đóvừa hay quân thủ thành giải tán, ai nấy về nhà của mình, lão đại dẫn theo bốn mươi người, các huynh đệ lặng lẽ tiến vào chỗ ở của Lý Kế Pháp…”

Dương Hạo vui mừng nói: “Các ngươi có bắt sống được Lý Kế Pháp không?”

Người đó có chút xấu hổ, nói: “Không có, chúng ta tiêu diệt thị vệ trong phủ, về sau Lý Kế Pháp trở về, ai ngờ thoáng cái có hai người bước vào, một người mặc quân phục làm chúng ta tưởng là thị vệ, lúc hắn muốn đào tẩu thì bị chúng ta dùng loạn tiễn bắn chết. Có điều người còn lại là phó chỉ huy sứ Trương Phổ thì bị chúng ta bắt sống. Lão đại đáp ứng tha cho hắn một mạng, Trương Phổ liền phối hợp với lão đại của chúng ta lừa các doanh chỉ huy đến, tiến vào trói tất cả lại. Hắc hắc, cả thành Song Long, chẳng tốn chút sức lực đã lọt vào trong tay chúng ta rồi.”

Dương Hạo vui mừng, khen ngợi: “NGả tương quân trong thô hào có tin tế, cũng là một phúc tướng. Ha ha, chiến quả như vậy, ngay cả ta cũng chưa từng dự liệu đến.”

Hắn vừa nói tới đây thì Đinh Thừa Tông tay cầm một phong thư, sắc mặt ngưng trọng cùng một tiểu giáo đi vào, vừa vào phòng khách, Đinh Thừa Tông liền nói: “Thái úy, xu mật viện đưa quân lệnh khẩn yếu tới!”

Trong tiểu thư phòng, Dương Hạo liền đọc quân lệnh ghi trong bức thư do Tống quốc xu mật việc gửi đến mấy lần rồi trầm ngâm nói: “Đại ca, chuyện này huynh thấy sao?”

Đinh Thừa Tông nói: “Triệu Khuông Dận hai lần phạt Bắc Hán, đều từng điều động binh mã của hai châu Lân, Phủ. Ngoài mặt thì Triệu Quang Nghĩa lần này điều binh cũng không khác gì Triệu Khuông Dận, Ngân châu ở gần Hán quốc nhất, điều động Ngân châu hiệp trợ tấn công Hán quốc chính là hành động đương nhiên, có điều lần này phạt Hán, Hán quốc đã không còn Khiết Đan giúp đỡ, vốn không cần từ chư phiên tây bắc điều động quá nhiều binh mã. Triệu Quang Nghĩa là kẻ hám danh hám lợi, đại công diệt nước mở đất như thế này hà tất phải mượn tay người khác? Ta thấy hắn điều binh mã Ngân châu trợ trận chỉ là giả, mượn đao giết người mới là thật.”

Dương Hạo cười nhạt, nói: “Mượn đao của Hán quốc làm tiêu hao thực lực của Ngân châu ta?”

Đinh Thừa Tông gật đầu nói: “Theo lý là vậy đó.”

Dương Hạo gật đầu, bảo: “Đệ cũng cảm thấy đây mới là mục định Triệu quan gia muốn ta xuất binh. Có điều, đao mà hắn mượn chỉ sợ không chỉ có một thanh của Hán quốc thôi đâu, nếu không thì một phen tâm tư lúc trước của Triệu quan gia chẳng phải là uổng phí hết ư?”

Đinh Thừa Tông chợt nói: “Đệ là nói… chuyện hắn phong đệ làm Hà Tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái ư?”

Dương Hạo gật đầu, nói: “Không sai, hắn đã cho đệ phần vinh diệu này, đẩy ta lên vị trí để mọi người nhắm vào, nước cờ này sao có thể không dùng được?”

Đinh Thừa Tông nhíu mày, nói: “Nhưng… nước cờ này hiện tại có thể phát huy tác dụng ư? Hai phiên Lân, Phủ không phải là kẻ ngốc, cho dù đệ được phong là Hà Tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, vị trí đã ở trên hai phiên Lân, Phủ, khiến bọn họ bất mãn, nhưng bọn họ cũng sẽ không để Triệu Quang Nghĩa lợi dụng, đánh nhau với chúng ta để Triệu Quang Nghĩa làm ngư ông đắc lợi đâu. Uy hiếp duy nhất chỉ có thể tới từ Hạ châu, mà Hạ châu hiện giờ còn chưa có dư lực để khai chiến với chúng ta.”

Dương Hạo hơi trầm ngâm, sau đó hỏi: “Lý Quang Duệ có thể nghị hòa với Thổ Phiên, Hồi Hột không?”

Đinh Thừa Tông lắc đầu, nói: “Lý Quang Duệ cũng luôn có ý nghị hòa với Thổ Phiên, Hồi Hột, có điều bị người của chúng ta ở trong phá rối. Từ lúc biết được đường huynh Lý Quang Sầm của hắn vốn ở Lô châu, hơn nữa đã thành nghĩa phụ của đệ, Đảng Hạng Tthất thị lại tuyên thệ trung thành với đệ, Lý Quang Duệ đã coi đệ như cái đinh trong mắt, càng nóng lòng muốn kết thúc chiến tranh với Thổ Phiên, Hồi Hột, nhưng trước đây năm lần bảy lượt đình chiến rồi lại tái chiến, đã khiến cho Thổ Phiên và Hồi Hột rất không tin rằng hắn có thành ý, lại thêm Đảng Hạng thất thị nổi dậy, Thác Bạt thị nội bộ bất hòa, do đó Lý Quang Duệ ở trên chiến trường không chiếm được tiện nghi gì, dưới loại tình hình này, hắn muốn nghị hòa, e rằng quá trình này sẽ lôi thôi kéo dài, rất khó mà thành công.”

TIEN HIEP MOI 3Where stories live. Discover now