Untitled Part 3

218 0 0
                                    


- QUYẾT ĐỊNH THU HỒI ĐẤT 

Dễ nhận thấy quyết định thu hồi mảnh đất 120m2 của UBND xã là không đủ căn cứ và trái luật bởi:

+ Theo quy định của Luật đất đai 2013, điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 65 và Điều 65 ND43/2104/ NĐ-CP thì Nhà nước có quyền thu hồi đất đai khi cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế và việc thu hồi đất phải dựa trên các căn cứ: giấy chứng tử hoặc quyết định tuyên bố một người đã chết theo quy định của pháp luật và văn bản xác nhận không có người thừa kế của UBND cấp xã nơi thường trú của người để lại thừa kế đã chết đó. UBND xã phải gửi văn bản xác nhận này đến phòng tài nguyên và môi trường nơi có đất thu hồi. Trong tình huống, bà C đã chết, không có người thừa kế đã được sự xác nhận của UBND xã. Tuy nhiên, quy định về thẩm quyền thu hồi đất Điều 66, chỉ có UBND hai cấp là cấp tỉnh và cấp huyện mới có thẩm quyền thu hồi đất.

"1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

a) Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;

b) Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:

a) Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;

b) Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất."

Xét thấy, UBND huyện sẽ là cơ quan có thẩm quyền đối với việc thu đối với mảnh đất 120m2 của bà C. Quyết định thu hồi đất không được ủy quyền cho UBND xã mà cơ quan này đã tự ra quyết định là vượt phạm vi quyền, vi phạm pháp luật.

+ Khi bà C chết, vụ tranh chấp ranh giới liền kề với hộ gia đình bà N vẫn chưa được giải quyết. Nghĩa là di sản thừa kế của bà C là quyền sử dụng mảnh đất vẫn đang trong quá trình tranh chấp. Việc thu hồi đất của UBND xã là gián tiếp chứng minh bà C là người có quyền sử dụng diện tích đất này. Mà như vậy là thu hồi đất khi chưa rõ ràng ranh giới sử dụng đất, có thể gây ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của hộ gia đình nhà bà N.

Đối với trường hợp mảnh đất của bà C, do 2007 bà chết không để lại di chúc, lại không có người thừa kế theo pháp luật (Điều 651 BLDS 2015) nên di sản thừa kế sẽ thuộc tài sản không có người nhận thừa kế và thuộc về Nhà nước (Điều 622 BLDS 2015): "Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về nhà nước".

Đơn khiếu nại của ông H gửi chủ tịch UBND huyện sẽ bị từ chối, trả về.

Theo quy định của Luật khiếu nại thì:

Điều 7. " Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính".

Điều 17. "Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp".

Điều 18. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện

"1. Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình.

2. Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết."

Do đó, ông H gửi đơn khiếu nại đến CT UBND huyện là không đúng thẩm quyền giải quyết của CTUBND huyện. Đơn khiếu nại của ông H sẽ không được giải quyết mà "Đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị thì người xử lý đơn hướng dẫn người khiếu nại gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết. Việc hướng dẫn chỉ thực hiện một lần đối với công dân theo Mẫu số 03 - XLĐ ban hành kèm theo Thông tư này". Như vậy, đơn khiếu nại của ông H sẽ bị trả lại, đồng thời ông cũng được hướng dẫn gửi đơn đến UBND xã X để được giải quyết theo thẩm quyền.


TT 07/2014/TT-TTCP quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN KỸ NĂNG TƯ VẤN ĐẤT ĐAIWhere stories live. Discover now