Chương 13: Dòng sông chảy xiết

6 1 0
                                    

Âu Kiêu nhìn thấy nắng trong mắt Meblokir, những ánh lửa hồng tinh nghịch cuộn tròn trong cái giếng nâu, sáng lấp lánh như những hạt vàng nhảy nhót trên Cánh Đồng Tương quê nhà. Y thả tay mình xuống dòng nước mát lành, tưới cho mảnh đất màu mỡ trong lòng nảy mầm ra lộc. Thế rồi, nụ cười của hai chàng trai gặp nhau; một tiếng thở dài thanh thản được trút ra từ hai bộ ngực, vạm vỡ, rắn chắc. Âu Kiêu ngả đầu mình lên vai Meblokir. Y khép mắt mình lại, lim dim hàng mi dài xinh đẹp, kiều diễm tới lạ.

"Cậu có lo không?", Meblokir hỏi.

"Tớ lo chứ.", Âu Kiêu thì thầm, "Nhưng cậu hãy lắng nghe mà xem, mùi cây lúa thật mát làm sao. Cậu hãy nhắm mắt lại đi, cậu có nghe thấy tiếng của cò mò tép đồng không; cậu có nghe thấy xào xạc của khỉ đang nhảy nhót ra khỏi rừng thâm để ngắm lấy buổi hoàng hôn đẹp đẽ này không."

Những ánh dương cuối cùng le lói qua từng lớp cây cối, phả hồng hào xuống cánh đồng xanh thơm ngát. Một cơn gió thổi qua, sương đêm đã bắt đầu phủ lên mọi vật. Âu Kiêu không biết tự bao giờ đã ôm chầm lấy sông Cả trong lòng như tri kỷ. Y đã từng tâm sự mọi chuyện với sông đương khi ở Kinh đô, đã từng tắm cùng với sông, với Meblokir và Topalae sau mỗi lần đi tập luyện về. Song, sông Cả khúc này không trẻ trung như thế vậy, chẳng tấp nập những bến thuyền như hồi còn ở tại Kinh thành; ta đi ngược dòng sông Cả để tìm về một dòng nước thanh mát hơn, trang nghiêm hơn. Khi Bloi khai thiên lập địa, có một trăm con Voi khổng lồ tự đâu tiến về đất tổ mà quỳ phục. Chín mươi chín ngọn Voi Phục quỳ xuống trang nghiêm, duy chỉ còn con Voi thứ một trăm đã bị các vị thần cướp mất đi thủ cấp vì không chịu quỳ phục ông Bloi mà máu chảy thành sông. Lạ thay, dòng nước ấy trong vắt như bầu trời. Hóa ra, Voi quay đầu để xem còn sót kẻ nào, lại bị kết tội là bất kính. Thế nên, Bloi đã mang linh hồn của Voi trả lại cho sông, trả lại cho Voi dòng đức hạnh thơm lừng vốn có của nó, để nó toàn tâm dâng lên trời đất những thứ hoa thơm, cỏ lạ giản dị mà đầy thành ý. Màu nước sông Cả cũng vì thế khác những dòng sông khác. Nó không có màu đỏ giận giữ của Tam Đại Trường giang mỗi độ thu về, cũng không bao giờ loang lổ như nước Rào Trăng ở Cận Mễ. Màu xanh của sông Cả là màu xanh của bầu trời và của hai bên bờ huyền thoại; nó ngây thơ như một đứa trẻ thiên thần, hay như một thiếu nữ dịu dàng tựa vào đất trời mà yêu thương lấy muôn người, vạn kẻ, và tất thảy chúng sinh.

Đi qua một khúc sông khác, ta lại thấy những vùng lau mọc lên như một bức tường thành, nơi ẩn nấp của muôn vàn binh sĩ đang chầu chực để xông ra đánh phá kẻ thù lăm le muốn xâm lược lãnh địa của thiên nhiên. Búa Sắt phải chèo thuyền lao lực hơn khúc sông trước; nước chảy xiết và mạnh hơn như thể có hàng vạn con rắn nước và thuồng luồng đang tấn công mũi thuyền. Bọt nước bắn tung tóe, con thuyền chông chênh, kim loại lạo xạo đập vào nhau. Trời đã sẩm tối, dòng sông như một dòng mực đen ngòm lạnh lùng và vô tâm, như một người đàn bà già cáu kỉnh, khó chiều. Thế rồi, bầu trời dệt cho bà ta một bộ váy lộng lẫy từ những vì sao, là những thiên thể tinh nghịch, hay những quả cầu lửa kháu khỉnh, lúc thì xà xuống lúc lại bay về nơi vũ trụ xa xôi, như muốn chơi với kẻ du hành, như muốn đùa vui với dòng sông để xoa dịu bớt cái tính nết thất thường ấy. Sông lại chảy qua động Ông, để trẻ lại một cách bất thường, đáng sợ. Nước sông man dại và điên cuồng, rừng rực như ngọn đuốc cháy trên tay của Ư Tạng và Vua Cú. Tiếng nước ào ào cuộn tròn trong những hốc đá ngầm, đập chan chát vào những tảng đá nổi chắn giữa sông, vang vọng khắp hang động khổng lồ như tiếng rên đầy khoái cảm và thỏa mãn để rồi khi ngược ra khỏi động Ông không trần là một khung cảnh kỳ vĩ nơi thượng nguồn. Dòng sông nhỏ lại, nhưng hoang dã hơn, đáng gờm hơn. Những con Voi ngồi phục san sát lại như lối đi chật chội trong mê cung. Mặt trời mọc lên từ phía hạ nguồn, nhưng ánh nắng lại bị đỉnh động Ông che đi mất.

Bách Sá trượt tay chống lên mạn thuyền. Mắt lão xám đục như màu nước nhiễm độc. Krảus nhận thấy điều bất thường, lo lắng hỏi:

"Bách Sá à, ngài đã cảm thấy điều gì đó sao?"

"Khúc sông này không còn an toàn nữa; từ rày, chúng ta phải cẩn trọng hơn. Đêm nay ta nên đậu vào bờ để đốt lửa và nghe ngóng thêm."

"Bách Sá!", Púashắk hằn giọng như có bão trong lòng, "Cận Mễ Đô có ổn không?"

"Ta không dám nói chắc, hỡi con trai của Methangkeos. Nhưng đôi tay ta cảm thấy máu ở thượng nguồn đang chảy về. Rất nhiều."

"Vậy chúng ta phải nhanh tiến về Nub Rygal chứ? Chúng ta phải..."

"Không!" Mặt nước rung chuyển. Ta nghe thấy tiếng rầm ở mạn thuyền và nhìn thấy bàn tay Bách Sá nắm chặt.

Púashắk không nhưng nhị gì nữa. Ông ta ngồi phịch xuống chán nản, chốc chốc lại lấy lược chải râu làm rơi một vài hạt cơm đã khô, vàng cả lại; chốc chốc lại lấy chiếc que tre để xỉa răng. Púashắk ăn rất nhiều; ông ta có thể ăn bốn cái đùi gà rừng nướng và một chai rượu trong một bữa tối. Mọi người đều thích nhìn ông ta ăn. Nếu như có một nghề chỉ ăn cho mọi người xem và giải trí thì có lẽ Púashắk có thể kiếm được nhiều bạc và vàng hơn cho vương quốc giàu có của ông ta. Púashắk ngủ yên bình đến lạ, lạ tới nỗi không ai nghĩ ông ta đang sốt ruột trở về quê hương. Tiếng ngáy của lão như có tiếng chim hót trong rừng, chẳng hề khó chịu, lại ru cả Vệ Hội trằn trọc vào những giấc mơ yên lành và thầm kín nhất của họ.

Có lẽ lão ta đang mơ về thủ đô Nub Rygal, Kinh đô phía Tây với những tòa nhà Bệ Núi mà họ gọi là Ridabsa, được xây thành những bậc, bệ cao lớn nguy nga. Bệ này đặt trên bệ cao hơn, càng lên cao càng thu hẹp lại. Trong giấc mơ, Púashắk đang bước đi trên những bậc thang men theo khối xây để đi lên đỉnh tháp, nơi có vợ và những đứa con yêu quý của lão. Ông ta vuốt ve những Hoàng Tử, Công Chúa và đặt một nụ hôn lên trán Hoàng Hậu. Lúc sau, ông ta lại đang trên con thuyền của Thạch Vệ Hội, bình thản trôi theo dòng những con kênh vắng vẻ lạ kỳ của Nub Rygal mờ sương. Dây đèn lồng chằng chịt giăng khắp những con đường với đủ màu sắc, loang lổ trên nền trời ẩm ướt. Nhưng những ca sĩ chẳng còn lang thang cùng với nhạc cụ của họ, hay thả vào không gian những âm điệu lạ lùng nữa. Púashắk cũng không thấy những người dân của mình. Những dòng kênh bắt đầu trở nên hôi hám; máu loang lổ khắp mọi nơi mọi chốn. Và từ mọi nơi mọi chốn, những xác người trong bộ Snambura sặc sỡ đã bị nhuốm đỏ nổi lềnh phềnh, đặc sệt lại, đem ngòm. Những núi đồi không còn thấy tiếng cười hào sảng của người Cận Mễ; những mỏ đồng và vàng sâu thẳm, những công xưởng đúc rèn không bao giờ ngủ đã làm nên tên tuổi và sự giàu có của Nub Rygal đã tắt lửa, ngủ yên như không bao giờ sống lại được nữa.

"Di Nub-Rygal ret! Di ng'lai nang ret! Chào mừng tới Nub-Rygal, quê hương của ta!"

Ông ta đã muốn kể về quê hương đẹp đẽ của mình với những người bạn mới quen; về những người lùn phương Tây nhanh nhẹn, hoạt bát, mũi to mắt híp và trán cao; về những bộ Snambura dài đến đất. Về lịch sử đáng tự hào của dân tộc lão, về thứ ngôn ngữ đáng yêu và bay bổng của âm nhạc và thi ca. Nhưng tất cả không còn gì nữa; Nub Rygal chìm trong biển lửa mênh mông như thể con quái thú từ Shắkhar Mladar đã sổng chuồng.

Âu Kiêu và Búa Sắt choàng tỉnh dậy; cả hai đều ướt đẫm mồ hôi. 

24. Snambura: Chúng là những tấm vải mềm mà người Nub Rygal khoác lên vai phải, để lộ vai trái, buộc lại ở eo

Khúc Tráng Ca Âu KiêuWhere stories live. Discover now